Ổ bánh mì được dọn ra cho họ tuy không phải loại mới nướng, nhưng là bánh mì trắng ngon làm từ lúa mì. Hơn nữa, món xúp không chỉ nêm đơn giản bằng muối với giấm, mà còn được nấu đặc lại bằng vụn bánh mì và có cả những miếng thịt cừu to tướng bên trong.
Nhưng điều bất ngờ nhất chính là… chai rượu trên bàn.
“Chà, một chiếc chai tuyệt đẹp. Màu xanh này thật dễ chịu.”
Sau khi Amalie hoàn tất bài kinh cầu dài lê thê mà cô học được từ tu viện, bữa ăn mới thực sự bắt đầu. Lawrence liền mở lời với nhận xét đầy tò mò.
“Có vẻ đó là sở thích của cha tôi. Dưới hầm nhà có rất nhiều đồ mỹ nghệ thủy tinh... Quá nhiều đến mức tôi đã nghĩ sẽ giữ lại một ít, bán bớt đi để có tiền sửa cối xay nước, nhưng…”
Amalie nói với vẻ do dự, trong khi Yergin, ngồi nép về một góc bàn, liếc nhìn Lawrence. Ông ngồi không thoải mái, phần vì vóc dáng quá to lớn, phần vì có lẽ ông không quen việc chủ và tớ cùng ngồi chung bàn.
Giữa hai người dường như tồn tại sự khác biệt lớn về cách nghĩ, ngay cả trong chuyện mấy món đồ thủy tinh kia.
Amalie, với tinh thần công bằng, hẳn đã nghĩ tới việc bán bớt, còn với Yergin, chỉ cần nghĩ đến việc đó thôi cũng là xúc phạm rồi. Những món đồ thuộc về lãnh chúa đời trước chính là báu vật của gia tộc.
“Nếu các cô cấm dùng cối xay tay, thì vấn đề cối xay nước sẽ chỉ được giải quyết phần ngọn thôi.”
Lawrence đưa ra đề xuất trong lúc xé bánh mì chấm vào xúp.
“Tôi từng thấy chuyện tương tự ở một nơi khác. Tôi chắc chắn có thể giúp được quý cô.”
Nghe vậy, Yergin ngồi thẳng người lên như thể vừa nhận ra Lawrence đã hiểu chuyện.
“Ngài có thể sao?”
“Vâng. Dù là làng quê rộng lớn, nhưng thực ra cũng chẳng có nhiều chỗ để giấu đồ đâu.”
Nghe đến chữ giấu, nét mặt sáng rỡ của Amalie lập tức xịu xuống. Rõ ràng cô hy vọng dân làng sẽ tự nguyện hợp tác.
Lawrence nhấp một ngụm rượu, rồi cất giọng như thể một thương nhân tàn nhẫn, tham tiền.
“Không cần phải lo. Trốn thuế còn tệ hơn nữa cơ.”
Anh mỉm cười, như thể chuyện đó hoàn toàn bình thường.
Amalie nhăn mặt, nhưng không quay sang nhìn Yergin, vì cô biết ông sẽ không đứng về phía mình.
“Việc xây lại cối xay là vì lợi ích của dân làng. Và dĩ nhiên, tôi sẽ không làm gì khiến tiểu thư khó xử. Tôi sẽ lo vụ thu hồi cối xay tay.”
“Nhưng mà, ngài—”
“Dĩ nhiên việc vận chuyển cối khá khó, nên tôi mong được nhờ ông Yergin hỗ trợ.”
Amalie là một cô gái thông minh. Cô lập tức hiểu rằng mình cần giữ khoảng cách với những việc không sạch sẽ sẽ diễn ra. Nhưng bản tính nhân hậu khiến cô vẫn thấy bối rối và áy náy.
Và rồi Yergin đáp lời, bằng giọng cứng rắn:
“Lúc nào tôi cũng sẵn sàng.”
Amalie nhìn qua lại giữa Lawrence và Yergin bằng ánh mắt buồn bã, rồi cúi đầu nhìn xuống chân mình. Chiếc ghế quyền lực không hề dễ chịu như nhiều người tưởng, và cũng không dành cho tất cả.
Nhưng Lawrence vẫn suy ngẫm về cô.
Dù tốt hay xấu, con người có thể quen với quyền lực.
Các thi sĩ gọi đó là trái tim chai sạn, nhưng nói cho cùng, thế gian này chẳng mấy khi tử tế với ai.
“Và với một thương nhân lưu động, được giúp đỡ lãnh chúa là điều ngoài mong đợi của tôi.”
Anh nói, ngụ ý rằng mình cũng trông đợi thù lao xứng đáng.
Người ít nói như Yergin lúc này mới lên tiếng.
“Gia tộc Draustem sẽ tưởng thưởng cho ngài.”
Trong mắt ông, kẻ gian xảo là tên thương nhân đến vì tiền, còn ông chính là người hầu trung thành, kiên định.
Holo dõi theo cuộc trao đổi, lộ vẻ cảm thông nhẹ với Amalie, nhưng tất nhiên, cô không lên tiếng. Cô thừa hiểu sự tàn nhẫn của thế giới này.
“Vậy thì, ăn xong rồi ta đi ngay thôi.”
“Quý cô Amalie?”
Yergin quay sang hỏi ý kiến. Amalie ngẩng đầu, như định nói gì, nhưng rồi lại cúi xuống. Vai cô khẽ run, đôi tay nắm chặt mảnh khăn vải gai đặt trên đùi.
“…Vâng… được…”
Gương mặt Lawrence chợt dịu xuống, không phải vì mọi chuyện diễn ra đúng như tính toán, mà vì anh nhận ra điều gì đó.
Amalie có trái tim mềm yếu, nhưng cũng có can đảm để đối mặt với định mệnh.
Và vì vậy, việc còn lại của anh chỉ là hết sức mình hợp tác.
~~~
Họ quyết định dùng xe ngựa của Lawrence để chở các cối xay tay. Trong lúc anh đang dỡ hàng khỏi thùng xe, Yergin đột ngột lên tiếng.
“Thứ lỗi.”
Lawrence vẫn tiếp tục làm, nhưng vì đã chạm mắt với Holo nên anh mỉm cười nhìn về phía ông.
“Chúng tôi sẽ thu phí sử dụng xe ngựa đấy.”
Dĩ nhiên, anh hiểu rõ Yergin không nhắc đến cái xe.
“Viện trưởng tu viện Ivan đã nhờ cậy tôi. Ông ấy keo kiệt, chỉ nghĩ đến tu viện của mình, và xưa giờ chẳng bao giờ trả công xứng đáng cho tôi khi tôi chở hàng giúp. Vậy mà lần này lại nói rằng Quý cô Amalie đang gặp khó khăn và tôi nên giúp.”
Đó là cách nói vòng vo của một thương nhân để khen rằng Amalie là người đặc biệt, đến mức cả một ông viện trưởng keo kiệt như thế cũng động lòng.
Yergin, người có đôi vai lực lưỡng như bò tót nổi điên, cẩn thận nhấc một kiện hàng và đặt xuống đất. Trông ông có vẻ như lũ thổ phỉ, nhưng không có nghĩa ông là người thô lỗ.
“Tôi tin Quý cô Amalie sẽ là một lãnh chúa tốt.”
Lawrence mỉm cười khi nhấc kiện hàng cuối cùng khỏi xe.
“Vậy thì, giúp cô ấy cũng là một món đầu tư có lời rồi.”
Rồi anh lại hướng về nhà trưởng làng.
Holo do dự, định ở lại an ủi Amalie, nhưng Lawrence ngăn lại. Họ sắp rời làng rồi. Đó là việc của Yergin. Và Yergin sẽ mất trước Amalie. Vẫn chưa bao giờ là quá sớm để cô học hỏi từ ông khi còn có thể.
Lawrence kéo chiếc xe trống kêu lộc cộc vào làng. Khi đến nơi, anh thấy trưởng làng cùng dân làng đang ngồi ăn uống đơn sơ, hoàn toàn không đề phòng.
Đồ đạc được dọn dẹp, sàn đất rải rơm khô, mọi người ngồi thành vòng tròn. Giữa vòng là nồi chưng cất rượu bằng đồng — có lẽ là rượu đặc chế của trưởng làng.
“Cái—cái này là…”
Trưởng làng, người có vẻ là khôn ngoan nhất trong số đó, không giấu nổi sự bối rối.
“Ồ, các ông cứ ngồi yên đó. Tôi được ủy quyền thu thuế thay mặt lãnh chúa, nên đến để thông báo.”
“Ủy quyền thu thuế… Nhưng, chuyện đó là—”
“Thời lãnh chúa trước, có quy định cấm dùng cối xay tay, đúng không? Vậy thì theo quy định đó, tôi đến để tịch thu.”
Có thể nghe thấy cả lông gáy dân làng dựng đứng.
Trưởng làng nhanh chóng dùng ánh mắt ra hiệu. Dường như ông khẽ gật đầu, có lẽ để trấn an họ.
“Vậy sao…? Nhưng như ngài thấy, chúng tôi đâu có chất đống cối xay tay ở đây. Một cái nhà tồi tàn như này thì giấu cái gì được chứ.”
Điều đó có nghĩa là cối đã được giấu rồi.
Lawrence vẫn giữ nguyên nụ cười, gật đầu.
“Đúng vậy. Nhà làng không như nhà phố, không có trần gác mái để giấu. Sàn là đất nện, nếu đào lên thì sẽ thấy ngay. Mà đào xong rồi còn lấp lại thì khó lắm.”
Dân làng bắt đầu hoang mang trước loạt lý lẽ ấy.
“Thế còn ngoài đồng thì sao? Chỉ cần dùng gậy chọc thử là phát hiện ra liền. Vụ mùa năm nay cũng gieo xong rồi. Không thể có hố to nào được.”
Vài người nuốt nước bọt. Yergin sẽ nhớ rõ những ai phản ứng như thế.
“Chỗ sau nhà, ven đường ra đồng cũng khả nghi, nhưng nếu đào đất, cỏ dại sẽ mọc khác thường, từ xa nhìn là thấy thôi. Qua sông giấu cũng được đấy, nhưng chẳng ai rỗi hơi khuân cối đi xa vậy cả. Vậy thì?”
Lawrence liếc quanh, nhìn vào bếp, không có cửa ngăn giữa nền đất nối liền phòng chính.
“Trong lò nướng… như vậy thì cối phải to lắm, và trục cối cũng sẽ cháy mất.”
Vậy rốt cuộc là giấu ở đâu? Ưu điểm của thương nhân lưu động là từng đi qua vô số vùng đất. Con người ở đâu cũng nghĩ giống nhau.
“Phải là thứ luôn có mặt từ khi nhà được xây lên và khó để xác định liệu nó đã đi di chuyện hay chưa và ở một nơi chẳng ai cảm thấy phiền hà.”
Lawrence quay lại phía Holo đang đứng ở cửa quan sát. Cô nhìn anh ngơ ngác, và khi anh kính cẩn ra hiệu để cô lùi lại, bên dưới chỗ cô đứng là một phiến đá.
“Chỗ ra vào thường xuyên bị người ta bước lên, nên nền đất rất nhanh bị xói.”
Tức là rất dễ để đào hố rồi đậy đá lại lên trên. Và khi người thu thuế lục soát căn nhà, chủ nhà sẽ hay đứng ngay cửa một cách đầy bồn chồn, nên đây là điểm mù hoàn hảo.
Khi Yergin lấy thanh sắt để làm đòn bẩy, trưởng làng nghiến răng, cúi đầu u uất.
“Dù có xây lại cối xay, nó cũng sẽ cháy trong vụ cháy đồng thôi…”
Muốn bảo vệ cối, phải triệt hạ hoa tím quanh đó. Mà lúc này là mùa vụ bận rộn.
“Tôi đảm bảo với tư cách thương nhân…,” Lawrence nói. “rằng có cối xay sẽ có lợi cho cả làng.”
Yergin bẩy phiến đá lên, bên dưới là một chiếc cối xay tay.
~~~
Dù họ không tìm thấy cối trong một số nhà, nhưng có lẽ là do họ thực sự không sở hữu chúng. Lawrence liếc nhìn Holo xác nhận. Nếu có ai nói dối, Holo sẽ ra hiệu.
Rốt cuộc họ đã thu được mười bảy cối xay tay.
Ngựa kéo xe hậm hực thở phì khi phải kéo đống hàng nặng trĩu.
“Chúng ta đã làm xong mà không dùng vũ lực.”
Yergin nói, không rõ là độc thoại hay lời cảm ơn.
“Mưu mẹo là sức mạnh của thương nhân mà.”
Lawrence vừa cầm cương, vừa cười đáp.
“Nhưng vấn đề thật sự là Quý cô Amalie, đúng không?”
Anh nghĩ Yergin sẽ đấm mình, nhưng ông chỉ gầm nhẹ.
“Cô ấy dường như quá tử tế để làm lãnh chúa.”
“…Không ngờ rằng người dân lại vui vẻ đóng thuế nhưu vậy. Dù làm thế có ích cho họ đi nữa.”
“Nói thế khiến tôi nhột quá đấy.”
Thương nhân lưu động thì chuyên tìm cách né mọi loại thuế bị áp lên mình bằng cách khai gian hải quan và lách phí qua cổng. Dù họ biết thuế giúp cải thiện cơ sở hạ tầng, an toàn hơn, thu hút người mua bán đông hơn.
“Tệ hơn, nếu lại thiếu tiền sửa cối xay nước, có khi cô ấy phải dùng đến biện pháp mạnh hơn nữa.”
Lần tới… chẳng còn cối xay tay nào để tịch thu nữa.
“Có cách nào khác không?”
Yergin hỏi. Holo liếc sang Lawrence, như muốn anh đừng nhúng quá sâu, nên anh liền xoa đầu cô trấn an.
“Tôi từng buôn bán ở nhiều nơi, thấy đủ kiểu thuế. Cũng nghĩ ra được vài cách rồi.”
“…Vậy là chẳng còn lựa chọn nào khác nhỉ.”
“Hoặc là, tìm ra thứ khiến dân làng trở nên phát tài.”
Không có nguồn thu nhập, họ sẽ chẳng thể nào có tiền nộp.
“…Chúng tôi không phải thương nhân.”
“Dĩ nhiên rồi.”
Lawrence đáp đơn giản, nhưng trong lòng nghĩ rằng mỗi lần Amalie tăng thuế, sẽ có một phần trái tim mềm yếu của cô rạn nứt.
“Với hiểu biết thương mại của mình, tôi ó thể…”
Anh chưa nói hết thì…
“Quý cô Amalie?”
Amalie từ một hướng khác chạy về phía dinh trang. Cô ôm vật gì đó nặng trĩu, bước chân chao đảo.
Thế rồi cô biến mất vào trong vườn sau
Xem ra cô đã đi đâu đó trong lúc họ đi thu chỗ cối xay tay.
“Cô ấy làm gì thế?”
“Hừm…”
Cả Yergin cũng không biết. Nghĩ rằng Holo sẽ biết, Lawrence nhìn sang cô như cầu cứu, ban đầu cô tỏ ra có chút ngạc nhiên nhưng rồi nở nụ cười có phần vui vẻ.
Và khi họ đến nơi, Lawrence hiểu vì sao.
“T… Tiểu thư?”
Họ thấy Amalie đang ngồi ở bàn ăn trưa khi nãy. Yergin theo phản xạ gọi cô như thường lệ.
“Ta nhớ đã ông đã hứa sẽ không gọi ta như vậy nữa mà.”
Cô trả lời dứt khoát.
Tay xắn cao tay áo, Amalie bận rộn nghiên cứu thứ gì đó trải ra trên bàn.
Chính là hoa tím, loài hoa mang tai họa cho cả làng.
“Đây chính là thủ phạm.” Amalie nói tiếp. “Nếu loài hoa này hữu ích, thì dân làng sẽ sẵn sàng nhổ bỏ nó, và ta có thể bảo vệ cối xay nước.”
Đây không còn là cô gái bị số phận vùi dập đến chỉ biết khóc lóc nữa.
“Và ngài là thương nhân lưu động, ngài Lawrence. Nếu đâu đó có nhu cầu dùng loài hoa này, thì ngài có thể đi bán nó cho chúng tôi.”
Holo liếc anh đầy trêu chọc, như muốn hỏi Dám không?
Lawrence chỉ còn một câu trả lời:
“Dĩ nhiên. Miễn có lời là được.”
Đó là điều duy nhất anh không bao giờ mặc cả.
“Trước mắt, tôi nghĩ nên thử nấu ăn với nó. Ở tu viện, tôi từng học cách dùng cỏ thơm. Loài hoa này có mùi rất dễ chịu.”
Người tiên phong này đã bắt đầu nảy ra những ý tưởng.
Gợi ý thì dễ, nhưng điều quan trọng là quyết tâm thực hiện.
“Nếu đặt lên miếng thịt vai bò nướng dày, có thể làm tăng hương vị.”
“Còn gì nữa không?”
“Ngâm vào rượu chất lượng kém thì sao?”
Amalie gật gù, tay chống cằm rồi đề xuất tiếp:
“Có thể ăn sống được không nhỉ?”
Yergin hắng giọng.
“Tôi không muốn phải thử lại như thế lần nữa đâu. Dù luộc hay chiên đi nữa.”
Có vẻ ông đã thử đủ cách, và kết luận là hoa tím không nuốt nổi.
“Và hẳn là hương thơm nồng quá, nên cả cừu, bò, lợn cũng không thèm ăn.”
Nếu làm thức ăn gia súc, dân làng sẽ tha hồ chăn thả trong cánh đồng. Nhưng lý do chẳng ai làm thế lại rõ ràng.
“Bán làm đồ trang trí hay gia vị thì lại chẳng thấm vào đâu.”
Cánh đồng hoa ấy về cơ bản là vô tận.
“Vậy… sao ta không thử làm túi thơm? Ở tu viện bọn tôi hay làm thế với các loại thảo dược.”
Những cô gái từ trẻ tới già trong tu viện hẳn từng tụ họp, tay cầm kim chỉ khâu túi thơm, một hình ảnh đầy thanh bình và duyên dáng.
“Túi thơm đúng là ý tưởng hay, vì mùi loài hoa này rất đậm và ngọt ngào. Nhưng rõ là nó sẽ bán không chạy. Tôi vẫn chưa nghĩ được một thứ như thế có thể được bán với số lượng lớn đến mức tạo ra thay đổi.”
Câu hỏi là người ta sẽ chọn gì, bánh mì thơm hay một túi hoa thơm?
Còn chưa kể đến việc ngay khi người ta mua một túi, sẽ phải rất lâu nữa họ mới cần mua cái thứ hai.
“Ngay cả khi chúng ta bán được một ít ở một thị trấn, thì sao không mở rộng ra nhiều thị trấn hơn?”
“Có khả năng là hàng hóa sẽ bị ướt mưa trên đường vận chuyển, và hoa khô tuy nhẹ nhưng rất chiếm chỗ. Thùng xe tôi lại không rộng đến thế. Chỉ bán hết một xe đầy tại một thị trấn thì không phải là một mối làm ăn hấp dẫn, và tôi cũng không thấy số lượng nhỏ như vậy sẽ thu hẹp lại cánh đồng.”
Amalie cắn móng tay đầy bực bội, nhưng điều ấy không có nghĩa là cô đã bỏ cuộc.
“Vậy… được rồi. Nếu hoa này dễ cháy thì sao ta không dùng làm nhiên liệu?”
“Phải có lý do thì dân làng mới chưa làm thế.”
Lawrence đáp, Yergin tiếp lời.
“Nếu chúng bén sang bờ bên này thì phiền to. Với lại… loài hoa này là biểu tượng của hỏa hoạn. Giữ trong nhà ai mà ngủ yên cho nổi.”
Đây không phải vấn đề có thể giải quyết ngay. Dù là dân quê, nhưng họ không ngu, và lãnh chúa trước là người thông thái.
Nhưng Amalie không nản. Lawrence thấy được rằng cô biết rõ về sự ngây ngô của mình trước thế giới. Cô đã chuẩn bị tinh thần rất kỹ rồi.
“Tôi sẽ nghĩ ra gì đó.”
Lời tuyên bố ấy đầy quyết tâm.
“Dù sao, ở tu viện, tôi cũng từng suy nghĩ rất nhiều.”
“Tiểu thư…”
Yergin thì thầm, đôi mắt ông hoe đỏ.
“Ta nhớ là đã bảo ông đừng gọi ta vậy nữa mà.” Amalie lại nói, lần này là với nụ cười đầy đắng cay. “Giờ ta là chủ gia tộc này rồi.”
Lawrence chọc nhẹ lưng Holo, rồi cầm lên một cánh hoa tím.
“Vậy thì… ta cùng động não thôi.”
~~~
Dù họ đã trao đổi đầy hăng hái, thực tế lại không ngọt ngào như mùi hoa. Họ nghĩ đủ chuyện cho đến tận chiều tối, và khi hết ý tưởng, ngọn nến cũng lụi tàn, ra hiệu rằng đêm đã đến lúc kết thúc.
Một cây nến mỡ khác được thắp lên thay, và Yergin mời họ ít bia—hẳn đó là cách ông thể hiện sự cảm kích. Cả hai vui vẻ nhận lời.
Khi Lawrence trở về phòng, anh thấy Holo, người quay lại sớm hơn anh một chút, đang ngồi bên cửa sổ mở, chải lông đuôi dưới ánh trăng.
“Cảm giác cứ như đang mơ vậy.”
Lawrence vừa khép cửa vừa nói. Còn Holo, đang ngậm những sợi lông bị rối nơi đuôi, chẳng tỏ ra mấy vui vẻ.
“Lúc nào anh khen em, là y như rằng chẳng có gì tốt xảy ra.”
“Bị bắt bài mất rồi.”
Anh rót rượu của Yergin vào chiếc cốc gỗ và đưa cho Holo.
Cô cầm lấy, định uống, nhưng rồi dừng lại.
“Lúc nấu chắc họ dùng hoa làm chất đốt, hoặc đơn giản là hương hoa cứ thế lan khắp làng nhỉ.”
Trong phòng ăn, cả hai đã ngửi thấy mùi ấy, nồng đến mức gần như khiến họ phát điên. Holo vốn hay thích thử rượu lạ, nhưng lần này thì đúng là phát ngán.
“Ừm… nhưng lúa mì thì không tệ.”
Cô tu một hơi, rồi ho nhẹ.
“Chỉ tiếc là vô dụng quá đỗi.”
“Ý em là loài hoa tím đó?”
Lawrence lại rót đầy cốc của cô, lần này bia cạn nhanh như chớp.
Cô nhìn anh với ánh mắt không mấy tin tưởng, rồi cố tình phồng lông đuôi lên.
“Còn cái gì vô tích sự hơn chứ?”
“Ừm… Có lẽ là sự ranh mãnh của thương nhân lưu động.”
Lawrence cười, và Holo lại nhấp một ngụm bia, rồi khéo léo nằm ngửa xuống giường.
“Có ngày em làm đổ đó nhé.”
“Giấc mộng đời em là được say xỉn rồi ngủ quên, người đẫm mùi rượu mà.”
“Nghe dở hơi thật. Thôi nào.”
Anh với tay lấy cái cốc cô để trên bụng, và cô ngoan ngoãn đưa cho anh.
Dù mắt nhắm, có vẻ đầu cô vẫn còn đang nghĩ ngợi điều gì đó.
“Nghĩ mà xem, em, kẻ từng được gọi là Hiền giả Sói Yoitsu, giờ đây lại phải đau đầu vì một thứ hoa…”
“Nếu em có thể nghĩ ra những ý tưởng buôn bán xuất thần liên tục, thì anh đã làm chủ một tập đoàn lâu rồi.”
“Ngốc. Em sẽ để dành tiền, chiếm tất cả cho mình em thôi.”
Cô xoay người nằm sấp, cằm gối lên hai tay, cái đuôi nhẹ nhàng quét qua quét lại.
Có vẻ trong đầu cô đang tưởng tượng đến kho báu cao như núi và cuộc sống ngập rượu ngon thịt béo.
“Nhưng mà hoa thì…”
Lawrence lẩm bẩm, còn Holo thì ngồi sát lại bên, đuôi nhẹ nhàng đập vào lưng anh.
“Giá mà là hoa hồng.”
“Hử?”
“Dân thành phố dùng nhiều hoa hồng trong lễ hội lắm. Khi vua chúa quý tộc đến thăm, họ cũng rải đầy đường bằng hoa hồng. Ở vùng phương nam nữa, người ta dùng hoa hồng để nấu đồ ăn và làm kẹo; bán chạy lắm.”
“Ồ?”
Cô nghiêng người lại gần, tỏ ra háo hức được nghe thêm. Lawrence lập tức rào trước rằng mình chỉ nghe kể lại thôi, rồi tiếp tục.
“Nghe nói sữa hạnh nhân, nước hoa hồng và đường là mấy món không thể thiếu trong tiệc quý tộc. Trộn lại thì được món xúp ngọt, thơm mùi hoa. Rồi đem nấu cùng cơm, sau bữa thì uống với rượu táo dâu. Hoặc có thể thêm gừng rồi hầm với chim cút hoặc vịt. Người bệnh chỉ cần uống cái này là khỏe liền.”
Holo quên cả chớp mắt, nuốt nước miếng ừng ực.
Dù lúc trước hai người đã dùng bữa trong khi bàn kế hoạch, có vẻ cô vẫn còn ăn được thêm. Lawrence vừa thấy buồn cười vừa thấy đáng yêu vì cái bụng ham ăn ấy, nên kể tiếp:
“Còn tuyệt hơn nữa là món kẹo của vùng biển phía nam sâu thẳm, nơi một nửa thời gian trong năm là mùa nắng nóng.”
Holo nắm lấy vạt áo anh, cái đuôi vung vẩy không ngừng.
“Dù trời nóng, trên núi cao vẫn có băng tuyết quanh năm. Người ta sai người hầu leo núi, lấy băng, rồi bào thành tuyết, trộn với đường, rưới nước hoa hồng, thêm vỏ trái chua gọi là chanh đun với mật ong, rồi rưới mật ong nữa.”
Lawrence giả vờ múc tuyết vào tô tưởng tượng, rồi mô tả từng bước. Holo dõi mắt theo tay anh đầy mê mẩn.
“Cuối cùng thì dùng muỗng bạc mà ăn. Vừa giòn rôm rốp trong miệng, vừa mát lạnh chảy xuống cổ họng… Á á á… Holo!”
Cô bấu vào đùi anh, móng tay ấn mạnh vào thịt.
“…Chúng ta… nhất định phải đi về phía nam…”
“Không. Không đi đâu hết”
Anh hối hận vì đã kể quá hăng.
“Dù sao cũng đắt hơn đào ủ mật ong, nên mình đâu có mua nổi.”
“Ơ kìa…”
Holo trông như sắp khóc, rồi cắn ngay vào chân anh.
“Á, đau đấy!”
Cô cắn chặt như thể muốn anh chia sẻ nỗi đau khổ không được ăn. Rồi bỗng ngẩng đầu lên:
“Trời ạ, quần anh rách mất thôi…”
“Nhưng khoan đã.”
“Gì nữa đây?”
“Phía bắc cũng có băng, cũng có mật. Chanh thì… thay bằng trái khác. Đường thì có thể tìm ở mấy thị trấn cảng, đúng không?”
Holo đã đã học được quá nhiều điều không cần thiết từ những chuyến buôn.
“Nếu có rồi thì ai sẽ bỏ ra đống tiền đó mà mua?”
Cái đuôi cô đập vào lưng anh.
“Còn nước hoa hồng thì sao? Có tồn tại mà đúng không? Nó cũng đắt lắm à?”
“Hả?”
Lawrence hỏi lại, trong khi Holo lẩm bẩm tính toán. Cô đang dốc hết những gì mình biết, cố nghĩ xem làm sao để tự chế kem đá hoa hồng.
Rồi đột nhiên, ánh mắt cô bừng tỉnh, ánh lên ngọn lửa giận, quay sang nhìn Lawrence.
“Anh nghĩ cái nào quý hơn: một giọt nước hoa hồng đó… hay sự ấm áp từ cái đuôi của em mỗi đêm hả?”
Lông sói, dù là loại hạng nhất, vẫn thua lông hươu. Lông hươu thì thua thỏ, thỏ lại thua cáo. Nhưng lông cáo cũng không sánh được với lông chồn trắng. Loại lông này có thể được bán với giá vài đồng bạc trenni, trong khi mỗi đơn vị nước hoa hồng lại đáng giá tận bằng chừng ấy lượng vàng. Sự thật đó sẽ xé toạc lòng tự tôn của một con sói của cô mất.
Tuy nhiên, Lawrence không sợ bị cô xé xác, bởi vì… cô đã hiểu lầm.
“Tất cả lông sói gom lại bán ở chợ cũng chẳng mua nổi một giọt nước hoa hồng đâu.”
Holo mắt trợn tròn, cứng họng.
Một lúc sau, tay cô bắt đầu run, rồi đến vai, rồi đến tai và đuôi.
Khi Holo nhếch môi trên, để lộ hai chiếc răng nanh sắc như dao, Lawrence lên tiếng.
“Nhưng em có biết mình bôi gì lên đuôi không?”
“…Hả?”
Cái đuôi mà cô chải chuốt và nâng niu mỗi ngày, giờ đây phồng to chỉ vì một chút giận dỗi, và phần lông cuối đuôi óng ánh như tơ thủy tinh dưới ánh nến.
Thứ gì đã khiến nó bóng mượt và tạo ra mùi thơm dịu khiến anh hắt hơi mỗi khi lại gần?
Holo nhìn đuôi mình, rồi quay sang Lawrence.
“Cái đuôi ấm áp của em, đắt hơn nước hoa hồng hàng trăm lần. Nhiều, nhiều hơn thế nữa.”
Lawrence thở dài, buông vai xuống.
“Thứ dầu em dùng không mua được ở tiệm dầu đâu. Nó bán ở hiệu thuốc. Và sẽ cực kỳ ngớ ngẩn nếu ai đem nó nấu ăn. Nhưng vì em chọn mua chỉ nhờ vào mùi hương, không nhìn giá, điều đó chứng tỏ cái mũi em thính thật sự. Em đã vô tình chọn đúng món đắt nhất ở đó.”
Holo thường vòi vĩnh những món xa xỉ mỗi khi Lawrence phạm lỗi nặng. Thế nên anh chẳng có lý do gì để phản đối cả. Chỉ biết nới hầu bao, để cô tha hồ chọn thứ mình muốn. Nhưng thứ dầu ấy vốn là sản phẩm dành riêng cho quý tộc, chứ không phải món quà một thương nhân tặng cho con gái mình.
Ấy thế mà… nó lại đang được xoa đầy vào đuôi của cô nàng Holo mơ màng.
“Dầu ấy được chiết từ lớp màng nổi trên bề mặt nước hoa hồng, sau đó pha loãng với dầu nền. Có chuyện kể rằng, một hoàng đế tàn bạo thời xưa từng tặng loại dầu ấy cho một công chúa, nhưng đến cả loại đó cũng không sánh bằng dầu nguyên chất chiết từ từng cánh hồng đâu. Người ta đồn rằng, sau khi dùng số cánh hoa nặng bằng mười con ngựa béo, tên bạo chúa ấy mới thu được đúng một lọ nhỏ bằng ngón út. Nhưng ngay cả loại dầu em đang dùng, để làm ra được chắc vẫn cần tới cả một xe hoa…”
Lawrence đang thao thao bất tuyệt thì bị dừng lại giữa chừng.
“Cả một xe…”
“…Này?”
Holo nheo mắt lo lắng nhìn anh.
Nhưng Lawrence đột ngột quay người.
Anh không nhìn Holo mà nhìn chằm chằm vào cái đuôi phồng xù đang ve vẩy kia.
“Một xe đầy?”
“Ph—phaa!?”
Holo bật ra một tiếng kêu kỳ cục, định đứng bật dậy.
Lawrence không để ý. Anh nắm lấy đuôi cô, nhìn chăm chăm vào nó.
“Ơ-ơ, đuôi của em… Anh mạnh bạo quá nha—!”
Mặt Holo đỏ bừng. Cô cố gắng vùng vẫy như cá quẫy, nhưng Lawrence giữ chắc và không buông ra. Thực ra, anh không còn chú ý đến cái đuôi, mà đang mải mê kết nối các ý tưởng nảy lên trong đầu.
Họ đã có nguyên liệu. Có công cụ. Có nhân lực. Mọi thứ đều sẵn sàng. Kết quả gần như được đảm bảo. Mà trên hết là sản phẩm thì lại không cồng kềnh.
“Đúng rồi! Đây chính là đáp án!”
Lawrence ngẩng đầu lên khỏi dòng suy nghĩ, nở nụ cười rạng rỡ nhìn Holo.
Rồi đến lúc anh nhận ra gương mặt Holo đỏ lựng, đôi mắt long lanh nước sắp khóc… thì đã quá muộn.
“Đồ… đần thối!”
Cô phồng má đến mức tối đa.
Nhưng cho dù cô có ngã lăn khỏi giường ngay lúc đó, Lawrence vẫn không thể ngừng cười.
“Ý tưởng này tuyệt vời thật sự!”
Anh nắm tay Holo kéo dậy, còn cô vẫn méo mặt sờ đuôi, xem có dấu vết gì do bị bóp chặt quá không.
Cô hoảng hốt trước sự hào hứng đột ngột của anh.
“Và còn giúp dưỡng đuôi của em luôn!”
Holo, với chiếc đuôi vừa bị bạo hành, định đáp trả thì Lawrence lại giật tay cô, kéo đi.
“Đ-đợi đã, này!”
“Nào nào! Đi thôi chứ còn chờ gì nữa!”
Anh chộp cây nến mỡ trên giá và mở tung cửa.
“Chúng ta vừa giúp được dân làng, vừa có thể làm giàu rồi!”
Holo thở dài cực kỳ bực bội, nhưng cô không gạt tay anh ra.
Vẻ mặt cô thoáng hiện lên câu nói Lại nữa rồi,nhưng sau đó, một nụ cười khẽ xuất hiện nơi khóe môi.
~~~
Cánh đồng hoa, thứ đầy dầu đến mức chỉ cần ánh nắng hè cũng đủ khiến bốc cháy, lại mang theo mùi hương ngào ngạt, nở rộ bất tận trước mắt họ.
Ngay giữa cánh đồng đó, họ dựng một nồi chưng cất bằng đồng với cổ hẹp mang hình dạng như chiếc bình bẹt, đất sét, và các lọ thủy tinh mà cha của Amalie từng sưu tầm đầy đam mê.
Khi lửa đã cháy, họ có thể hái thêm hoa bất kỳ lúc nào cần từ cánh đồng.
Với tất cả những gì đã chuẩn bị, họ có thể biến cánh đồng hoa tím, thứ chỉ từng mang đến tai họa, thành sản phẩm có thể trao đổi lấy vàng.
“Như thế này được chưa?”
Quý cô Amalie xắn tay áo, đang nhồi đất sét vào miệng nồi chưng cất, nơi đã được đổ đầy cánh hoa và nước sông.
“Sau đó thì gắn cái lọ thủy tinh này...”
Lawrence khéo léo dùng đất sét gắn miệng lọ nghiêng để hơi nước chảy vào. Thực ra, thông thường sẽ cần ống dẫn chuyên dụng hoặc ống đồng do thợ thủy tinh làm, nhưng đây chỉ là một phiên bản tạm thời.
Họ cần kiểm tra tính khả thi trước đã.
“Giờ tôi sẽ châm lửa.”
Người lên tiếng lo lắng là trưởng làng, đại diện cho dân làng. Những người đứng phía xa trông bất an, không hiểu họ đang định làm gì với một nồi đầy hoa luộc.
Nhưng tất cả công cụ và quy trình đều đã sẵn sàng.
Lawrence dõi theo ngọn lửa bốc lên, cả thân và lá được ngắt khỏi hoa cũng bắt lửa, khói cuộn lên không trung.
“Và… giờ thì sao?”
Amalie đứng cạnh, hỏi như thể đang cầu nguyện.
Khi nghe ý tưởng đêm trước, cô đã hăng hái không kém gì Lawrence—thậm chí là hơn— khi suýt nữa cầm lưỡi hái lao vào cánh đồng ngay trong đêm nếu không có Yergin giữ lại. Xem ra cả đêm cô đã không ngủ nổi vì quá phấn khích, khiến cho quầng mắt thâm xám như tro.
Yergin than thở rằng cô nên giữ vẻ điềm tĩnh của một lãnh chúa, nhưng dù trông mệt, cô vẫn đầy sức sống.
Dường như vẻ ngoan ngoãn của cô không đồng nghĩa với việc thích ngồi tĩnh lặng cầu nguyện.
“Khi nước sôi, hơi sẽ bốc lên lọ thủy tinh. Rồi ta làm nguội bằng nước.”
Dân làng, đã tạm hoãn việc đồng áng để đến tham gia, cầm xô gỗ đứng nghiêm, dù có phần miễn cưỡng.
“Chẳng mấy chốc đâu… Nhìn kìa.”
Lớp bên trong lọ bắt đầu mờ đi. Lawrence ra hiệu và dân làng lục tục dội nước lạnh lên lọ.
“Đây là cách khiến hơi nước ngưng tụ thành giọt.”
Tiếng nước sôi lục bục vang từ nồi đồng, hơi nước len vào lọ thủy tinh. Dù đang xuân, vùng núi đầu nguồn vẫn còn tuyết, nên nước sông lạnh buốt. Mỗi lần rưới nước là lọ lại trong hơn.
“Có ngày càng nhiều nước…”
Amalie kinh ngạc thốt lên.
“Đó là... dầu nổi trên mặt nước sao?”
“Có vẻ thành công rồi đấy.”
Tụ lại trên miệng của chiếc lọ nghiêng là một lớp dầu mỏng.
Hương hoa đã trở nên nồng nàn quanh họ, khiến Holo che miệng dưới lớp mũ trùm.
Khi mọi người đang lặp lại quy trình, Lawrence định gỡ lọ ra.
Nhưng Yergin đã chen vào.
“Việc tiếp tục thao tác này cứ để cho tôi.”
Hoặc có lẽ đây chỉ là cách ông giữ cho vị khách không bị bỏng.
Lawrence mỉm cười, nhường chỗ cho Yergin.
Bàn tay dày dạn của ông nắm nhẹ lọ thủy tinh, cẩn thận gỡ khỏi đất sét mà không làm đổ.
“Whoa.”
“Mùi mạnh thật!”
Hương thơm đậm đặc đến mức dân làng la oai oái.
Khi giơ lọ lên ánh nắng, rõ ràng thấy dầu và nước tách biệt.
Yergin đưa miệng lọ về phía Amalie.
Cô chấm ngón tay vào, lau lên tấm vải chuẩn bị sẵn.
“…Tuyệt thật.”
Đó là tất cả những gì cô thốt lên vì quá bất ngờ.
“Sẽ cần nhiều hoa mới ra được loại dầu thơm này, nhưng ở đây thì không thiếu hoa. Và hiệu thuốc sẽ pha loãng rồi bán đi nhanh chóng. Còn thương nhân như tôi thì chỉ cần một lọ nhỏ chứa dầu tinh khiết là đủ. Vừa không sợ mưa vừa không chiếm chỗ trên thùng xe của tôi.”
Dù chưa biết giá sẽ thế nào, ít nhất thì mùi rất thơm, và nguồn nguyên liệu lại vô hạn.
Lawrence tin rằng dân làng sẽ sẵn sàng hái hoa tiếp.
“Chỉ có điều…”
Anh ngừng lại. Amalie, đang say mê mùi thơm, và cả Yergin, Holo, trưởng làng đều nhìn anh.
“…khi mọi người xong việc, tối nay có ăn gì cũng sẽ vương hương thơm ngọt ngào này đấy.”
Mọi người cười phá lên, Yergin thậm chí còn vỗ tay.
“Vị lữ khách thông tuệ này đã chỉ lối cho ta. Giờ ta sẽ vượt qua thử thách của Chúa và biến cánh đồng hoa này thành món quà!”
Có đến cả núi cần hoa cần được cắt ra, và rồi dân làng sẽ phải nhặt bông hoa ra trước khi đem phơi khô để chúng dễ cháy hơn.
Không chỉ có thế, họ còn phải làm song song với công việc đồng áng, bởi ngay khi thay mùa, hoa cũng sẽ héo.
Nên không có thời gian để đứng chơi đâu.
Khung cảnh trở nên rộn ràng. Lawrence, đúng kiểu dân lữ hành, lặng lẽ lùi lại hai bước.
Rồi một bàn tay vỗ vai anh cái bụp.
“Ồ.”
Anh quay lại, ở đó là Holo.
“Sao nào? Em không thấy khâm phục sự thông minh của anh à?”
Cô sẽ cho phép anh vênh mặt một chút thôi.
Lawrence chưa kịp nói gì thì Holo, vẫn cười tủm tỉm dưới mũ trùm kéo sâu tới tận mũi, quay người và đấm thẳng vào bụng anh.
“Hự?!”
“Vì cái tội dám vò đuôi em, đồ ngốc.”
“Ai da…”
Thực sự thì không đau lắm đâu, nhưng anh vẫn khụy xuống vì bất ngờ.
Holo cúi xuống sát mặt Lawrence, trên mặt cô vẫn nở nụ cười đáng sợ dù có lớp vải che đi, rồi nói.
“Em sẽ không bao giờ quên chuyện anh vò nát đuôi em đâu.”
“Đ-đợi đã—”
“Và vì thế…”
Cô rướn người sát lại.
“…từ giờ, anh phải chăm sóc đuôi em kỹ càng nhất có thể đấy. Anh vừa lấy lòng được lãnh chúa, lại sắp phát tài nữa, đúng không?”
“Cái gì—? Chưa chắc bán được mà…”
“Ô, hay anh không muốn được sưởi ấm mỗi đêm nữa?”
Đôi mắt đỏ hổ phách long lanh như trái chín.
Dù Lawrence đến đây với giấc mơ kiếm lời, nhưng rốt cuộc thì xem ra ví của anh chẳng mấy phình to được rồi.
“…Được rồi vậy.”
Anh đáp một cách ngoan ngoãn, và Holo cười như trẻ con.
Rồi cô lên tiếng.
“Sau cũng thì thi thoảng em cũng phải dọn dẹp ví anh mà.”
“…”
Anh chỉ biết nhìn cô, lúc này đã ôm lấy cánh tay anh đầy thích thú.
Dân làng đang bận rộn hái hoa, Yergin và Amalie đang trao đổi đầy căng thẳng.
Bất ngờ, họ quay sang nhìn hai người với nụ cười rạng rỡ.
“Ngài Lawrence, ngài đúng là món quà của Chúa!”
Lawrence đáp lại bằng nụ cười ái ngại, giơ tay chào nhẹ.
Cánh tay còn lại đang bị một con sói tham lam níu chặt, đảm bảo chẳng ai mang anh đi được.
“Tôi không dám đâu ạ. Nếu có, thì tôi giống như lễ vật hiến tế cho một kẻ từng được gọi là thần hơn…” anh khẽ thì thầm với chính mình.
“Làm người tốt là sở thích của dân thương gia mà.”
Holo nói, đuôi ve vẩy dưới tà áo.
Lawrence ngẩng nhìn trời xanh. Mùa đông đã hết, xuân gần kề.
Và đó là câu chuyện về một cánh đồng hoa, nơi mỗi cơn gió lướt qua đều thấm đẫm cơ thể anh bằng hương thơm ngọt ngào.
◇◇
Đứng trước túp lều phủ bụi, Lawrence bừng tỉnh khỏi dòng hồi ức tỏa ra từ lọ dầu nhỏ.
Có vẻ mùi hương ấy vẫn chưa phai theo năm tháng.
“Giờ thì anh nhớ rồi. Hồi đó Myuri đâu có hứng thú gì với cái lọ nhỏ này.”
“Dù thơm thật đấy, dù ngọt ngào thật đấy, nhưng vẫn không ăn được mà.”
Myuri vẫn còn quá nhỏ để có thể thỏa mãn khi chỉ được ngửi mùi hoa.
“Con bé chỉ mải giấu cái cối xay tay đi thôi. Thế nên, giờ chắc nó giấu ở chỗ chẳng ai ngờ tới rồi.”
Con gái độc nhất của họ, Myuri, thích các trò nghịch ngợm hơn tất thảy và mê mẩn mấy câu chuyện phiêu lưu và săn kho báu.
“Làm anh nhớ đến ai đó à nha…”
“Phải rồi, anh chứ ai, ám ảnh với kho báu và tìm cách nhét mọi thứ có thể vào trong túi mình.”
“Không. Anh đang nghĩ đến ai đó thích giấu miếng thịt khô ngon nhất khỏi túi thực phẩm để dành ăn sau cơ.”
“Không có nhé, đồ đần thối.”
“Ồ hô. Vậy ra có những điều mà sói thông thái cũng không biết à?”
“Rõ ràng là em biết nhiều hơn anh trăm lần!”
Họ cứ thế trêu nhau, vai chạm vai, bước ra khỏi nhà kho và đi về phía nhà chính. Dù họ có không ngừng cãi cọ, đôi bàn tay họ vẫn đan chặt vào nhau.
Thoang thoảng phía sau họ là một mùi hương ngọt ngào.
Đó không phải mùi của một loài hoa nào, mà một thứ hoàn toàn khác.
Có lẽ là hương thơm của hạnh phúc.