Giờ đã sang hạ, năm Kaei thứ bảy (Tây lịch 1854).
Nhắc đến nét đặc trưng của mùa hạ Edo, không thể không kể đến lễ shiman-rokusen-nichi ở chùa Sensou.
Trong Phật giáo, có những ngày được xem là đặc biệt, ví như ngày lành của Bồ Tát Quán Âm vào mười tám hàng tháng. Ngoài ra, cũng có những ngày công đức khác được cử hành chính thức từ thời Muromachi (1336-1573). Đến chùa cầu nguyện vào một trong những ngày này, người đi lễ sẽ được hưởng phúc lành lớn hơn bội phần. Chẳng hạn, người ta tin rằng lời cầu nguyện vào ngày 10 tháng 7 sẽ mang lại công đức tương đương một nghìn ngày viếng chùa, đây là phúc lành lớn nhất. Vì lẽ đó, ngày 10 tháng 7 được gọi là sennichi-mairi, tức “một nghìn lần viếng”.
Tuy nhiên, tại chùa Sensou, cùng ngày đó lại được gọi là shiman-rokusen-nichi, nghĩa là 46.000 ngày, bởi nó được coi là mang lại phúc lành tương đương 46.000 ngày viếng.
Lẽ dĩ nhiên, rất nhiều thường dân mong muốn là người đầu tiên đến chùa cầu nguyện vào ngày shiman-rokusen-nichi, vì vậy đám đông đã bắt đầu tụ tập từ ngày hôm trước. Để tận dụng dòng người hành hương đông đảo, nhiều nơi đã quyết định tổ chức chợ và lễ hội. Ngay cả chính chùa Sensou cũng bắt đầu mở Chợ Cây Đèn Lồng, để các tín đồ có thể thỏa sức dạo qua những gian hàng đa dạng nằm dọc con đường dẫn lên chánh điện.
“…Chuyện là vậy đó. Nghe hay ho thật đúng không? Hay là ngày mai chúng ta cùng đến Chợ Cây Đèn Lồng xem thử đi??”
Vào một ngày hè oi bức, Zenji đột ngột xông vào quán Kihee và bắt đầu huyên thuyên đầy phấn khích về Chợ Cây Đèn Lồng. Sinh ra và lớn lên ở Edo, anh ta mang trong mình cái tính năng nổ, ương bướng thường được gán cho người dân nơi đây.
“Ồ, đã đến mùa này rồi cơ à?” ông chủ quán nói với chút hào hứng.
Lúc đó là giờ ăn trưa, nên quán cũng có kha khá khách. Ít nhất là nếu coi bốn người—Jinya, Natsu, Zenji, và Naotsugu, người giờ đã là khách quen—là kha khá. Nói thật thì, chỉ toàn là khách quen, nên việc kinh doanh cũng chẳng phát đạt gì cho cam. Mọi người nhìn Zenji, kẻ vừa bước vào quán như một cơn bão sống, với vẻ nửa sững sờ. Về phần mình, Zenji lại có vẻ hài lòng một cách kỳ lạ, vì đã nói được hết những gì mình muốn.
“Chẳng phải anh có việc hay sao?” Natsu lên tiếng.
“Bây giờ ấy à? Tôi đã bảo mọi người là tôi nghỉ trưa. Còn nếu cô hỏi ngày mai, tôi định bụng sẽ xin Jyuuzou-sama cho nghỉ một hôm.”
“Thật không thể tin nổi anh…” Cô ném cho anh một cái nhìn lạnh lùng, chán nản, nhưng anh chỉ cười toe toét như thể chắc mẩm mọi chuyện sẽ ổn thỏa.
Anh ta đôi khi hành động khá bốc đồng, nhưng Zenji thực chất là một nhân viên tại cửa hàng Sugaya, và được kỳ vọng sẽ trở thành quản lý trong tương lai. Vậy mà giờ đây, anh ta lại mong được nghỉ việc để đi chơi. Thật không dám tưởng tượng Jyuuzou đã phải đau đầu đến mức nào.
“Thôi nào, đừng nói thế chứ, cô Natsu. Có sự kiện lớn thì muốn xả hơi một chút cũng là chuyện thường tình thôi,” anh nói.
“Đúng là sẽ thật lãng phí nếu không đi,” Ofuu nói xen vào.
“Chính xác! Cô hiểu ý tôi rồi đấy, Ofuu!” Được những lời đồng tình của Ofuu khích lệ, anh quay sang Naotsugu, người đang thản nhiên nhấp trà sau bữa ăn.
“Naotsugu, anh không muốn nghỉ ngơi một chút sao?”
Natsu cắt ngang, “Này, anh không nghĩ mình hơi quá suồng sã với Miura-sama sao?”
“Không, không, Naotsugu và tôi là bạn chí cốt! Giữa chúng tôi không cần câu nệ lễ nghi,” Zenji quả quyết, và Naotsugu gật đầu đồng tình.
“Vậy, anh tính sao?”
Naotsugu ái ngại cúi đầu. “Tiếc là ngày mai tôi phải làm việc trong thành.”
“À, ra vậy… Tiếc thật.”
Naotsugu là một thư ký chuyên xử lý công văn cho Mạc phủ. Lịch trình của anh không có nhiều sự linh hoạt. Zenji không cố nài ép Naotsugu nữa mà chuyển mục tiêu sang Jinya. Naotsugu là samurai, việc không thể linh động là điều dễ hiểu, nhưng Jinya lại là một lãng nhân với công việc thất thường. Miễn là không có yêu cầu diệt quỷ nào, cậu sẽ chẳng có việc gì để làm—nói cách khác, cậu không có lý do gì để từ chối.
Zenji rướn người về phía trước, hỏi, “Còn cậu thì sao, Jinya? Cậu rảnh mà, đúng không? Cậu sẽ đi, đúng chứ?!”
“Tôi xin kiếu.”
“Ít nhất cũng suy nghĩ một chút đi chứ…”
Jinya cảm thấy hơi áy náy khi thấy Zenji thất vọng đến vậy, nhưng dù sao cậu vẫn phải từ chối. Jinya không thể cho phép mình tận hưởng cuộc sống—ít nhất là không hoàn toàn. Cậu đã bớt cứng nhắc hơn xưa, bằng chứng là thỉnh thoảng cậu vẫn uống rượu và ăn mochi, nhưng cậu do dự khi nghĩ đến việc quá đà bằng cách tham gia vào những lễ hội lớn. Hình ảnh Shirayuki với cái đầu bị xé lìa vẫn còn in sâu trong tâm trí cậu. Cậu không thể cho phép bản thân quên đi cảnh tượng ấy để mải mê vui đùa.
“Cậu nên thử một lần xem sao, Jinya-kun,” Ofuu nói. Cô mỉm cười dịu dàng, như thể đã thấu tỏ điều gì. “Thỉnh thoảng thư giãn một chút cũng tốt. Cậu còn cả một chặng đường dài phía trước, cậu biết mà?”
Đúng là vậy. Tuổi thọ của một con quỷ rất dài. Thời gian cậu dành để đi lễ hội cũng chỉ là một khoảnh khắc thoáng qua trong cuộc đời dài đằng đẵng của mình. Vậy thì nó khác gì một ly rượu hay một miếng mochi? Rốt cuộc, chúng đều là những thú vui nhất thời. Sẽ chẳng có gì thay đổi. Ẩn sau những lời nói bâng quơ của Ofuu là một lời khuyên ân cần và cần thiết.
“Chắc em sẽ đi,” Natsu nói. “Nếu anh cũng đến, Jinya, em sẽ đãi anh món isobe mochi.”
“Sao lại là isobe mochi?” Zenji hỏi.
“Không có lý do gì đặc biệt cả.” Cô quay đi, cố nén một nụ cười.
Nghĩ lại thì, Jinya chỉ kể cho Natsu nghe việc cậu thích isobe mochi; những người khác đều tỏ vẻ không biết gì.
“Sao cậu không đi, Jin-dono? Mọi người có vẻ thực sự muốn cậu đi cùng,” Naotsugu nói.
Anh nói chuyện với Jinya bớt phần cứng nhắc, có lẽ vì họ trông trạc tuổi nhau. Trên gương mặt người đàn ông vốn quá nghiêm túc này chợt nở một nụ cười hiếm hoi. “Tôi có thể không đi được, nhưng xin cậu, hãy thay tôi tận hưởng nhé.”
Trước khi Jinya kịp nhận ra, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía cậu. Dù vậy, cậu không cảm thấy bị dồn vào thế khó. Cậu có thể cảm nhận được lòng tốt của họ, nhưng câu trả lời của cậu sẽ không thay đổi dù họ nói gì đi nữa.
“Cảm ơn vì đã mời, nhưng không may là ngày mai tôi đã có việc rồi.”
Cậu khẽ nắm chặt thanh kiếm bên hông, và Natsu cau mày. Cô hỏi, “Lại đi diệt quỷ à?”
Cậu gật đầu. Đó không phải là lời nói dối, nhưng cũng không hoàn toàn là sự thật. Công việc diễn ra vào ban đêm, nên thực ra cậu vẫn có thời gian đến lễ hội vào ban ngày, nhưng cậu chỉ là không thể ép mình làm vậy.
“Chà, đành chịu vậy,” Zenji nói. “Còn cô thì sao, Ofuu? Có muốn đi không?”
“Chà…” Cô do dự. Cô có vẻ lo lắng không biết quán có ổn không nếu vắng mình.
Ông chủ quán vui vẻ mỉm cười, nói, “Đừng lo, cứ đi chơi cho vui đi.”
“Nhưng còn quán thì sao ạ?”
“Sẽ ổn thôi. Dù sao cũng có khách nào ghé qua đâu. Tôi tự mình xoay xở được.”
Hai người qua lại một lúc, ông cứ khăng khăng bảo cô đi chơi, và cuối cùng cô cũng chịu thua.
“Cơ hội thế này đâu phải lúc nào cũng có,” ông chủ quán nói. “Cứ đi bay nhảy một chút đi.”
“…Vâng ạ. Zenji-san, tôi nghĩ tôi muốn đi cùng anh.”
“Được rồi, hú hú! Xin lỗi nhé, Jinya, Naotsugu. Ngày mai, gã này sẽ độc chiếm các quý cô đây!”
Cuối cùng, chỉ có Zenji, Natsu và Ofuu là sẽ đến Chợ Cây Đèn Lồng. Những người đàn ông còn lại nhìn theo với vẻ mặt dửng dưng, không biết phải phản ứng thế nào trước lời khoe khoang của anh ta.
*
“Và cuối cùng, anh ta lại chẳng thể xin nghỉ được.”
“Ôi trời…”
Vào ngày diễn ra Chợ Cây Đèn Lồng, chỉ có hai cô gái đứng trước Cổng Kaminarimon, lối vào uy nghiêm của khuôn viên chùa Sensou. Zenji đã bị kẹt lại làm việc ở Sugaya. Yêu cầu xin nghỉ của anh đã bị Jyuuzou bác bỏ, người đã nhắc nhở Zenji rằng đó đơn giản là đạo của thương nhân, làm việc trong khi người khác vui chơi. Dĩ nhiên, Natsu đã lường trước được mọi chuyện.
“Chị nên thấy vẻ mặt của anh ta lúc đó. Em thực sự nghĩ rằng anh ta sắp khóc đến nơi.”
“A ha ha…” Ofuu cười gượng, dễ dàng hình dung ra cảnh Zenji đang ủ rũ. “Vậy, kế hoạch của chúng ta là gì?”
“Chà, đã đến đây rồi thì cứ đi xem một vòng thôi.”
“Chị đồng ý. Chỉ có hai chị em mình.”
“Vâng! Cần gì mấy gã ngốc đó chứ?”
Hai người che miệng cười khúc khích. Họ đã ra ngoài để vui chơi một chút trước lễ hội, chỉ có hai người. Diễn biến này tuy không nằm trong kế hoạch, nhưng dù sao cũng là một điều đáng mừng.
“Chúng ta đi chứ?”
“Đi thôi ạ.”
Hai bên lối đi trải dài từ Cổng Kaminarimon đến Cổng Houzoumon là những gian hàng bán đồ trang sức và quà vặt. Nơi này thường được gọi là phố mua sắm Nakamise. Ngay cả dưới cái nắng hè gay gắt, nơi đây vẫn đông nghịt người đến mức khó đi lại. Cả hai để cho không khí lễ hội cuốn đi và thỏa thích ngắm nghía các gian hàng, thỉnh thoảng lại mua một thứ gì đó để ăn vặt.
“Đông quá,” Natsu nhận xét.
“Đông thật, hi hi! Em biết không, chị cứ có cảm giác như chúng ta đang làm điều gì đó nghịch ngợm vậy,” Ofuu nói.
Trong tay họ là những chiếc bánh manju vừa mới mua. Vừa đi vừa ăn thường bị coi là không lịch sự, nhưng đó cũng là một trong những nét hấp dẫn của các lễ hội.
“Tại sao chứ? Chúng ta đâu có làm gì sai. Ở lễ hội ai cũng làm vậy mà.”
Họ cắn một miếng bánh rồi nhìn nhau mỉm cười.
Sau đó, họ để cho dòng người cuốn mình đi. Họ thấy những gian hàng bán đèn lồng giấy, lược, bánh bao và đủ thứ khác. Cuối cùng, họ đến một ngôi chùa lộng lẫy được sơn son—chính là chùa Sensou. Chùa Sensou còn được biết đến với tên đầy đủ là Kinryuzan Sensou, và một tên khác là Sensou Kannon. Lịch sử của ngôi chùa đã có từ rất lâu, bắt đầu từ thời Nữ hoàng Suiko (năm 628) khi ba anh em kéo lưới được một bức tượng Quan Âm và thờ phụng trong một ngôi chùa mái tranh. Ngày nay, nó được biết đến là ngôi chùa chính thức của gia tộc Tokugawa và là nơi sầm uất nhất toàn bộ phía đông đất nước trong các dịp lễ hội.
“Đúng là giữa hạ rồi…” Natsu thì thầm khi ngắm nhìn vô số cây đèn lồng đỏ.
Sâu hơn trong khuôn viên chùa, cô có thể thấy nhiều gian hàng bán những cây đèn lồng hình lục giác, màu cam đỏ, thứ đã làm nên tên tuổi của lễ hội. Vào thời điểm này trong mùa, chúng có hình dạng của một quả chứ không phải một bông hoa. Trông chúng giống như những chiếc đèn lồng giấy và dễ nhận biết hơn so với khi còn là dạng hoa. Chúng là một món đồ đặc trưng của mùa hè, và cảnh chúng đung đưa trong làn gió mát thỉnh thoảng thật đáng yêu.
“Tại sao cây đèn lồng lại được gọi là houzuki vậy ạ?” Natsu tò mò hỏi, nghĩ rằng Ofuu, với kiến thức sâu rộng về hoa của mình, có thể biết điều gì đó thú vị.
“Không ai thực sự biết tại sao, nhưng có nhiều giả thuyết. Một số người nói đó là vì quả bên trong có màu đỏ, giống như đôi má ửng hồng (houzuki), người khác lại nói nó có thể bắt nguồn từ từ có nghĩa là ‘bốc cháy’ (hohotsuki), dựa vào vẻ ngoài của nó.”
“Hả. Vậy sao.”
“Tùy thuộc vào cách viết, houzuki thậm chí có thể được đọc là ‘đèn lồng của quỷ’. Ai biết được, có lẽ quỷ dùng nó vào ban đêm.”
“Ugh, thôi đi. Giờ em chẳng muốn mua một cái nào nữa.” Natsu không có những kỷ niệm đẹp đẽ gì về quỷ. Sự cố với con quỷ mưng mủ đó có lẽ không hoàn toàn là tệ, vì nhờ nó mà cô đã có thể thừa nhận con người thật của mình, nhưng việc nhớ lại sự việc đó đã làm tâm trạng cô chùng xuống.
“Em không thích quỷ à?” Ofuu hỏi.
“Có ai thích chúng sao?” Natsu vặn lại.
“Hi hi, cũng đúng.” Quỷ và người không bao giờ có thể hòa hợp—đó là điều không cần phải bàn cãi.
Ofuu mỉm cười vui vẻ, những suy nghĩ nội tâm của cô thật khó đoán.
“Có lẽ em ghét chúng hơn người khác một chút, vì em đã bị quỷ tấn công hai lần rồi,” Natsu nói. “Thật lòng mà nói, em khá chắc mình đã chết nếu không có anh ấy.”
“Em đang nói đến Jinya à?”
“Vâng. Khoảng bốn năm trước, anh ấy đã bảo vệ em trong hai đêm. Lúc đó em còn trẻ con lắm; em đã nghĩ anh ấy trông giống như một trong những kiếm khách trong các câu chuyện cổ tích.”
“À, giống như Watanabe-no-Tsuna?”
“Chính xác là giống Watanabe-no-Tsuna. Em không thể tin được ai đó thực sự có thể chặt đứt cánh tay của một con quỷ như không, nhưng Jinya đã làm được điều đó.”
Cô nhớ lại cách cậu hiên ngang xuất hiện và nói một cách mỉa mai, “Nào, cô muốn mua dịch vụ của ta với giá bao nhiêu?” trước khi đối đầu với con quỷ. Cậu dường như là một nhân vật bước ra từ vở kịch kabuki. Cô đã nghĩ cậu thật anh hùng, dù sự trẻ con đã ngăn cô thể hiện điều đó.
“Em thực sự thích cậu ấy, phải không?” Ofuu nói, không một chút trêu chọc trong giọng nói.
“…Không phải theo kiểu đó đâu.” Natsu hơi đỏ mặt trước giọng điệu nghiêm túc của Ofuu.
Tuy nhiên, sau đó cô dừng lại, và từ từ ngoảnh đi. “Thực sự không phải. Em đã từng nghĩ anh ấy là một loại anh hùng nào đó, một kiếm khách bậc thầy có thể giết quỷ trong một nhát chém. Em đã từng…”
Ánh mắt cô hướng về những cây đèn lồng. Có lẽ vì tâm trạng chán nản, những quả cầu màu đỏ trông thật bất lực khi chúng lơ lửng trong gió, chồng lên hình ảnh những chiếc đèn lồng.
“Anh ấy từng nói với em rằng anh ấy không thực sự biết tại sao mình làm những gì mình làm, hay tất cả sẽ dẫn đến đâu.”
Cô kể lại những lời đã khiến hình ảnh của cậu trong cô bắt đầu thay đổi.
“Lúc đó, em đã nghĩ đó chỉ là điều mà một anh hùng cổ tích như anh ấy sẽ nói… Nhưng lúc đó anh ấy trông thật mong manh, không giống chút nào với hình ảnh kiếm khách mà em từng có về anh ấy.”
Một người mà cô từng xem là vĩ đại bỗng nhiên trông thật nhỏ bé. Ấy thế mà cô không cảm thấy thương hại, mà ngược lại. “Nhưng điều đó làm em hạnh phúc.”
“Hạnh phúc?”
“Vâng. Em đã thấy một chút bản thân mình trong anh ấy. Em đã từng ghét việc mình che giấu những điều không muốn thừa nhận, nhưng vẫn đòi hỏi tình yêu từ người khác. Thấy anh ấy cũng có những con quỷ của riêng mình làm em cảm thấy… nhẹ nhõm.”
Những cảm xúc cô có không thể nào là tình yêu. Đó chỉ là niềm vui khi được đắm mình trong sự thương hại lẫn nhau. Sự dễ chịu khi ở bên cậu, nói cho cùng, cũng chỉ là niềm an ủi của những kẻ cùng liếm láp vết thương cho nhau mà thôi. Gọi một thứ như vậy là tình yêu thì thật sai lầm. “Nói rằng em thích anh ấy theo kiểu đó sẽ là bất lịch sự với tất cả các cặp đôi trên thế giới… Vâng. Xin lỗi, câu chuyện đã đi theo một hướng kỳ lạ.”
“Không, không sao đâu. Nhưng chị đồng ý. Hai em rất giống nhau.”
“Giống nhau ở điểm nào ạ?”
“Cả hai đều cố gắng hết sức để không thừa nhận cảm xúc của chính mình.” Ofuu mỉm cười dịu dàng.
Lần đầu tiên, Natsu thấy ở cô một sự dịu dàng của người mẹ. Ofuu không thể lớn hơn cô nhiều tuổi, nhưng bằng cách nào đó cô lại có vẻ trưởng thành hơn rất nhiều. Natsu tự hỏi chính Ofuu cảm thấy thế nào về Jinya. Tò mò, cô ngập ngừng định hỏi.
“Này, Ofuu-san…” Tuy nhiên, cô đã bị một giọng nói khác ngắt lời.
“Này, cô nhóc, sao không đến xem hàng của ta một chút?”
Natsu giật mình, rồi nhanh chóng quay về phía giọng nói. Ngay bên cạnh một hàng cây đèn lồng được treo lên là một người đàn ông đang ngồi khoanh chân trên một tấm thảm, vẫy cô lại. Trước mặt ông ta là một số vật phẩm nhỏ. Một người bán hàng rong, Natsu nghĩ, đang tận dụng Chợ Cây Đèn Lồng để chào hàng. Ông ta mặc một chiếc áo choàng lụa rộng thùng thình với tay áo dài rủ xuống, là trang phục thường ngày của tầng lớp thượng lưu, dù ông ta không giống người xuất thân từ một gia đình samurai. Bỏ qua địa vị của ông ta, đó là một lựa chọn quần áo kỳ lạ để bán hàng rong. Tất cả những gì ông ta cần là một chiếc mũ đen cao và màu sắc trầm hơn một chút là có thể bị nhầm thành một thầy tế Shinto.
“Ồ, Akitsu-san.”
“Chào, Ofuu-chan.”
“Hôm nay anh làm gì ở đây vậy?”
“Đúng như vẻ ngoài của nó: bán hàng rong. Cứ tự nhiên mua thứ gì đó nếu cô thích.”
Ông ta nói với Ofuu một cách suồng sã, như người ta nói với một đứa trẻ.
Hơi ngạc nhiên, Natsu kín đáo thì thầm với Ofuu, “Suỵt, gã này là ai vậy?”
“Một khách hàng đã nhận hàng từ chúng ta từ khoảng năm ngoái. Anh ấy đến từ Kyoto.”
“Thật sao…” Natsu mơ hồ nhớ lại ông chủ quán đã từng đề cập đến điều gì đó tương tự trước đây.
Cô nhìn lại người đàn ông và thấy một nụ cười toe toét trên khuôn mặt ông ta. Cô không thể nào tin tưởng ông ta được, cho dù điều đó khiến cô có vẻ thô lỗ đến đâu.
“Ta là Akitsu Somegorou. Rất hân hạnh, cô nhóc,” ông ta nói với chất giọng đặc sệt của mình.
“…Hừm. Đúng là một cái tên ông đang mạo danh.” Cô nheo mắt trong một cái nhìn lạnh như băng.
Akitsu Somegorou là một thợ kim loại nổi tiếng hoạt động trong khoảng thời gian từ thời Meiwa đến Kansei (1750~1800). Ông chuyên về lược, các bộ phận của kiếm, và các vật phẩm tương tự khác, và kỹ thuật chạm nổi đơn giản nhưng chi tiết của ông vẫn còn phổ biến cho đến ngày nay. Lược Somegorou là một món đồ quý giá mà ngay cả Sugaya cũng không thường thấy. Chỉ có một kẻ hoàn toàn ngốc nghếch mới nghĩ đến việc sử dụng tên của ông làm tên của mình.
Người đàn ông này đang nghĩ gì vậy?
“Đừng lo lắng về tên của ta làm gì. Lại đây, xem hàng của ta đi.”
Có rất nhiều loại vật phẩm được bày ra trước mặt người đàn ông: tượng điêu khắc netsuke, kẹp tóc, lược, gương tay, búp bê giấy bồi hariko, tẩu thuốc—bất cứ thứ gì bạn muốn, ông ta đều có. Đó là một tập hợp đa dạng của cả đồ gỗ và đồ kim loại, được xếp thành hàng không theo một trật tự nào, như thể chúng được bày ra một cách bừa bãi… Tuy nhiên, chất lượng của các vật phẩm trông cũng tạm được.
“Để xem nào… Ta đoán một cô gái ở tuổi cô có thể sẽ hứng thú với thứ gì đó như… thế này.”
Ông ta lướt qua hàng hóa của mình trước khi chộp lấy một cặp vỏ sò có hình vẽ bằng sơn mài bên trong.
“Đó có phải là vỏ sò awasegai không?”
“Ồ, ta ngạc nhiên là cô lại biết về những thứ này.”
“Tôi là con gái của một thương nhân, nên tôi cũng biết một hai điều.”
Sugaya kinh doanh các vật phẩm nhỏ như lược và tượng điêu khắc netsuke, cũng như vỏ sò awasegai. Kiến thức của cô về đồ thủ công còn hạn chế, nhưng cô có thể nói rằng những chiếc vỏ sò awasegai này có chất lượng tuyệt vời. Những bức tranh phong cảnh mùa xuân giống hệt nhau được vẽ trên nền đen tuyền của chúng trông thật sống động. Thật là một điều kỳ diệu khi một tác phẩm nghệ thuật như vậy lại ở đây với một người bán hàng rong nào đó.
“Trông nó hơi cũ, nhưng được làm rất tốt.”
Có một trò chơi quý tộc cũ từ thời Heian (794-1185) gọi là kaiawase, bao gồm việc thi đấu về vẻ đẹp hoặc sự độc đáo của màu sắc và hình dạng của các loại vỏ sò khác nhau. Đôi khi người chơi cũng sẽ làm thơ sử dụng vỏ sò làm mô-típ như một phần của cuộc thi. Từ trò chơi kaiawase này đã phát triển một trò chơi khác gọi là kaiooi, sử dụng nhiều nửa tách rời của những con sò nguyên vẹn mà người chơi phải cố gắng ghép lại (tương tự như trò chơi lật hình ngày nay). Những chiếc vỏ sò được sử dụng trong kaiooi được gọi là vỏ sò awasegai. Khoảng đầu thời Edo, việc trang trí bên trong vỏ sò awasegai bằng sơn mài hoặc vàng lá đã trở nên phổ biến. Điều này đã nâng chúng từ những quân cờ đơn thuần thành một thứ hoàn toàn khác.
Vì chỉ có các cặp từ cùng một con sò mới có thể khớp hoàn hảo với nhau, chúng đã được xem như một biểu tượng của sự gắn kết hôn nhân bền chặt. Các gia đình quý tộc và gia đình lãnh chúa phong kiến đã tặng chúng như một phần của hồi môn cô dâu, và ngay cả thường dân đôi khi cũng tặng một nửa vỏ sò cho người mình yêu khi cầu hôn. Món quà là một chiếc vỏ sò về cơ bản là một thông điệp, một lời thề tình yêu—như những chiếc vỏ sò này dành cho nhau, nàng là người duy nhất dành cho ta.
Somegorou nói, “Một cô gái ở tuổi cô chắc hẳn phải có một chàng trai mà cô để ý. Tặng cái này cho cậu ta và hai người sẽ thành một cặp, đảm bảo.”
“Ông đang nói gì vậy? Tôi không có ai như thế cả…” Natsu khẽ lẩm bẩm. Nụ cười của người đàn ông vẫn toe toét như cũ.
Ofuu cười tinh quái. “Đừng nghe lời con bé. Nó có đấy, nhưng nó chỉ quá ngại để thừa nhận thôi.”
“Cái—Ofuu-san?!”
“A ha ha ha, dễ thương thật. Trong trường hợp đó, sao không mua cái này thay thế?”
Ông ta chộp lấy một bức tượng điêu khắc netsuke bằng gỗ hình một chú chim sẻ mũm mĩm.
“Đây là một con netsuke chim sẻ may mắn—dễ thương như cô vậy, ta đoán thế. Do chính tay ta làm đấy.”
Một con chim sẻ may mắn là tên gọi của một con chim sẻ béo tốt, hoặc một con chim sẻ có bộ lông xù lên để chống lạnh. Sự duyên dáng của nó đã khiến nó trở thành một thiết kế phổ biến cho các bức tượng điêu khắc netsuke.
“Nó dễ thương thật…” Natsu đáp. “Nhưng tôi sẽ không mua, Somegorou.”
“Ui da. Thôi được, bỏ qua chất lượng, ta thực sự nghĩ đây là món đồ hoàn hảo cho cô.”
Thấy cô bối rối, ông ta giải thích, “Được rồi, ở nhà Thanh, người ta tin rằng chim sẻ biến thành sò, đúng không?”
“Hả? Thật sao?”
“Chà, bây giờ nó chỉ là một sự mê tín, nhưng ý tưởng về việc chim sẻ biến thành sò vẫn tồn tại. Mọi người có lẽ đã thấy chim sẻ rời đi vào cuối mùa thu và bịa ra cả một câu chuyện về nó.”
“Được rồi, và sao nữa?”
“Chà, ờ… Thấy rằng vỏ sò vẫn còn quá sức đối với cô, có lẽ cô nên lấy một con chim sẻ thay thế.”
“Cái gì, tôi…” Nghe như thể ông ta đang trêu chọc cô vì đã do dự không biết cảm xúc của mình có phải là tình yêu hay không, giống hệt như một đứa trẻ. Cô lườm, nhưng nụ cười nham hiểm của ông ta vẫn không hề suy suyển.
“Không, không, ta không đùa đâu. Ta thực sự nghĩ một con chim sẻ may mắn, đang cố gắng hết sức để chịu đựng cái lạnh, là hoàn hảo cho cô.”
Ông ta thở dài với một vẻ mặt ấm áp. “Lòng người thay đổi, cô nhóc. Sẽ thật tốt nếu một ngày nào đó cảm xúc của cô có thể trở thành một con sò.”
Mong rằng những cảm xúc ẩn dưới đôi cánh của chú chim sẻ may mắn này một ngày nào đó sẽ hóa thành một vỏ sò mà cô có thể dễ dàng sẻ chia…
Những lời nói của ông ta khiến cô hơi sững sờ trong giây lát. Việc cô có phản ứng đã làm cô bực mình, như thể cô đã bị đánh bại. Với một vẻ mặt cau có bực bội, cô nói, “…Ông hoàn toàn sai rồi, nhưng tôi sẽ mua con chim sẻ của ông. Tôi đoán là nó dễ thương.”
“Cái đó sẽ là chín mươi—không, tám mươi mon cho cô.”
“…Tôi sẽ trả, nhưng giá đó hơi đắt.”
“Đàn ông cũng phải kiếm sống chứ.”
Mặc dù đắt, đó là một mức giá cô sẵn sàng trả. Lời nói của ông ta khiến cô bực mình, nhưng chúng cũng không hoàn toàn khó chịu. Với đôi môi bĩu ra, cô trả đủ số tiền xu.
“Rất vui được làm ăn với cô.”
“Tôi cũng vậy.”
Bức tượng điêu khắc netsuke chim sẻ may mắn nằm gọn trong lòng bàn tay cô. Cô siết chặt nó, cảm nhận được sự ấm áp của gỗ, và tự hỏi: Khi mùa đến, liệu cảm xúc của cô có thay đổi hình dạng như con chim sẻ không?
Mình đang nghĩ gì vậy, cô nghĩ, cúi đầu xấu hổ. Những suy nghĩ sến sẩm không mong muốn này chắc chắn là do lỗi của người đàn ông khó chịu này.
“Khoan đã, cô nhóc. Lấy cả cái này nữa, coi như quà tặng.”
“Hả? Ồ, không, ông không cần phải làm vậy.”
“Không sao, không sao.”
Ông ta gần như ép cô nhận một chiếc kẹp tóc bằng kim loại. Đó là một món đồ đơn giản nhưng thanh lịch được tạo hình theo một con chim cu gáy nhỏ. Cô miễn cưỡng nhận lấy, rồi há hốc mồm nhìn nó.
“Đây có phải là một chiếc kẹp tóc Somegorou thật không?” Cô ngạc nhiên khi thấy người đàn ông có một món đồ thủ công Akitsu Somegorou thật, chính hiệu. Đây không phải là thứ mà bạn đem ra làm quà tặng miễn phí, ít nhất là vậy.
“Ta còn vài cái nữa, đừng lo. Cô cứ cầm lấy đi. Ta sẽ vứt nó đi nếu cô không lấy.”
“Ông sẽ làm gì?”
“Ta sẽ vứt nó đi, ta nói rồi.”
Rõ ràng là ông ta đang nói dối. Tác phẩm của Somegorou rất được ưa chuộng và có thể bán được giá cao ở hầu hết mọi nơi. Hẳn phải có điều gì đó rất không ổn với ông ta nếu ông ta cứ thế vứt nó đi.
Natsu do dự không muốn nhận một món đồ như vậy miễn phí. Nhưng người đàn ông chỉ cười toe toét và nói, “Ồ, nhưng không được trả lại, rõ chưa?”
Thật khó để từ chối khi ông ta cứ khăng khăng như vậy. “Tôi sẽ nhận, nhưng… ông có chắc không?”
“Vâng, hoàn toàn chắc chắn. Ta tin rằng, ở bên một người như cô, chiếc trâm ấy sẽ rất vui.”
Người đàn ông nói về món đồ như thể nó còn sống. Điều đó thật kỳ lạ, nhưng Natsu chỉ nghĩ rằng ông ta hẳn là rất tôn trọng đồ vật. Ấn tượng của cô về ông ta thay đổi một chút, và cô liếc xuống chiếc kẹp tóc. Đó là một món đồ tinh xảo, chi tiết và thanh lịch.
“Còn cô thì sao, Ofuu-chan? Có thấy thứ gì cô thích không?” người đàn ông hỏi.
“Tôi xin kiếu, cảm ơn anh.”
“Ồ? Túi tiền của cô cũng chặt chẽ đáng ngạc nhiên nhỉ?” Ông ta làm bộ thất vọng.
Rồi cả hai cùng cười khúc khích trước sự ngớ ngẩn của ông ta.
Ông ta là một người bán hàng rong kỳ lạ; Natsu không thể nào hiểu được người đàn ông này. Dù vậy, việc thuận theo dòng người và trò chuyện với những người chủ quán và người bán hàng rong ngẫu nhiên rất phù hợp với tinh thần của một phiên chợ. Cô đang có tâm trạng tốt, đặc biệt là vì cô đã có được một vài món đồ đẹp từ đó.
“Cảm ơn ông. Chúng ta đi thôi, Ofuu-san?”
“Đi thôi. Giữ gìn sức khỏe nhé, Akitsu-san.”
“Sẽ vậy. Hãy tận hưởng lễ hội một cách trọn vẹn nhất.”
Và thế là, hai cô gái quay trở lại đi xem xung quanh. Bầu trời xanh và những tia nắng chói chang làm chói mắt họ, và trong cái nóng thiêu đốt, những cây đèn lồng đung đưa.
*
Asakusa là khu mua sắm sầm uất nhất của Edo, cũng là nơi có kho gạo lớn nhất của Mạc phủ, Asakusa Okura. Tuy nhiên, kho này không phải là một cơ sở lưu trữ thông thường. Gạo được lưu trữ ở đó được thu làm thuế từ người dân và được sử dụng để trả lương cho các quan chức của Mạc phủ. Với tầm quan trọng của nó, nhiều quan chức được cấp nhà ở gần và trong khuôn viên. Khu phố phía tây của Asakusa Okura được biết đến với tên gọi Kuramae vào khoảng giữa thời Edo, và nhiều người buôn gạo đã mở cửa hàng ở đó.
Jinya đang ở trong khu vực này để ghé thăm một cửa hàng rượu tên là Mizukiya vào lúc nửa đêm, chỉ cách những người buôn gạo một đoạn ngắn. Đó là một cửa hàng lớn, có đến hai nhà kho ở phía sau. Cậu bước vào một trong những nhà kho và từ từ rút kiếm. Bên trong bụi bặm và cũng rộng rãi, vì gạo đã được chuyển đi hết. Sẽ có đủ chỗ để di chuyển nếu cần.
Cậu nghe thấy một tiếng rên rỉ vang vọng—một con quỷ đang ẩn nấp bên trong.
“Tên ngươi là gì?” Jinya hỏi. Cậu không biết hoàn cảnh nào đã đưa con quỷ này đến thế giới này, nhưng dù sao nó cũng đã ở đây. Da nhợt nhạt và mắt đỏ, vẻ mặt oán hận—nó có tất cả các đặc điểm của một con quỷ. Tuy nhiên, nó chỉ cao bằng một nửa Jinya và có hình dáng của một đứa trẻ nhỏ.
“…Kikuo.”
Jinya ghi nhớ cái tên đó. Cậu cảm thấy có chút thương hại cho nó, nhưng không hơn. Lưỡi kiếm của cậu sẽ không nao núng chỉ vì một con quỷ tình cờ là một phụ nữ hay một đứa trẻ.
Chỉ với một nhát kiếm, mọi việc đã xong. Một làn hơi trắng bốc lên, và rồi không còn lại gì. Cậu cảm thấy một cơn nhói nhẹ nhưng cố gắng hết sức để lờ đi.
“Cậu đúng là cứu tinh! Cuối cùng, tôi có thể ngủ yên vào ban đêm. Cảm ơn cậu rất nhiều!”
“Không có gì.”
Chủ cửa hàng Mizukiya đã phóng đại hành động của Jinya, nhưng con quỷ thực sự thuộc loại yếu nhất. Nếu có gì, việc được cảm ơn một cách quá mức như vậy khiến Jinya khó chịu. Con quỷ ngay từ đầu đã không làm gì sai, ngoại trừ việc ở trong nhà kho. Loại cặn bã nào lại kiếm sống bằng cách giết những sinh vật không có khả năng tự vệ như vậy?
Cậu không để lộ ra ngoài, nhưng Jinya tự gièm pha mình trong lòng.
“Đây, tiền công như đã thỏa thuận.”
Jinya kiểm tra nội dung của bọc vải được đưa cho. Bên trong là hai ryo—tức là 8000 mon! Đây là một khoản thanh toán rất hậu hĩnh, nên có lẽ cửa hàng lớn đang làm ăn phát đạt. “Cảm ơn.”
“Ồ, hay là cậu lấy thêm một trong những chai rượu quý của chúng tôi đi? Chúng tôi có một số sản phẩm rất tốt còn chưa được bày bán.”
“Không, cảm ơn. Ông đã cho tôi quá đủ rồi.”
“Nếu cậu chắc chắn.”
Người đàn ông đang rất hào phóng, nhưng Jinya thực sự không thể nhận thêm nữa, nên cậu đã lịch sự từ chối.
“Tạm biệt.”
“Cảm ơn cậu rất nhiều vì đã giúp đỡ! Tôi sẽ trông cậy vào cậu nếu chúng ta có trường hợp tương tự!”
Khách hàng trả tiền rất hậu hĩnh, nhưng vì lý do nào đó Jinya không thể không nghĩ rằng cậu không bao giờ muốn làm việc cho ông ta nữa.
“A, chàng đây rồi, Chàng lãng nhân. Khiến ta phải đợi.”
Cậu bước ra ngoài trong một đêm chỉ được chiếu sáng bởi những vì sao trên cao. Một người phụ nữ chào đón cậu. Nàng gầy, ăn mặc luộm thuộm, và làn da của nàng tái nhợt một cách bệnh tật. Mọi cử động của nàng đều mang một sức quyến rũ uể oải nào đó, và nụ cười nàng dành cho cậu thật tinh nghịch. Nàng là kỹ nữ đường phố mà cậu đã quen biết không lâu trước đây.
“Ta mừng vì thấy chàng không bị thương,” nàng nói.
“Cô lo cho tôi sao?”
“Dĩ nhiên. Sẽ ám ảnh ta nếu chàng chết vì thông tin ta đưa cho.”
Jinya thỉnh thoảng sử dụng khả năng thu thập thông tin của kỹ nữ đường phố. Nàng có thể tiếp cận các kỹ nữ đường phố khác và tất cả những lời thì thầm mà họ nghe được từ khách hàng của mình, đó là thông tin mà Jinya không thể dễ dàng tự mình thu thập. Để trả công cho dịch vụ quý giá này, cậu đưa cho nàng một ryo.
“Chàng có chắc không? Đây không phải là tiền lẻ đâu nhé?”
“Không sao.”
“…Vẻ mặt đó của chàng là sao đây. Ta cho rằng chàng không chỉ đang thương hại một cô gái điếm chứ?” nàng nói một cách tò mò.
Số tiền cậu nhận được cho công việc này cảm thấy không đúng khi giữ lại, vì vậy cậu không hối tiếc khi cho đi một nửa. Như thể nhận ra điều đó, nàng cất tiền đi mà không một lời phản đối nào nữa. Đó là cách cậu thích hơn. Thật lòng, việc được nàng cảm ơn sẽ chỉ khiến cậu không biết nói gì. Kỹ nữ đường phố hiểu rõ nội tâm của cậu, có lẽ là do nghề nghiệp của nàng. Nàng là một trong số rất ít người có thể đọc được suy nghĩ của cậu.
“Có chuyện gì xảy ra, ta đoán vậy?”
“Không có gì đáng nói. Tôi chỉ vừa giết một thứ mà tôi không muốn, thế thôi.”
“Và chàng không thể tha cho họ sao?”
Cậu cau mày và liếc nhìn nàng. Nàng nở một nụ cười nham hiểm.
“Hee hee. Chàng đúng là dễ hiểu quá đi…”
Nàng dường như nhìn thấu cậu, nhưng rồi, cậu cũng không bận tâm. Nàng là một người phụ nữ kỳ lạ, rất kỳ lạ, nhưng cậu có thể hạ thấp cảnh giác khi ở bên nàng, giống như cậu có thể làm với Ofuu và những người khác.
“Sao không tìm một bạn đồng hành qua đêm để vực dậy tinh thần của chàng?” nàng đề nghị.
“Tôi e là tôi phải từ chối.”
“A, thật đáng tiếc. Vậy có lẽ lần sau.” Vẫn uể oải như mọi khi, nàng từ từ xoay một vòng chậm rãi, duyên dáng và định rời đi.
Đi được vài bước, nàng dừng lại và, không quay lại, nói, “Ồ, phải rồi. Gần đây có tin đồn về một người đàn ông săn quỷ. Không phải chàng, mà là một Âm Dương Sư sử dụng các thức thần để chiến đấu.”
“Một thầy bói…”
“Dường như hắn ta sử dụng một thức thần chó và một thức thần chim để chiến đấu. Thông tin này tất nhiên đều có nguồn gốc từ những cuộc trò chuyện trên giường, nên ta không thể đảm bảo tính xác thực của nó.”
Nàng nói vậy, nhưng nàng sẽ không đề cập đến nó nếu nàng nghĩ đó là một tin đồn vô căn cứ. Có lẽ nhận ra rằng Jinya đang xem xét thông tin của nàng một cách nghiêm túc, nàng vui vẻ mỉm cười.
“Hẹn gặp lại lần sau, Chàng lãng nhân. Và chúc may mắn với đối thủ kinh doanh mới của chàng.”
Và thế là, nàng tan vào màn đêm.
Một người đàn ông săn quỷ… Jinya suy ngẫm về lời nói của nàng, rồi đi về nhà. Đêm hè ẩm ướt và không khí oi bức bám lấy da cậu một cách khó chịu.
*
Ngày hôm sau là ngày 10 tháng 7. Đó là một ngày công đức; tuy nhiên, Jinya không đến chùa Sensou mà đến điểm đến thường lệ của mình, quán Kihee. Cậu đã kiếm được một khoản tiền kha khá vào đêm hôm trước nhưng cảm thấy rất tồi tệ. Cậu hy vọng rằng ăn một ít soba sẽ làm tâm trạng cậu khá hơn một chút.
Tuy nhiên, ngay khoảnh khắc cậu cúi xuống dưới tấm rèm cửa, cậu đã bị đón chào bởi những tiếng la hét lo lắng của Ofuu và ông chủ quán.
“Ồ, Jinya-kun!”
“Jinya-kun, giúp với! C-có chuyện gì đó không ổn với Natsu-san!”
“Có chuyện gì vậy?” Jinya nhanh chóng chạy tới.
Natsu dường như đang ngồi xuống bình thường. Điều duy nhất khác biệt ở cô là chiếc kẹp tóc cô đang đeo. Tự hỏi họ có thể lo lắng về điều gì, cậu gọi cô. “Natsu?”
Ánh mắt cô hướng về phía cậu, và bây giờ cậu thấy có điều gì đó không ổn. Đôi mắt cô mất tập trung, và khuôn mặt cô đỏ bừng như thể đang sốt.
“Em sao vậy?” Cậu đưa tay ra chạm vào cô, và cô cũng đưa tay ra.
Cậu bối rối khi cô nắm lấy tay cậu và dùng ngón tay cái vuốt ve bề mặt tay cậu. Ông chủ quán và Ofuu mắt mở to và há hốc mồm. Jinya cũng ngạc nhiên không kém, nhưng cậu quá sững sờ để có thể phản ứng. Cậu thực sự không thể xử lý được chuyện gì vừa xảy ra.
Lợi dụng lúc cậu đang đứng hình, Natsu rúc vào người cậu với một vẻ mặt say đắm.
Bằng một giọng nói vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, cô thốt lên: “A, muội đã nhớ huynh da diết biết bao, huynh trưởng của muội…”
Nghe đến đó, Jinya bắt đầu cảm thấy choáng váng.