Dù anh có lau chùi kỹ đến mấy, bụi vẫn tích tụ ở các góc phòng, huống chi là căn nhà kho bị bỏ bê ngày càng bừa bộn hơn theo thời gian. Lawrence đang tìm cái cối xay tay cần dùng cho sự kiện của làng, nhưng mãi vẫn không thấy.
“Kỳ lạ thật... Anh nhớ là mình không vứt nó đi mà. Hanna cũng không dùng thì nó phải còn ở đây mới đúng...”
Lawrence đứng dậy, gãi đầu rồi rời khỏi căn kho đầy bụi.
“Không tìm thấy sao?”
Holo ngồi trên một khúc gỗ trước căn kho nhỏ, khoác khăn choàng len được đan bằng tay trên vai. Nếu cô ngồi yên, cô hệt như một tân nương trẻ với mái tóc vàng xám được tết hờ, váy dài và khuôn mặt còn nét trẻ thơ.
Tuy nhiên, Holo không trẻ như vẻ ngoài. Một chiếc đuôi sói có cùng màu với mái tóc ló ra từ dưới lớp áo. Đó không phải là bộ lông dùng để giữ ấm mà là chiếc đuôi thật, và chủ nhân của nó là hiện thân của một con sói đã sống hàng trăm năm.
Hơn mười năm trước, cô đã gặp Lawrence, khi ấy là một thương nhân lưu động. Họ kết thúc hành trình ở suối nước nóng phương bắc Nyohhira, rồi trở thành vợ chồng.
“Anh không thể nhờ em đánh hơi mùi đá được nhỉ?”
Là một hiện thân của sói, Holo có đôi tai sói to, nhọn, và khứu giác sắc bén không kém gì chó săn. Cô có thể đánh hơi được vật thất lạc trên núi, nhưng để tìm một cái cối xay đá thì đúng là quá sức.
“Nếu mỗi tối anh ôm nó ngủ thì còn có thể đấy.”
“Nếu anh dám lừa dối em thì chắc sẽ bị trừng phạt khủng khiếp lắm.”
Anh tưởng tượng ra cảnh Holo nhìn anh trong tình trạng đau đớn với ánh mắt sắc lẻm bên ly rượu.
“Đồ đần thối. Em sẽ xé xác anh ra vì dám ngoại tình.”
Cô nghiêng người, chống cằm, để lộ hàm răng sắc như cười toe toét.
Dù nói vậy, Lawrence biết nếu điều đó thật sự xảy ra, cô sẽ buồn nhiều hơn giận—và chính việc khiến cô khóc mới là điều khiến anh đau đớn nhất.
“Anh sẽ nhớ kỹ điều đó.”
“Miễn là điều đó vẫn còn ghi tạc trong cái đầu bé xíu của anh là được rồi.”
Holo đứng dậy, nhảy đến trước cửa kho, hé nhìn vào trong.
“Chất đầy đồ đạc luôn.”
“Đã mười năm kể từ khi ta mở nhà tắm mà. Cũng tích lũy kha khá rồi đấy.”
“Ừ. Nhìn mấy món này làm em nhớ lại nhiều chuyện quá.”
Trong kho có đủ thứ đồ dùng thường ngày như rìu, cưa, búa, cộng thêm mấy món khách bỏ quên hay gửi nhờ, và cả phụ tùng sửa bàn ghế hỏng nữa. Mỗi món đều mang dấu ấn của mười năm qua.
“Tấm lưới này nữa... Chẳng phải ta từng dùng làm nôi cho Myuri sao?”
Holo mỉm cười, đưa tay chạm vào lớp bụi phủ trên tấm lưới treo từ trần nhà.
Thật ra đó không hẳn là cái nôi thật, chỉ là thứ họ đặt con gái vào những lúc cả hai đều bận thôi, vì Myuri quá hiếu động, để cô bé một mình là y như rằng có đủ thứ chuyện xảy ra.
Myuri thừa hưởng huyết thống từ Holo, mọc tai và đuôi sói. Khi ấy, đuôi cô bé còn to hơn thân người, nên khi nằm trong lưới trông hệt như sói con bị bẫy vậy.
Ngày tháng trôi qua nhanh như một cơn gió.
“Lúc đó con bé còn nhỏ xíu, chỉ nằm gọn trong cái lưới thôi.”
“Ừ, nó lớn nhanh thật.” Lawrence thở dài. “À đúng rồi.”
“Hử?”
“Có mấy lần Myuri từng nghịch ngợm trong kho. Biết đâu nó đem cái cối ra làm trò.”
Holo nhìn anh một thoáng rồi bật cười.
“Rất có thể. Em nhớ nó từng thích làm thuốc mỡ lắm.”
Con gái họ từng thích hái cỏ và nấm để chế thuốc, nghiền bằng đá rồi vo lại thành viên. Không hiểu sao đám trẻ trong làng đều mê tít.
“Có khi nó giấu đâu đó trên núi luôn cũng nên...”
“...Để anh hỏi nó xem.”
Lawrence thở dài, tay đặt lên cánh cửa.
“Này, anh đóng cửa đây.”
Holo đang tò mò nhìn quanh thì dừng lại, ánh mắt chợt hướng vào một góc phòng.
“Có chuyện gì sao?”
“Hmmm... Em nhớ ra gì đó thì phải...”
Cô với tay tới chỗ một loạt các vật nhỏ nằm trên kệ gỗ. Do bị phủ đầy bụi và mốc, thật khó để phân biệt chúng nếu chỉ dựa vào hình dạng. Cô cầm xuống một vật, rũ bớ bụi và lau sạch bằng vạt áo, để lộ ra là một lọ thủy tinh nhỏ.
“À, đúng nó rồi.”
Một nụ cười mỉm xuất hiện trên gương mặt cô.
“Vậy là... chắc là hết tìm nổi cái cối xay luôn rồi.”
“Hả?”
Vừa khi anh định hỏi ý cô là gì, Lawrence cuối cùng cũng nhận ra.
Khóe môi anh tự động nhếch lên. Dĩ nhiên đó là một nụ cười khổ.
“Ra vậy. Giờ thì anh nhớ ra rồi.”
“Anh có được cái lọ này trong chuyến du hành cùng em rất lâu trước đó nhỉ? Myuri từng lục lọi trong kho, thấy nó rồi hỏi tới tấp vì tò mò mà.”
Holo vừa chạm tay vào nút bần của lọ vừa nói.
Đó cũng là lúc cô mở cánh cửa ký ức của Lawrence.
Anh đã vô tình có được chiếc bình này vào năm thứ hai đi cùng với Holo.
~~~
Thương nhân lưu động chẳng khác gì chim di trú. Từ các xứ tuyết phương bắc đến vùng biển xanh ấm áp phương nam, họ rong ruổi khắp bốn phương suốt cả năm. Không như những thương nhân sống cố định trong thành, họ không bị ràng buộc bởi đất đai hay con người, nên dễ dàng di chuyển hơn. Nhưng cũng vì vậy mà họ khó kết giao thân thiết, sự thật ấy không thay đổi rằng dù đi đến đâu, họ vẫn bị coi như là người ngoài. Ngay cả khi chết, họ chỉ lặng lẽ rữa nát ở ngôi làng nơi tình cờ ghé qua, hoặc bên vệ đường mà chẳng ai hay biết. Các thị trấn thì đón chào thương nhân, cùng hàng hóa và giao dịch mà họ mang tới, nhưng không có nghĩa là muốn làm bạn cùng họ.
Thật khó phân biệt đâu là an yên, đâu là cô đơn.
Bởi vậy, xét theo lý trí, anh nghĩ mình nên tìm một người cùng ngồi cạnh trên ghế xà ích, để xua đi nỗi cô đơn mỗi khi đêm xuống. Dù phải từ bỏ một phần bình yên anh thấy cũng đáng.
“Vì sao ta lại đi về phía đông vậy?”
Từ phía sau vang lên một giọng nói. Người vừa hỏi đã ngồi cạnh anh trên ghế xa ích suốt ba ngày qua, cho đến khi tâm trạng cô trở nên xấu đi.
Anh biết lý do vì sao.
“Anh nói rồi mà.”
Lawrence vẫn nắm dây cương, không ngoảnh đầu lại.
Giờ đang là xuân. Dù gió còn se lạnh, nắng mỗi ngày một rực rỡ. Hai người băng qua cánh đồng cỏ dài vô tận. Anh cảm nhận rõ Holo đang hờn dỗi trong khoang xe. Cái đuôi của cô chắc đang xù lên vì giận. Anh thở dài, không phải vì bực bội mà vì bất lực trước sự trẻ con của cô.
“Anh cũng muốn đi về phía tây chứ. Chúng ta đã sống trên đường ba tuần rồi. Anh cũng muốn được nghỉ ở một phòng trọ với giường nhồi len, uống rượu no say, ngủ dậy trễ, ăn trưa trong ánh nắng và nhìn phố xá đông vui qua cửa sổ mà…”
Thế nhưng, khi đến ngã ba, Lawrence vẫn rẽ xe sang phía đông.
Vì anh là thương nhân lưu động, và có một khách hàng cần phải gặp.
“Vậy là anh bỏ hết mọi thứ quan trọng sang bên chỉ để kiếm lời sao?”
“Đúng vậy. Anh yêu vàng lắm. Ôi, nàng lumione xinh đẹp ơi!”
Giọng nói của Lawrence được cất cao và đầy tính phóng đại, và anh có thể nghe thấy sau lưng mình, Holo phát ra một tiếng rên rỉ.
Cô cũng biết không thể thay đổi được gì, nhưng vẫn thất vọng vì nghĩ rằng họ sẽ được nghỉ ngơi trong thành trấn.
“Nhưng viện trưởng ở một tu viện mà anh quen lâu nay đã lên tiếng nhờ vả, nên anh đâu còn cách nào khác. Ông ấy muốn anh đến xem một chú cừu non không may bị gọi về làm lãnh chúa, tuy là gia đình anh ta đã gửi anh vào tu viện từ nhỏ. Một người như thế chắc đang khốn đốn vì chẳng biết gì về chuyện trần thế, phải trái không phân cho xem. Nếu giúp được anh ta, chúng ta sẽ có cơ hội kết giao với một lãnh chúa trẻ. Một thương nhân không thể bỏ qua cơ hội đó được. Còn ai không đi, thì chắc chắn không phải thương nhân.”
Sau bao nhiêu cuộc phiêu lưu, anh đã hứa với Holo sẽ không nhận những việc lớn và nguy hiểm nữa. Nhưng anh không nghĩ chuyện này thuộc loại đó. Vả lại, đây là công việc mới mẻ, lại hứa hẹn sinh lời.
Chỉ cần chậm nghỉ ngơi đôi chút, đổi lại sẽ được quen biết một lãnh chúa. Vậy là đủ.
Holo lườm anh.
“Anh…”
Giọng cô trầm xuống thấy rõ, dấu hiệu cho thấy cô đang rất không hài lòng. Nếu Lawrence cứ thế này và thực sự chọc giận Holo, đêm nay chắc chắn cô sẽ không cho anh ôm chiếc đuôi ấm áp đi ngủ nữa.
Trời dù đã sang xuân nhưng ban đêm ngoài trời vẫn lạnh.
“Biết rồi, biết rồi. Anh sẽ bù đắp cho em mà.”
“…”
Không có tiếng đáp. Lawrence thở dài, nói tiếp:
“Nơi ta đến dù nhỏ, nhưng vẫn là dinh thự của lãnh chúa. Nhất định sẽ được tiếp đón tử tế mà…”
Anh vừa nói tới đó thì ngưng lại do cảm nhận một hơi thở ấm phả thẳng vào sau gáy.
Holo có thể phát hiện lời nói dối chỉ bằng đôi tai sói.
Với cô, lời nói của anh dễ bị bóc trần như trò trẻ con vậy.
Trước khi cô kịp cắn vào gáy anh, Lawrence đầu hàng và quay lại.
“Được rồi, anh hứa. Nếu đến nơi mà họ lạnh nhạt với bọn mình, thì ta sẽ đến một thị trấn gần đó. Rồi tiêu xài thỏa thích nhé.”
Dù không được ngủ giường nhồi len và tơ lụa, thì ít nhất cũng có thể thuê phòng có mái che và giường rơm ở bất cứ thành trấn nào trong vùng. Bữa tối có thể là thịt lợn hoặc gà, hoặc chí ít là nồi hầm rau nấm theo mùa. Họ đã đi về hướng nam xa đến mức gần đến các miền trồng nho, nên chắc chắn sẽ có nhiều rượu để uống.
“Em muốn từ biệt cháo nguội và bia thiu lắm rồi.”
Holo nhìn anh đầy trách móc, mắt không rời anh suốt một lúc.
Rồi cô thở hắt, phì mũi rõ to.
“Và anh nhất định phải đi tắm đấy.”
“Hả?”
Lawrence giật mình, đưa mũi ngửi ngực áo mình. Cũng không đến mức tệ... Nhưng rồi anh hiểu ra.
Có lẽ Holo muốn ghé thị trấn chính vì chuyện này.
“Nếu anh muốn dùng đuôi em làm gối ấm mỗi đêm, thì ít ra cũng phải sạch sẽ một chút chứ. Em không đời nào để ve rận bám lên đâu!”
Holo luôn chăm sóc chiếc đuôi của mình hết sức tận tụy. Hệt như một lính đánh thuê tự hào với kiếm bén và cơ bắp rắn chắc, chiếc đuôi chính là niềm kiêu hãnh của cô.
Nên dù Holo đã cố hết sức để chịu đựng người đồng hành mà lúc nào cũng trông như thể sẽ có bọ nhảy tứ tung trên người, thì có vẻ cô sắp đến giới hạn rồi.
“...Anh đâu có đến mức đó...”
Lawrence phản kháng yếu ớt. Trước kia du hành một mình, anh chẳng mấy bận tâm. Nhưng từ khi đi cùng Holo, anh đã nỗ lực đôi chút để bản thân sạch sẽ.
Nhưng Holo mới là người quyết định điều đó.
“Em lúc nào chẳng thơm như hoa, chẳng qua anh chưa từng nhận ra thôi.”
Cô vừa nói vừa che mũi lại. Quả đúng là cô luôn thơm dịu, nhưng Lawrence biết mẹo đó rồi.
“Là nhờ tinh dầu em dùng lên đuôi còn gì. Đắt đỏ lắm đó.”
Holo lườm anh đầy giận dữ.
“Đồ đần thối. Em vốn dĩ đã thơm như thế rồi!”
“...Nếu em nói vậy.”
Không muốn cãi vã, Lawrence quay lại, cầm dây cương.
Dù chỉ là tinh dầu, mùi hương dịu nhẹ từ gió thoảng cũng không khiến anh phiền lòng.
Tinh dầu cô dùng có phải thơm như vậy thật không nhỉ?
Trong lúc anh còn đang thắc mắc, Holo chợt đánh hơi rồi nhìn quanh.
“Hửm. Bỗng dưng em ngửi thấy mùi gì ngọt lắm. Ai đó đang nướng bánh chăng?”
“Không, cái này là...”
Lawrence chưa kịp nói hết thì cung đường cắt ngang cánh đồng hóa thành một khúc cua gấp, và ngay khi thấy cảnh trước mặt, anh hiểu ra.
“Ồ.”
Holo sửng sốt thốt lên. Phản ứng của cô hoàn toàn dễ hiểu.
“Đẹp tuyệt vời!”
Tựa như có ai kẻ đường trên mặt đất, đồng cỏ xanh mướt bỗng hóa thành một tấm thảm tím trải dài vô tận trước mắt họ.
~~~
“Nhưng mà... mấy thứ tốt có nhiều quá cũng thành ra phản tác dụng rồi...”
Dù Lawrence chẳng mấy để tâm, Holo, với khứu giác thính nhạy, buộc phải bịt mũi khi xe đi ngang qua con đường chạy giữa cánh đồng hoa.
Ong cũng kéo đến rất nhiều, hẳn là bị hương thơm ngào ngạt kia thu hút.
Khi cuối cùng cũng thoát khỏi biển hoa một cách thận trọng và vượt qua một con suối nơi có chiếc cối xay nước cũ kỹ mục nát quay cót két, Lawrence đã nhìn thấy điểm đến của mình. Theo thông tin anh nhận được từ trước, ngôi làng họ sắp đến có tên là Hadish.
Dựa vào cách các ngôi nhà nối kết với nhau, anh biết ngay đây là một làng nhỏ. Lawrence từng nghe được trước đó rằng đường làng thường chỉ rộng vừa đủ để khiêng một chiếc quan tài nếu có ai đó qua đời. Ở những nơi chẳng có ai đứng tiễn biệt người quá cố, đường còn nhỏ đến nỗi bánh xe xe ngựa lấn ra cả hai bên.
Nhưng điều khiến anh chú ý nhất là khoảng cách giữa các ngôi nhà.
“Có lẽ dân làng ở đây không hòa thuận chăng?”
Trước khi gặp Lawrence, Holo đã dành hàng thập kỷ—thậm chí là hàng thế kỷ—sống ẩn mình trong những cánh đồng lúa mì ở một thị trấn tên là Pasloe. Vì vậy, cô có con mắt rất tinh tường để đánh giá bầu không khí trong các khu dân cư loài người.
Nhà ở Hadish cách nhau xa đến mức người đứng trước hiên nhà cũng không thể thấy được mặt nhau.
“Nhưng đường sá lại sạch sẽ đến lạ. Cỏ được cắt gọn, nền đất thì nện cứng. Gà thả rông cũng rất nhiều.”
Nếu người dân không ưa nhau, thì chẳng ai dại mà thả gà ra vì thế chỉ tổ sinh chuyện mất cắp hay tranh chấp mà thôi.
Lawrence nhìn ngôi làng, trong làn gió vẫn còn thoang thoảng mùi hoa ngọt ngào, chỉ nghĩ ra được một từ bình yên.
“Phải có lý do gì đó chứ. Thật kỳ lạ khi có cánh đồng rộng thế mà họ lại không canh tác bao nhiêu.”
Trong các thành phố có tường thành, đất luôn thiếu. Ai có cơ hội cũng sẽ mang cày ra đất màu mỡ mà canh tác ngay lập tức.
“Có khi nào ông vua vùng này tàn ác đến mức dân chúng bỏ chạy hết không? Hay ta nên chuồn đi thì hơn đi?”
Holo vẫn buông mấy lời như vậy dù đã đi xa đến thế.
“Không phải là không thể, nhưng theo lời viện trưởng, người mới lên làm lãnh chúa là người rất đáng tin. Anh không nghĩ ngài ấy sẽ làm gì độc ác đâu.”
“…Hừm.”
Nghe Lawrence nói vị lãnh chúa mới là người tốt, Holo lại nhăn mặt.
“Ra là loại người sống qua ngày chỉ với đậu rang và nước lã, đúng không? Ngay cả khi ăn cơm cũng làm như có tang—thật im lặng, ảm đạm...”
Một tu sĩ tốt là người ăn uống đạm bạc, giữ giới tịnh khẩu.
Tất nhiên, điều đó hoàn toàn trái ngược với lối sống phóng túng của Holo.
Có lẽ đó cũng là một trong những lý do khiến cô cáu gắt suốt mấy ngày qua.
“Nếu đã phải đến chỗ như vậy, thì nhìn kìa, sao không ghé luôn ngôi nhà kia? Có hành khô và cá hồi treo dưới mái hiên đó. Gà và heo được nuôi trong vườn, còn đất vườn rau thì đen xốp.”
Holo chỉ vào một căn nhà trông như đã đứng vững cả ngàn năm, mái rơm thấp và dày như thể chó vừa lăn qua. Có thể giường chỉ là rơm khô ngứa ngáy, nhưng đồ ăn chắc chắn ngon. Và vì nguyên liệu hái ngay ngoài vườn, nên chắc chắn rượu cũng chẳng thiếu.
“Nhưng không phải tu sĩ nào sống trong tu viện cũng khắc khổ như vậy. Nhất là những tu viện mà giới quý tộc thường lui tới, kể cả ở vùng xa xôi nghèo nàn. Anh không nghĩ họ lại tiếp khách quý bằng đậu rang với hành khô đâu.”
Việc ở lại nhà lãnh chúa mang một ý nghĩa lớn. Một khi đã được mời, lần sau sẽ được tiếp tục được phép lưu lại. Đó là cách lòng tin đã được xây dựng.
Lawrence giải thích như thế, nhưng Holo lại nhăn mặt như vừa nuốt nhầm con bọ.
“Lại còn là một lãnh chúa trẻ, bị đẩy ra thế giới trần tục một cách bất ngờ, đầu óc chắc đang rối như tơ vò rồi. Nếu xử lý khéo, biết đâu khi mở tiệm, chúng ta lại được giúp đỡ đấy.”
Anh biết mình đang nói nghe như một kẻ tính toán thiệt hơn, nhưng anh không hề có ý lợi dụng vị lãnh chúa trẻ kia.
Bởi nếu có bất kỳ thương nhân khả nghi nào cố tình lợi dụng sự non nớt của tân lãnh chúa để chớp thời cơ kiếm lời, thì sẽ bị đuổi thẳng cổ ngay.
“Anh…! Em chịu hết nổi rồi đấy!”
Cuối cùng Holo cũng chán ngấy, buông một câu chốt hạ rồi cuộn người trong khoang xe.
Lawrence tưởng tâm trạng cô đã khá hơn phần nào, nhưng xem ra cô vẫn cáu vì mệt mỏi sau chuyến đi dài.
Tuy nhiên, anh có cảm giác tâm trạng tệ hại đó không xuất hiện cho đến khi họ ghé qua tu viện. Có điều gì đó bất thường. Chẳng lẽ vì cô thật sự muốn được ghé mấy thị trấn phía tây đến thế?
Khi còn đang tự hỏi vì sao, Lawrence thấy một nhóm đông người bước ra từ ngôi nhà mà Holo đã chỉ trước đó.
Dẫn đầu là một ông lão thấp bé, hói đầu, đi cùng một nhóm đàn ông trông như dân làng. Ai nấy đều có vẻ mặt bực bội, đứng túm tụm thì thầm với nhau. Có người còn ngẩng mặt lên trời như than thở, kẻ thì lắc đầu quầy quậy.
Sau đó, cả nhóm cùng nhìn vào trong nhà.
“Holo.”
Lawrence khẽ gọi tên cô sau lưng. Dù cô đang cuộn tròn ở cuối xe, đôi tai sói của cô chắc chắn nghe được hết những lời bàn tán. Đến cả Holo cũng hiểu rõ, nếu nơi họ sắp đến có mâu thuẫn, tốt nhất nên hiểu rõ tình hình từ trước.
“Hừm.”
Cô chỉ đáp lại bằng một tiếng hừ mũi. Bị bất ngờ vì tâm trạng tồi tệ của cô, Lawrence quay đầu nhìn, đúng lúc đó thì nhóm người ngoài nhà phát hiện ra họ.
Cảm nhận ánh mắt đang đổ dồn về phía mình, Lawrence lập tức quay lại phía trước, và quả nhiên, tất cả đang nhìn họ chằm chằm.
“Xin chào.”
Lawrence lên tiếng chào khi dừng xe cách một khoảng thích hợp.
“Mọi người tụ tập đông đủ thế này… Không lẽ đang bàn chuyện lễ hội xuân?”
Anh cười tươi, cố tình ra vẻ ngốc nghếch như thể không cảm nhận chút nào sự căng thẳng đang bao trùm.
Dân làng đưa mắt nhìn nhau, ngập ngừng. Rồi ông lão thấp bé cuối cùng cũng nhìn về phía anh.
“Thì ra là thương nhân lưu động. Lễ hội làng chúng tôi vào mùa hè cơ.”
Ông ta nở một nụ cười tươi rói nhưng đầy giả tạo. Có vẻ đây là trưởng làng.
Lawrence bước xuống khỏi ghế xà ích. Vài người trong nhóm chăm chú ngắm con ngựa, thì thầm “Ngựa tốt đấy.” Vì Holo vẫn đang cuộn tròn trong thùng xe nên không ai để ý đến cô.
“Vâng, tôi thường buôn bán ở những tuyến phía bắc, nhưng lần này là đi theo lời nhờ vả.”
“Nhờ vả?”
“Tôi nghe nói vị lãnh chúa cai quản vùng này vừa mới tiếp nhận chức vụ. Một người quen cũ đã nhờ tôi đến thay mặt chào hỏi.”
Vừa nhắc đến lãnh chúa, những người đứng sau trưởng làng liền trao nhau ánh nhìn đầy ẩn ý.
Có vẻ dù đang vào vụ mùa bận rộn, họ vẫn tụ tập giữa ban ngày vì chuyện liên quan đến vị lãnh chúa ấy.
“Ồ... Vậy là anh đến từ tu viện mà ngài ấy từng ở?”
“Vâng. Theo chỉ thị của ngài viện trưởng.”
Lawrence không rõ nguyên nhân gì khiến dân làng có vẻ đối đầu với lãnh chúa, nhưng anh giả vờ như chẳng biết gì. Vẫn giữ nụ cười ngây thơ, anh tiếp tục câu chuyện như thể chỉ đến để làm tròn nghĩa vụ.
“Vậy... ông có thể chỉ giúp tôi dinh thự của ngài ấy ở đâu không?”
Khác với giới quý tộc thành thị sống trong thành trì, người ngoài thường không dễ phân biệt được đâu là chỗ ở của lãnh chúa vùng quê. Lawrence hỏi với ý định tìm đường.
Trưởng làng liếc mắt ra phía sau, nơi dân làng đang đứng.
“Anh đến thật đúng lúc,” ông ta nói, rồi đám đông lập tức tách sang hai bên, mở lối vào nhà. “Ngài lãnh chúa tình cờ đang ở đây để giải quyết công việc. Tôi sẽ báo giúp.”
Nói rồi ông đi vào trong.
Chẳng mấy chốc, ông quay lại, theo sau là một người khác.
“Đây là vị thương nhân.”
Trưởng làng đưa tay ra hiệu về người phía sau mình—một người đàn ông khổng lồ, cao lừng lững, vai rộng, ngực nở. Ông ta có khí thế như một con cừu đực hoang dã, râu xồm phủ xuống tận ngực, bắp tay to đến mức cứ như mọc thêm chân. Tuy chiếc áo choàng có viền lông là sự thể hiện quyền uy, nhưng trông đối phương chẳng khác gì một thủ lĩnh thổ phỉ.
Dĩ nhiên, tu sĩ cũng có người vạm vỡ, nhiều người trông còn già hơn tuổi.
Tuy nhiên, dù nhìn thế nào, Lawrence cũng thấy người đàn ông này phải quá năm mươi tuổi. Các ngón tay dày cộm, móng tay bè ra rõ ràng là bàn tay của người lao động chân tay lâu năm.
Đây mà là là chú cừu non lạc đàn bị gọi về từ tu viện để ngồi lên ghế lãnh chúa, như viện trưởng từng nói ư?
Đôi mắt người đàn ông đảo qua với vẻ sắc sảo đến mức tưởng chừng có thể phát ra tiếng động, rồi nhìn xuống Lawrence từ trên cao.
Lawrence còn đang chết trân, chưa nói nên lời, thì người đàn ông ấy bỗng quay người sang một bên.
“Hả?”
Rồi, từ sau ông ta, một thiếu nữ xuất hiện.
Cô gái có gương mặt đoan trang, mái tóc đỏ được buộc gọn thành búi thấp sau đầu.
“Ngài là sứ giả từ tu viện Ivan?”
Chiếc áo choàng dài cô mặc không thêu hoa văn cầu kỳ, tuy đơn giản nhưng có thể thấy rõ đó là vải lanh dệt khéo. Trên cổ cô đeo một mặt dây chuyền hổ phách hình giọt nước.
Nhưng điều quan trọng hơn là người đàn ông vạm vỡ bên cạnh lập tức cúi chào cô một cách nghiêm trang.
Và như thế, dù câu trả lời đã rõ, sự việc diễn ra quá đột ngột khiến đầu óc Lawrence nhất thời trống rỗng.
“Có chuyện gì sao?”
Câu hỏi của cô kéo anh về thực tại. Người đứng trước mặt anh chính là lãnh chúa.
Thông thường, người thừa kế là con trai cả, nhưng nếu không còn ai khác, thì chuyện như thế cũng có thể xảy ra. Và rồi Lawrence sực nhớ—vì anh toàn giao tiếp ngoài sân với viện trưởng tu viện, nên anh chưa từng nhận ra, nhưng tên chính xác của tu viện đó là:
Dòng Nữ Anh Em Ivan Thánh Hiệu Isiodorus.
Việc một gia đình gửi con gái vào tu viện thường là cách để giữ gìn quyền thừa kế không bị phân chia ra ngoài, hoặc đơn giản là cách để những nhà quý tộc không lo đủ tiền hồi môn tống khứ một gánh nặng.
Vậy nên khi cô tiểu thư bị gọi về đột ngột, việc viện trưởng lo rằng cô không hiểu sự đời, thậm chí còn đang lâm vào tình cảnh rối rắm, là điều hoàn toàn dễ hiểu.
Và rồi Lawrence cuối cùng cũng hiểu vì sao Holo lại cáu kỉnh như vậy kể từ sau khi rời tu viện.
“Trời ơi, xin thứ lỗi.”
Lawrence đứng thẳng dậy, lấy từ túi áo trong ra bức thư của viện trưởng.
“Đây là thư từ viện trưởng.”
Quý cô ấy—có khi nên gọi là thiếu nữ thì đúng hơn—bước tới nhận thư. Rõ ràng cô không hề được dạy cách ứng xử như một nữ chúa khi đưa tay ra nhận trực tiếp từ tay anh.
Những ngón tay thon dài như thể chỉ cần lột vài hạt đậu đã đỏ ửng lên, vừa chạm đến bức thư thì bị một bàn tay thô to chắn lại. Lawrence không bất ngờ. Người có địa vị không bao giờ nhận đồ trực tiếp từ tay người lạ với xuất thân tầm thường.
“X-xin... cảm ơn.”
Cô gái nhận lại bức thư từ gã đàn ông to lớn kia, người mà nhìn qua thì giống hộ vệ hơn là người hầu. Cô nở một nụ cười gượng gạo, không rõ là dành cho Lawrence hay người khổng lồ kia.
Tuy vậy, dường như quen với chuyện thư từ trong tu viện, cô mở bức thư không chút do dự và đọc rất nhanh. Viện trưởng hẳn đã viết gì đó dễ chịu, vì gương mặt cô dần rạng rỡ với nụ cười trong trẻo, khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh ai đó đọc Kinh Thánh giữa khu vườn đầy nắng.
Viện trưởng là người mà hầu hết thương nhân thành thị đều bỏ cuộc vì ông mặc cả quá mức. Cuối cùng, chỉ còn một thương nhân lưu động như Lawrence chịu giao hàng với lợi nhuận ít ỏi. Nhưng bất chấp tính toán đó, ông vẫn là người chu đáo, tận tâm.
Lawrence nhìn nét mặt dịu dàng, đôi mắt nâu ấm áp của cô gái trẻ ấy, rồi khẽ nín thở.
Hóa ra suốt thời gian qua, Holo nổi giận là vì chuyện này.
Vì đây là tu viện nữ, đáng ra anh nên đoán ngay người được gọi về là một cô gái trẻ. Một khi đã rõ như thế, việc Holo tức giận khi thấy anh hào hứng đi gặp cô gái đó là hoàn toàn hợp lý.
Anh đã đạp phải đuôi sói nhà mình mà không hề hay biết.
Lawrence liếc nhìn về phía sau, nơi Holo vẫn đang giả làm hàng hóa trên xe. Khi nghĩ tới chuyện sẽ phải giải thích sau này, tim anh chùng xuống.
“Ngài… Lawrence?”
Tiếng gọi bất ngờ kéo anh về hiện tại.
“Vâng?”
Có vẻ cô gái đã tìm thấy tên anh trong thư.
“Tôi là Kraft Lawrence. Thương nhân lưu động. Tôi đã quen biết viện trưởng từ lâu.”
“Thì ra ngài là người đã mang bánh mì ngon đến tu viện.”
Cô gái mỉm cười thân thiện. Người hộ vệ to lớn bên cạnh vẫn không nhúc nhích, đôi mắt sắc như dao của ông khiến Lawrence toát mồ hôi.
Còn cô gái thì đúng là một thiếu nữ ngây thơ vừa rời tu viện.
“Bánh ngon là nhờ tay thợ nướng và ơn ban của Chúa mà.”
Lawrence khiêm tốn đáp. Cô bật cười khe khẽ.
“Có thể đúng vậy, nhưng thư còn nói ngài có người đồng hành phải không?”
Cô đưa mắt lo lắng nhìn về phía thùng xe. Lawrence suýt bật cười.
“Xin thứ lỗi, cô ấy đang nằm nghỉ phía sau xe. Có lẽ vì đi đường dài nên đã kiệt sức.”
“Ồ, vậy sao.”
Cô tròn mắt ngạc nhiên rồi vội vàng gấp thư lại.
“Vậy xin mời vào nhà.”
Vẻ mặt cô nghiêm túc đến mức khiến Lawrence suýt thấy hối hận vì đã nói dối.
“Nhưng hình như quý cô đang bận chuyện quan trọng thì phải?”
Nghe Lawrence nói, cô gái tóc đỏ vội đảo mắt nhìn quanh, nhưng rồi gương mặt lộ ra nụ cười buồn.
“Không… chuyện ấy tạm kết thúc rồi.”
Ngay lúc cô nói thế, Lawrence thấy vài người dân vừa cụp vai xuống, tỏ vẻ chịu thua. Cô gái trao bức thư đã gấp cho người hộ vệ, rồi bước đến trước mặt trưởng làng, người đang quan sát từ nãy.
“Chúng ta sẽ bàn tiếp chuyện đó sau.”
“Vâng, y lời ngài.”
Trưởng làng cúi đầu lễ độ, nhưng cái cúi đầu ấy lạnh như băng.
Không rõ Amalie có nhận ra không, nhưng cô quay sang Lawrence và mời anh đi theo mình. Cô bước đi bộ, có lẽ vì chưa từng học cưỡi ngựa. Lawrence trèo lên ghế xà ích, nắm dây cương, lặng lẽ theo sau người hộ vệ to lớn đi ngay bên cạnh cô. Nhìn lại, Lawrence thấy dân làng, ai nấy đều mang vẻ thua cuộc, lặng lẽ quay trở vào ngôi nhà của trưởng làng. Trưởng làng dõi theo đoàn khách một lúc rồi cũng vào theo.
Rốt cuộc họ tranh cãi chuyện gì vậy?
Trong lúc còn đang thắc mắc, anh quay đầu lại thì thấy cô gái tóc đỏ đang ngoảnh lại nhìn mình.
“Ngài muốn biết không?” cô hỏi, nở một nụ cười khó xử.
Lawrence chần chừ trong chốc lát rồi quyết định đi thẳng vào vấn đề.
“Viện trưởng nhờ tôi giúp cô, thưa quý cô.”
Nội dung ấy hẳn cũng được ghi trong thư.
Cô gái mà anh vừa gọi là “quý cô” bỗng dừng bước, nhưng vẫn giữ nguyên nụ cười lúng túng trên mặt.
“Xin đừng gọi tôi như vậy.”
“Vậy… tôi nên gọi quý cô là gì?”
Cô khẽ kêu một tiếng bất ngời rồi đưa tay che miệng.
“Xin lỗi. Tôi chưa giới thiệu tên mình.”
Cô chỉnh lại giọng, đặt tay lên ngực và nói:
“Tôi là Amalie Draustem-Hadish, lãnh chúa đời thứ bảy của vùng đất này.”
Rồi với giọng nhỏ nhẹ và ngượng ngùng, cô nói thêm:
“Dù thật ra tôi vẫn không tin nổi…”
Việc Amalie bị gửi vào tu viện ban đầu chứng tỏ gia đình từng có một người thừa kế nam chính thức. Có lẽ một tai nạn nào đó đã khiến cả vị lãnh chúa cũ và người con trai qua đời cùng lúc.
Việc Amalie không lộ vẻ đau buồn chẳng phải vì cô mạnh mẽ, mà vì từ nhỏ cô đã sống trong tu viện, nơi không vướng bận thế tục.
“Vậy, Quý cô Draustem?”
“Ở tu viện, họ gọi tôi là Amalie.”
Cô dường như không ưa cái họ quý tộc dài dòng kia.
Lawrence liếc sang người hộ vệ, như muốn xác nhận xem gọi cô bằng tên riêng có được không. Đáp lại, ông ta chỉ nhìn với ánh mắt bất lực. Có vẻ ông đã tranh luận chuyện này với Amalie rồi.
“Vậy... Quý cô Amalie.”
“Quý cô nghe vẫn trang trọng quá…”
“Là Quý cô Amalie.”
Người hộ vệ to lớn cất tiếng lần đầu kể từ khi Lawrence tới. Amalie liền nhìn sang ông ta, như thể chấp nhận một sự thỏa hiệp đã bàn từ trước. Cô đành gật đầu miễn cưỡng.
“Rất vui được gặp quý cô.”
“Không, tôi mới là người hân hạnh.”
Lawrence cúi đầu cung kính.
“Viện trưởng đã giao cho tôi nhiệm vụ làm cây bút của quý cô ở thế giới bên ngoài.”
Còn kiếm của Amalie chính là người hộ vệ to lớn ấy.
Amalie tiếp tục bước đi và thở ra một tiếng rõ ràng:
“Ha… Đúng là chuyện rắc rối chẳng vui vẻ gì.”
Cô mở lời, và khi họ cùng tiến đến căn nhà, Amalie bắt đầu kể cho Lawrence nghe về mâu thuẫn đang xảy ra. Câu chuyện thì vòng vo, chưa có kết luận, nhưng thực chất lại khá đơn giản.
~~~
Gia trang của gia tộc Draustem trông giống một trang trại sang trọng hơn là một dinh thự quý tộc.
Tước hiệu lãnh chúa đối với người cai quản vài ngôi làng nghèo cũng không hơn gì một danh xưng, bởi họ cũng phải cật lực lao động trên đồng ruộng để kiếm sống như dân thường. Gia đình Draustem có chuồng ngựa, chuồng cừu, nuôi cá trong ao nhỏ, gà vịt lợn thì thả trong sân. Người đàn ông to lớn kia, hẳn là người lo hết mấy việc này.
Dù đơn sơ, nhưng dinh trang được chăm sóc rất chu đáo, tạo cảm giác là nơi sống lý tưởng.
Nếu đây là pháo đài hay lâu đài nhỏ xây trên đồi, thì lãnh chúa, gia đình cùng người hầu chắc phải chen chúc trong không gian chật hẹp. Số người thật sự sống thoải mái như quý tộc chẳng là bao.
Khi đến nhà, người hộ vệ to lớn tên là Yergin, thuộc hạ của Amalie, đi chuẩn bị phòng cho khách.
Có vẻ cả ông lẫn Amalie cũng chưa ăn trưa, nên trong lúc bữa ăn được chuẩn bị, họ mời Lawrence và Holo nghỉ ngơi.
Phòng nghỉ kiểu nông thôn, nền đất nện, trần để lộ xà gỗ, nhưng sạch sẽ. Rơm mới được thay, nằm lên rất êm. So với thùng xe gồ ghề mà Lawrence quen thuộc, thế này là sang chảnh rồi.
“Ừm. Giờ thì có thể thư giãn đôi chút được rồi.”
Khi đến nơi, Holo cuối cùng cũng bò ra khỏi thùng xe. Amalie mừng rỡ khi thấy cô mặc đồ nữ tu, nhưng hơi thất vọng khi biết đó chỉ là đóng giả cho tiện đường đi.
Có vẻ quý cô này vẫn còn vấn vương tu viện lắm.
Mặt khác, vì đạo đức được rèn từ nhỏ nơi tu viện, Amalie hơi ngập ngừng khi cho Lawrence và Holo ở cùng một phòng. Lawrence đành nói rằng sau khi kết thúc những chuyến đi buôn, hai người sẽ mở cửa tiệm và kết hôn.
Đó không phải lời nói dối, nhưng lại khiến anh cảm thấy hơi gượng gạo, vì mọi thứ vẫn cứ mơ hồ thế nào. Có lẽ anh cũng hy vọng câu nói đó sẽ làm Holo vui lên.
Sau khi được đưa vào phòng (nhưng trước cả khi Lawrence kịp đặt hành lý xuống), Holo liền đổ vật lên giường.
Rồi cuối cùng cô cũng chịu nói chuyện với anh.
“Đồ đần thối”
Lawrence đang xếp hành lý vào chiếc rương dài trong phòng thì quay lại.
“Anh đúng là loại người thấy nữ nhi khốn khổ là lập tức xông vào cứu giúp, phải không?”
Giọng cô không mang hàm ý “tốt bụng” mà thiên về “lăng nhăng.”
“Không, thật ra thì…”
Lawrence đang định giải thích thì Holo úp mặt xuống gối, thở dài thật sâu rồi liếc anh một cái.
“Im lặng.”
Anh không còn lựa chọn nào khác ngoài phải vâng lời.
Lawrence ngoan ngoãn ngậm miệng. Holo hít vào một hơi, chiếc đuôi dưới lớp áo khẽ động đậy. Gương mặt cô không còn giận dữ nữa, mà giống kiểu hết nói nổi hơn.
“Phù… Em đã nghĩ anh chỉ là tên ngốc vô tâm, nhưng hóa ra anh ngốc đến mức không nhận từ đầu là ra lãnh chúa nơi này là con gái!”
Cô chắc chắn đã thấy rõ biểu cảm sốc của anh khi biết cô gái bước ra từ nhà trưởng làng chính là lãnh chúa.
“Anh đúng là kẻ đại ngốc hiếm thấy mà.”
“Thì anh cứ tưởng lãnh chúa phải là đàn ông chứ.”
Lawrence phân trần. Holo lập tức quay lưng về phía anh, phồng má.
Tuy nhiên, không phải là từ chối mà là gì đó khác hẳn.
Không chịu bỏ cuộc, Lawrence thở dài rồi ngồi xuống mép giường, nơi Holo đang nằm.
“Anh hoàn toàn không ngờ tâm trạng em tệ là vì chuyện đó.”
“…”
Holo không nhìn anh, nhưng đôi tai sói nhỏ trên đầu thì hướng hẳn về phía anh. Đôi tai hình tam giác ấy có thể nghe rõ mọi lời dối trá.
Sau một lúc đung đưa, tai cô mới xoay về phía anh.
“Hừm. Em sao phải buồn chứ? Anh chẳng có gan để lăng nhăng, mà gương mặt cũng chẳng đủ đẹp để ai mê mệt.”
Nghe thì như mắng mỏ, nhưng Lawrence phải cố lắm mới không bật cười.
Holo đã ghen khi thấy anh háo hức đi gặp một cô gái vừa bị gọi về từ tu viện nữ. Dù chẳng có gì xảy ra, trông anh cứ như đang quá lo lắng vì một nữ lãnh chúa trẻ trung xinh đẹp.
Mặt khác, chính Lawrence lại không hề nghĩ đến khả năng lãnh chúa là nữ.
Những lời nặng nhẹ vừa rồi chỉ là kết quả từ nỗi ghen bóng gió vô cớ.
Và dĩ nhiên, điều đó thật sự dễ thương.
Lawrence vươn tay xoa nhẹ mái tóc mềm màu lanh của cô.
“Ừ, có lẽ là vậy thật.”
Người duy nhất sẵn sàng đi cùng anh đến tận cùng như thế chỉ có nàng sói thông thái đầy vị tha.
Dù có đóng kịch bao nhiêu, với anh, sự hiện diện ấy vẫn là điều quan trọng nhất.
“Nhưng mà, có khi em lại thấy thích khi anh tỏ anh anh hùng mà đi cứu giúp các cô gái đang gặp rắc rối đấy chứ nhỉ?”
Đôi tai cô giật giật khi anh vuốt tóc. Cô khẽ mỉm cười, mắt vẫn nhắm.
“…Đần thối.”
Dù chưa hài lòng với chuyến đi vòng vèo này, Holo không phản đối đến cùng, chắc cũng vì lý do đó.
Lawrence tin rằng tính tốt của anh và Holo rất giống nhau, và rằng cô sẽ tự hào nếu anh giúp được ai đó.
Thậm chí, sâu trong lòng, anh tin rằng nếu làm tốt, Holo sẽ thấy anh hấp dẫn hơn.
Dĩ nhiên, nếu anh nói ra điều đó, cô sẽ cười phá lên rồi dìm anh xuống bùn. Nhưng cuối cùng, cô vẫn sẽ nhìn anh với ánh mắt đầy chờ đợi. Và nếu anh làm tốt, cô sẽ khen ngợi anh.
Chiếc đuôi mềm mại của cô giờ đã ngừng đung đưa.
Căn phòng rơi vào yên tĩnh.
Lawrence cúi xuống, định hôn lên má cô, thì hai bàn tay đột ngột chụp lấy hai bên mặt anh, giữ chặt.
“Tắm trước đã.”
Rồi cô đẩy mạnh anh ra.
“…Tệ đến vậy sao?”
Lawrence tự ngửi áo mình, nhưng chẳng thấy gì rõ ràng.
Nhưng nếu công chúa đã lên tiếng… thì phải nghe theo thôi.
“Và anh còn phải làm việc nữa. Trông có vẻ phiền phức đấy. Anh sẽ ổn chứ? Có em ở đây rồi, em sẽ không để anh liều mình đâu, nhớ chưa?”
Dù suốt nãy giờ chỉ nằm thừ trên thùng xe, nhưng rõ ràng cô đã nghe hết mọi chuyện.
Nhưng nếu anh nói ra, thế nào cô cũng nổi giận không cho anh ôm đuôi ngủ nữa
“Sức mạnh của em có thể giải quyết vụ này trong một nốt nhạc mà.”
Holo hừ mũi trước câu nói đó, vẫn ôm gối.
“Em không phải chó.”
Lawrence nhún vai đứng dậy.
“Tìm một cái cối xay tay thì không khó đâu.”
Cuộc tranh chấp mà Amalie kể trên đường chủ yếu xoay quanh tiền, bắt đầu từ việc sửa chữa cối xay nước.
Kiến trúc ấy đã bị bỏ hoang từ lâu. Khi gọi thợ đến thì hóa ra chi phí sửa rất lớn. Dù xưa nay hoạt động không hiệu quả, nhưng sau vụ thay đổi lãnh chúa đột ngột, nó gần như sụp đổ hoàn toàn. Trên danh nghĩa, cối xay thuộc về những người sở hữu đất, tức là nhà Draustem, nhưng họ không đủ tiền để tự sửa. Vì cối hoạt động nhờ phí dân làng đóng khi dùng, Amalie theo lời khuyên của Yergin đưa ra một giải pháp hợp lý: thu thêm phí lắp đặt từ dân làng.
Tất nhiên, nhiều người phản đối. Không phải ai cũng cần cối như nhau. Gia đình có ruộng rộng, nhiều cừu thì dùng nhiều.
Hoặc nhà ít người khỏe mạnh cũng có thể có lợi khi dùng cối thay cho sức người. Ngay cả nhà Draustem cũng cần dùng cối xay, vì họ thu một phần lúa mì như thuế và phí thuê đất.
Tuy nhiên, khoản tiền thu được từ việc sử dụng cối không chảy về túi nhà Draustem, mà dùng để sửa cầu, đường. Bởi vậy, cho đến gần đây, dân làng có luật là phải dùng cối xay nước để xay bột.
Nhưng từ góc độ của người dân, họ chỉ thấy đồng tiền quý giá của mình bị lấy mất, nên nếu có thể, họ sẽ né không dùng.
Thế là, từ đời lãnh chúa tiền nhiệm, dân làng đã lén chế tạo các cối xay tay để tự dùng, khỏi phải đến cối xay nước.
Amalie đã trực tiếp ra mặt thương lượng để giải quyết chuyện này.
“Nếu những cái cối xay tay kia là lý do dân làng không chịu dùng cối nước, thì nghĩ đến chuyện thu hồi chúng cũng hợp lý, nhưng… Hừm, em nên nói sao nhỉ?”
“Chính xác. Em nghiêm túc thật đấy.”
“Đâu có giống anh.”
Anh nhìn Holo, thấy cô đang nghiêng đầu, nở nụ cười nghịch ngợm.
“Anh quá mềm lòng—đó là lời khen đấy.”
Lời trêu chọc cho thấy cô đã vui lên, nên Lawrence chỉ nhún vai bỏ qua.
“Vậy… anh định giúp cô bé đó thật à?”
“Ừ. Lý do chính là vì Quý cô Amalie. Nhưng mà…”
“Nhưng sao?”
“Em cũng nghe rồi đấy nhỉ? Cái cối xay nước bị cháy gần như mỗi năm.”
Đó là nguyên nhân chính khiến lời giải thích của Amalie nghe có phần mơ hồ, và vì sao dân làng lại phản đối mạnh đến thế.
“Em khó mà tin được đấy.”
Cối nằm ngay bên sông, mà nước thì chảy thường xuyên. Miễn là không thắp nến ban đêm, thì nguy cơ cháy gần như bằng không.
Nhưng từ xa, Lawrence đã thấy cối xay tối sẫm. Đó không phải do ẩm mốc, mà là vết cháy đen sì.
Dương như vì thế mà nhà cửa trong làng lại cách xa nhau như thế.
“Nghe nói mỗi năm hoa tím lại cháy, biến cả cánh đồng thành biển lửa… Điều đó thật không tưởng ở vùng chúng ta từng sống.”
Chuyện này đôi khi xảy ra với vài loại cây có tinh dầu dễ cháy. Loài cây ấy nở vào xuân, kết trái vào hè, khi ánh nắng mạnh khiến chúng phát cháy, phát tán hạt giống để tái sinh trên vùng đất vừa cháy rụi. Tất nhiên, các loài hoa khác sẽ bị thiêu rụi — khiến loài hoa ấy trở thành thực vật thống trị.
Tai họa đã ập đến ngôi làng từ khi loài hoa đó mọc lên ở vùng này.
Theo Amalie, thời ông của cô hoa ấy còn chưa xuất hiện, và toàn vùng chỉ có Hadish là nơi duy nhất có.
“Ngọn lửa dừng lại ở bờ sông, nhưng vẫn đủ thiêu rụi cối xay. Trước kia, mỗi khi cháy đồng, nhà cửa cũng bén lửa. Họ phải chặt sạch rừng quanh vùng để lấy gỗ dựng lại.”
“Tạo khoảng cách giữa các nhà với nhau là cách phòng thông minh đấy, chứ nếu không, cháy một cái là chết cả làng.”
Dân cư thưa thớt cũng vì một nửa vùng đất đã biến thành đồng hoa tím sau khi rừng bị chặt hết.
“Nếu muốn cối xay tồn tại lâu, thì phải chặt hết hoa đó trước khi hè đến. Nhưng giờ đang mùa vụ, dân làng không rảnh mà giúp đâu.”
“Không có cối xay nước thì họ cũng đỡ phải lo chuyện đó.”
Nhưng nếu không xay được lúa thành bột, thì làm sao có bánh mì? Mà xay tay thì tốn thời gian. Cả làng sẽ kém năng suất—thuế theo đó cũng ít đi— và kinh tế của làng sẽ lụi tàn. Có cối xay nước, họ có thể tiết kiệm công sức, mở rộng ruộng đất, bán hàng thừa ra thị trấn, mua được nhiều thứ hơn. Từ góc độ vĩ mô, đó rõ ràng là vì lợi ích của chính họ.
Chính Yergin đã phân tích điều này cho Amalie, và chính ông đã học được điều ấy từ vị lãnh chúa tiền nhiệm, một người trị vì rất khôn ngoan.
Tuy nhiên, lý lẽ tốt không phải lúc nào cũng được người ta đón nhận. Kết quả là tình trạng bế tắc hiện tại.
“Ông Yergin nói có thể tịch thu cối xay tay bằng vũ lực, nhưng họ không muốn đẩy sự việc đi xa. Nên Quý cô Amalie đã đích thân ra mặt, mong dân làng sẽ tự giao nộp.”
“Hửm. Nhưng nếu vậy, chẳng phải bí mật đi thu chúng thì cũng như nhau sao?”
Holo nói mà không suy nghĩ nhiều.
Lawrence bật cười, đáp lại:
“Không giống đâu. Ngài Yergin và tiểu thư Amalie sống ở đây. Còn anh chỉ là một thương nhân lưu động. Chính người ngoài là những kẻ mang đến tai họa cho các làng. Nếu ta để lộ ra rằng anh là người gieo ý tưởng đấy vào đầu Quý cô Amalie, thì anh sẽ trở thành mục tiêu cho cơn thịnh nộ của dân làng. Và thế là khi anh rời đi, thì cũng đơn giản là làm biến mất đi người mà tất cả đều ghét thôi. Anh không nghĩ Quý cô Amalie đã tính đến điều đó, nhưng có vẻ ông Yergin biết rất rõ cách tận dụng anh. Chắc vì thế mà hai ta được ở phòng đẹp như vậy.”
Thương nhân lưu động, vốn không thuộc về đâu cả, luôn bị nhìn bằng ánh mắt đó. Họ mang đến thứ cần thiết, mang đi thứ không cần. Ngay cả Holo, từng được coi là nữ thần coi sóc lúa mì, cũng từng nếm trải cảm giác này.
Thần thánh không bao giờ là người trong làng. Được thờ khi mùa vụ tốt, bị nguyền rủa khi thất bát, gánh luôn cả mọi vận rủi khác. Người ta chẳng dễ gì trút giận lên hàng xóm mình, nên có người ngoài để đổi lỗi vẫn luôn đơn giản hơn. Rốt cuộc thì khi họ không cần đến thần thánh nữa, việc phụng thờ hoàn toàn bị ngưng lại.
Chính vì thế mà Holo đã lẻn vào xe hàng của Lawrence.
Nghĩ lại, anh chợt nhận ra rằng cách họ gặp nhau cũng giống như hai công cụ bị cất vào cùng một nơi, vì chẳng ai biết nên để đâu khác cả.
Nhưng Lawrence không nghĩ đó là điều buồn bã.
Vì chính nhờ công việc ấy… mà anh gặp được Holo.
“Đừng làm vẻ mặt đó chứ.”
Nụ cười của Lawrence có chút gượng gạo. Thấy biểu cảm mang đầy tổn thương của Holo, anh đưa tay nhéo chiếc mũi nhỏ của cô.
“Giờ anh đã có người cùng ngồi ghế xà ích để chia sẻ gánh nặng… còn gì phải mong nữa đây?”
“…Đồ đần thối.”
Holo hất tay anh ra, làu bàu. Nhưng cái đuôi đằng sau thì lại ngoe nguẩy không ngừng.
“Nhưng… anh chắc sẽ tìm được đống cối đó chứ? Nếu cần, ta có thể lần ra chúng nhờ mùi lúa mì còn sót lại.”
Holo lên tiếng, nhưng lần này Lawrence mỉm cười tự tin.
“Nếu là cuộc đấu trí, anh sẽ không thua đâu!”
Anh ưỡn ngực, và sau một lúc nhìn trân trân, Holo phì cười.
“Nghe như trò khôn vặt thì đúng hơn.”
“Em thật khắt khe mà.”
Lawrence nhún vai, còn Holo móc ngón trỏ với anh, vào ngón tay mà cô đã luôn nắm lấy. Cô đã trở nên nữ tính hơn anh tưởng.
Và vì đã tự nhận mình là quý ông, Lawrence nhẹ nhàng lên tiếng.
“Việc này chắc không vui lắm đâu, nên nếu em không muốn đi cùng, cũng không sao.”
Holo vẫn cười, đưa tay anh lên môi và nhe nanh.
“Em rất thích nhìn vẻ mặt sắp khóc của anh đấy.”
“Ồ, anh thấy chúng ta sẽ hợp nhau rồi đó.”
Tai và đuôi Holo rung nhẹ vì vui thích.
“Cái đồ đần thối này.”
Cô cười, tựa đầu vào vai anh và hôn nhẹ lên tay.
Thế rồi cô buông ra.
“Vậy em sẽ dõi theo xem anh xoay xở ra sao nhé.”
Không lâu sau đó, có tiếng gõ cửa, và Yergin đến gọi họ.
Chương này lấy bối cảnh 1 tgian ngắn ngay sau biến cố tại Svernel ở vol 16, lúc này cặp đôi đã thổ lổ tình cảm với nhau nên t để xưng hô anh - em nhé. Mn có thể tham khảo timeline truyện ở đây Chị lại nói thế chứ thử buông ra xem mất như chơi :)) Tuổi này anh Luật còn phong độ chán, chỉ ko an cư thôi chứ đã lạc nghiệp rồi, nên Sói mẹ phải giữ kĩ lắm :)) Vl khác nào toptop mẹ chồng giả làm bàn ghế bắt con dâu ngoại tình đâu :))