Ở thời điểm hiện tại thì khó mà tiếp tục kiếm sống bằng cái nghề viết tiểu thuyết này được, nhưng tiếp tục viết tiểu thuyết thì chẳng hề khó khăn chút nào.
Có lẽ sẽ có vài người không vui khi nghe điều này, nhưng mà viết tiểu thuyết là chuyên môn của tôi. Bạn có thể nói đó là việc duy nhất tôi làm tốt. Tôi biết sẽ rất nực cười khi một kẻ chưa bao giờ viết tiểu thuyết như tôi lại tự nhận chuyên môn của mình là viết tiểu thuyết, nhưng sự thật là vậy. Tôi không biết đời mình sẽ ra sao nếu không giỏi việc đó nữa. Tôi sẽ làm cái gì nhỉ? Một kẻ 30 tuổi như tôi sẽ làm gì nếu không viết tiểu thuyết đây? Chỉ cần nghĩ về nó thôi là lòng tôi đã cuộn trào lo lắng rồi, cứ như dẫm phải một thứ gì đó không xác định trong lúc lần mò trong bóng tối vậy.
Tôi không yêu quý bản thân đến mức đấy. Nếu phải thành thật thì tôi rất ghét bản thân mình, nhưng tôi lại rất thích những cuốn tiểu thuyết mà tôi viết ra. Tôi cho phép bản thân làm nhiều thứ hơn dưới cái mác là để viết những cuốn “tiểu thuyết” của tôi. Tôi cho phép mình ăn những món ăn ngon, đọc sách, chơi game, và đi hát karaoke một mình. Nếu như không viết tiểu thuyết, có lẽ tôi sẽ chỉ cho phép mình làm vừa đủ để đủ sống (và kể cả khi tôi không tự sát, thì cách sống đó thật sự là đáng ghê tởm.)
Đến một lúc nào đó tôi đã dừng việc đếm những cuốn tiểu thuyết mà mình viết ra, nhưng nếu như tôi tính cả những mẩu truyện ngắn, thì chắc có lẽ được đâu đó 100 cuốn rồi. Những cuốn mà được xuất bản thành sách giấy hẳn hoi thì rơi đâu đó vào khoảng 50, chắc vậy. Nói tôi làm việc chăm chỉ e rằng vẫn chưa đủ.
Phải nói là tôi đã làm việc quá chăm chỉ.
Đây không phải những năm 1980, với những cuốn sách được bày bán khắp nơi. Không một ai (kể cả những độc giả của tôi) yêu cầu tôi làm việc với cường độ khủng khiếp như vậy. Tôi đang làm việc quá sức một cách nực cười.
Nhưng tôi nhận thức rất rõ về việc đó.
Nói ra thì sẽ chỉ biến một kẻ quái đản như tôi thêm quái đản hơn, nhưng khi tôi đến hiệu sách và nhìn thấy bìa của một cuốn sách mới nói rằng, “Tác phẩm mới nhất sau XX năm im lặng!” thì tôi sẽ thấy khá là ghen tị. Tôi cũng phải phá vỡ sự im lặng vào một ngày nào đó thôi.
Nhưng, tính trên nhiều mức độ, số lượng công việc tôi có nằm ngoài khả năng giải quyết của tôi. Cần phải có một tay nghề cao dể có thể dừng lại ở một con số tròn trịa, đẹp đẽ nào đó. Tất cả mọi thứ, dù cho có là một công ty, một dự án, hay một nền văn hóa, đều sụp đổ khi mà ta không biết chọn điểm dừng. Vì vậy, theo một cách nào đó thì tôi cũng đang sụp đổ ngay bây giờ.
Bây giờ có thể là thời cơ hoàn hảo để sử dụng câu nói kinh điển đó, “Dẫu vậy tôi vẫn không thể ngừng lại được.”
Nếu như tôi sa sút phong độ và không thể viết lách nổi nữa, mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nhiều cho những bên liên quan, và các độc giả của tôi sẽ không còn thấy lo lắng nữa. Nhưng vì tôi vẫn còn viết được, nên chẳng có gì được giải quyết hết. Nếu tôi để lỡ lời nói ra điều gì đó như thế ở nơi công cộng, tôi chắc chắn sẽ chỉ nghe thấy: “Ôi chao, Sensei ơi. Dù Sensei có nói những lời hoa mỹ đến mấy, thì cũng chỉ là đang tự tâng bốc mình thôi.” Nhưng tôi nhận thức được rằng kỹ năng này không hề liên quan đến những cố gắng của tôi.
Chuyên môn trong việc viết tiểu thuyết chẳng liên quan gì đến tôi cả. Chẳng phải tài năng, và thật lòng mà nói, cũng chẳng phải may mắn nốt.
Theo tôi thì nó giống vận rủi hơn.
Tôi không muốn làm quá lên, nhưng sự thật là một chuỗi những vận rủi đã giúp tôi có được ngày hôm nay. Không thể là cái gì khác. Nếu phải chia loài người ra làm hai nửa, tôi sẽ không đoán rằng mình ở phe may mắn, nhưng tôi cũng sẽ không cho rằng mình lại quá xui xẻo đến mức phải trải qua thêm lần nữa những gì đã xảy ra với tôi. Nghĩ đến thôi là tôi đã rùng mình rồi.
Lý do mà tôi không thể tiếp tục viết tiểu thuyết, và lý do cho việc tôi khởi đầu là một nhà văn, đều có thể tóm gọn qua một trải nghiệm trong quá khứ.
Câu hỏi thường trực các nhà văn nhiều nhất trong công việc là, “Làm sao anh nghĩ ra được câu chuyện dó vậy?” Từ những gì tôi thấy được, hầu hết các nhà văn đều phát mệt với câu hỏi đó. Từ góc nhìn của tôi, nếu như đó là thứ mà có thể diễn tả bằng lời, thì câu hỏi đó đã không bao giờ tồn tại. May mắn thay, vì lối sống khép kín của mình, tôi ít khi nhận được câu hỏi đó, dù cho nó đã được ném vào mặt tôi rất nhiều lần trong những cuộc phỏng vấn trên tạp chí.
Mỗi khi rơi vào tình huống đó, tôi lại làm cái việc tôi hay làm, đó là kết nối những từ ngẫu nhiên lại với nhau để lời tôi nói ra nghe thật kỳ quái. Tôi nói những lời to tát về việc cần có những gì để trở thành một nhà văn, tô điểm bằng một lớp vỏ bọc trông có vẻ như là những giá trị của riêng tôi. Những người phỏng vấn thì đủ tế nhị để kiểm duyệt những góc nhìn của tôi với công chúng, vậy nên phần lớn những gì tôi nói ra đều đã được cắt xén hết rồi, dù sao thì những điều trừu tượng hay giàu cảm xúc mà tôi thường hay nói ra đa phần là bịa đặt cả. Phải thú nhận rằng việc nói dối trong những cuộc phỏng vấn có lẽ là thói xấu tồi tệ nhất của tôi với tư cách là một nhà văn.
Nhưng tôi trở thành một nhà văn là để nói dối, và những cuốn tạp chí kia thường hay cắt xén lời của tôi để phù hợp với câu chuyện của họ, vậy nên có thể đó là nỗ lực từ cả hai phía.
Vậy nếu tất cả đều là dối trá, đâu mới là sự thật?
Câu trả lời cho câu hỏi, “Làm sao anh nghĩ ra được câu chuyện đó vậy?” thật sự là gì?
Tôi nghĩ đã đến lúc nói ra rồi.
Tôi nghĩ mình sẽ hé lộ cái sang chấn của bản thân cho tất cả cùng biết.