Cuộc đối thoại giữa Trương Hằng và giọng nói kia chỉ diễn ra trong khoảnh khắc giữa cơn bão, nhưng những gì cậu nghe được cũng chẳng khác mấy so với lời của Seth trước đó.
Chủ nhân của giọng nói ấy tự xưng là một cổ thần của tộc người Celtĩc, có thể ban phước lành cho những ai lênh đênh giữa đại dương, và trao cho tín đồ quyền năng điều khiển bão tố.
Tất nhiên, thứ quyền năng ấy giờ đây đã bị suy giảm đáng kể không chỉ về sức mạnh, mà ngay cả số lần sử dụng cũng bị hạn chế: mỗi tháng chỉ được dùng một lần.
Theo lời Betty, nguyên nhân là bởi tên của nàng ta đang dần bị thế nhân quên lãng. Nếu Trương Hằng có thể chiêu mộ thêm tín đồ cho nàng, nàng sẽ trao cho cậu năng lực còn lớn hơn nữa. Và nếu một ngày nào đó, Betty có thể khôi phục được uy danh như thời cực thịnh, nàng sẽ khiến Trương Hằng trở thành vị chúa tể thực sự của đại dương này.
Muốn vậy, số tín đồ cần thiết sẽ phải tính bằng hàng triệu người. Đó cũng là lý do Betty nhắm vào Trương Hằng nàng nhận ra tiềm năng lãnh đạo xuất chúng ở cậu.
Nhưng Trương Hằng không vội gật đầu. Không chỉ vì cậu chỉ ở lại thế giới này hơn mười năm có thành Vua Biển Cả cũng chẳng có nghĩa lý gì mà còn vì lời của Betty khiến cậu nhớ lại con quái vật tên Molesby từng trốn khỏi Papua New Guinea.
Theo lời của lão già mặc đồ đường, khi xưa Molesby vốn là vật được thờ phụng của một bộ tộc đã tuyệt diệt. Vì muốn sinh tồn, nó phải nhốt mình trong một chu kỳ thời gian ngắn hạn, và khi trở lại, cũng suy yếu tột cùng.
Hiện cảnh của Betty lại khiến Trương Hằng càng thêm chắc chắn rằng: những sinh thể siêu nhiên ấy cũng đang vật lộn để sinh tồn, không kém gì loài người.
Thậm chí, so với con người, hoàn cảnh của họ còn hiểm nghèo hơn nhiều.
Chính bởi thế, Trương Hằng chưa từng hết cảnh giác trước những tồn tại này. Khi sự sống còn của chính họ đang lung lay, thì lời hứa hẹn của họ còn đáng giá được bao nhiêu?
Huống chi, cậu vẫn chưa điều tra rõ vụ việc trên tàu Carrack, không thể tùy tiện tin hết những gì Betty nói.
Dù vậy, cuộc tiếp xúc này vẫn đem lại vài tin tức hữu ích.
Dù là Molesby hay Betty, sức mạnh của họ dường như đều tỷ lệ thuận với số lượng tín đồ. Họ sợ bị thế gian lãng quên, như loài cây không rễ, như linh hồn không người gọi tên.
Thuở nhỏ, Trương Hằng cũng từng nghe nhiều truyền thuyết. Thần linh trong các thần thoại thường mang vẻ uy nghi vô thượng, tạo ra thế giới, tạo ra con người, quyền năng vô biên. Nhưng giờ nghĩ lại, quan hệ giữa người và thần dường như chẳng phải một chiều, mà giống kiểu cộng sinh thì đúng hơn.
Như cá sấu và chim rỉa răng, như hải quỳ và cua ẩn sĩ.
Cậu không chắc phép so sánh này có quá ngạo mạn không, nhưng tối nay ra ngồi nhìn hoàng hôn một mình bên bờ biển, chẳng phải vì thần linh gì cả mà đơn giản vì cậu chợt nhận ra: cậu đã ở thế giới này gần hai năm.
Và cậu... cũng bắt đầu quen dần với cuộc sống nơi đây.
Không còn giật mình bởi tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền giữa đêm, không còn nhìn ai cũng hoài nghi như ngày đầu đặt chân tới hòn đảo ấy. Những công việc thô nhám, vị mặn của muối, những bữa ăn đơn sơ bên bếp lửa, mùi khói ám khắp áo, tất cả... cậu bắt đầu thấy thân thuộc. Cứ như thể, cái thế giới mới này, với luật lệ hoang dã và tự do, đã lặng lẽ thấm vào da thịt mình, thay cho lớp bụi mòn cũ kỹ của một quá khứ từng có tên gọi khác.
Ngược lại, những ký ức về thế giới cũ như thể bị chôn vùi dưới từng lớp sóng, chỉ còn sót lại vài hình ảnh lạc loài, lấp loáng trong trí nhớ như ánh trăng phản chiếu trên mặt nước đen.
Mãi đến khi cậu nhìn thấy hoàng hôn trước mắt một lần nữa cậu mới nhớ lại những chi tiết về thế giới kia. Có lẽ... hoàng hôn là thứ duy nhất chưa từng đổi thay. Dù là thế giới nào, thời đại nào, mặt trời vẫn lặn theo cách đó chậm rãi, tàn nhẫn và đẹp đến nao lòng.
Nhưng Trương Hằng không để mình đắm chìm trong những suy tưởng mơ hồ ấy. Cậu thở dài, rồi quay sang Annie cùng cô uống cạn nốt phần rượu rum còn lại, rồi hai người trở về khu trại trên bãi biển.
Lúc này Billy đi tới, thông báo: "Không biết Annie có báo với cậu chưa, nhưng công việc sửa chữa và dọn dẹp tàu gần như đã hoàn tất. Trưa mai có thể tái hạ thủy."
Trương Hằng gật đầu: "Mọi người đã vất vả rồi. Sửa xong thì nghỉ ngơi nửa ngày đi, dưỡng sức. Sáng hôm sau chúng ta khởi hành."
Billy không phản đối. Cậu rời đi chưa lâu, thì Dufesne cũng bước tới, báo cáo tình hình hậu cần như thường lệ trước mỗi chuyến ra khơi.
"Thức ăn và nước ngọt đã chuẩn bị đầy đủ, đủ cho hành trình một tháng rưỡi. Xét đến việc ta sẽ tiếp nhận thêm những người sống sót trên đảo Vẹt, tôi đã giấu phần lương thực còn lại vào một hang động phía tây bãi biển. Việc này vừa giúp ta linh hoạt hơn, vừa để dành nếu cần quay lại bổ sung. Dù sao nơi này cũng chỉ cách đảo Vẹt một ngày hải trình."
"Làm tốt lắm." Trương Hằng gật đầu tán thưởng.
Nhưng viên quân nhu vẫn chưa rời đi.
Dufresne hơi ngập ngừng, rồi tiếp: "Phần đạn pháo thì sau vài trận chiến ác liệt gần đây, tổn thất khá lớn. Tuy nhiên, trừ đạn 24 pound, chúng tôi có tìm thêm được một số đạn từ chiến hạm Miranda."
Trương Hằng hơi cau mày: "Nếu cần, ta thay pháo 24 pound bằng đại bác 12 pound cũng được."
"Thực ra, điều tôi lo nhất không phải là đạn, mà là thuốc súng." Dufresne nói với vẻ mặt nghiêm giọng, "Kho thuốc súng trên Miranda xử lý chống ẩm kém. Khi hai bên giao chiến, nhiều thùng đã bị mở ra. Chúng ta vớt được vài thùng, thoạt nhìn có vẻ ổn, nhưng vừa kiểm tra lại thì thấy một số bị ẩm nặng."
"Còn đủ dùng cho một trận đánh không?"
"Chắc được bảy, tám loạt pháo là cùng." Dufresne ước lượng.
Con số đó vẫn nằm trong khả năng Trương Hằng chấp nhận được. Bảy lượt bắn là đủ phân thắng bại trong một trận đánh. Nhưng đồng nghĩa với việc họ có rất ít cơ hội để mắc sai lầm. Tuy nhiên, đến nước này rồi, không còn đường lui nữa.
Hiện tại, Hàn Nha đã được gia cố, không còn là con tàu rệu rã trước đây. Dù có không thắng được, họ vẫn có thể tháo chạy. Kỹ năng điều khiển tàu của Trương Hằng cũng đã lên cấp ba đủ để cậu tự tin lèo lái trong tình huống hiểm nghèo.
Dù vì năm nghìn cân vàng, hay vì những hải tặc còn sống sót trên đảo, hay đơn giản chỉ để trả món nợ máu ngày trước trận thì chiến này là không thể né tránh.
Trương Hằng vỗ vai Dufresne: "Đừng lo. Vậy thì chúng ta sẽ dùng đúng bảy lượt để hạ gục bọn chúng."
"Rõ, thưa thuyền trưởng." Dufresne biết rõ mình không muốn tay trắng trở về Nassau. Nhiệm vụ của hắn là báo cáo sự thật còn quyết định, vẫn nằm ở Trương Hằng.
Đêm ấy yên bình.
Sáng hôm sau, đám hải tặc đẩy Hàn Nha đã sửa xong trở lại biển bằng những khúc gỗ tròn. Khi tận mắt thấy con tàu lướt xuống mặt nước, dáng vẻ kiêu hãnh như mới, mọi người đồng loạt reo vang.
Bao ngày công sức cuối cùng cũng có thành quả. Không chỉ vá xong các lỗ hổng và vết nứt trên thân tàu, họ còn dùng vật liệu thừa để gia cố thêm một lần nữa chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng sắp tới.