13
Ông ngoại tôi là trưởng Hợp tác xã Nghề cá Thượng nguồn Sông Abarakawa.
Tỉnh tôi là tỉnh nội địa nên không có biển, nhưng hợp tác xã của ông chuyên quản lý các dòng suối trên núi. Tên thường gọi là Hợp tác xã Abajou.
Ngoài việc bán vé câu cá giải trí, nguồn thu nhập chính của Hợp tác xã Nghề cá Thượng nguồn Sông Abarakawa đến từ việc nuôi cá yamame. Bên cạnh đó, hợp tác xã còn kinh doanh một khu câu cá có quản lý và mở các quầy hàng tại nhiều sự kiện khác nhau. Món hàng chủ lực tại các quầy này là cá yamame nướng xiên.
Vì mê câu cá từ hồi tiểu học nên cứ đến kỳ nghỉ dài, tôi lại về ở nhà ông, ngày ngày rong ruổi câu kéo khắp các khu vực thuộc quản lý của hợp tác xã.
Nhờ vậy mà tôi quen mặt hầu hết các xã viên làm nhiệm vụ trông coi điểm câu. Ai cũng biết tôi là cháu của ông. Dù hồi đó ông tôi vẫn chưa phải là trưởng hợp tác xã.
Lên cấp hai, ngoài việc đi câu cho vui, thỉnh thoảng tôi còn phụ giúp công việc của hợp tác xã và được ông cho chút tiền tiêu vặt.
Mà thật ra, tiền đó là tiền túi của ông chứ chẳng phải quỹ của hợp tác xã. Chỉ đơn giản là mối quan hệ lành mạnh giữa ông và cháu: cháu phụ giúp ông rồi được cho quà vặt. Hoàn toàn không phải chuyện công tư không phân minh.
Sau khi bố mẹ qua đời và tôi chuyển về sống với ông bà, nhờ ông giới thiệu, tôi bắt đầu làm thêm tại trại nuôi cá yamame của Hợp tác xã Nghề cá Thượng nguồn Sông Abarakawa.
Công việc chính của tôi là cho cá yamame ăn vào buổi sáng và buổi tối.
Dù đã có máy cho ăn tự động, nhưng việc tự tay rắc thức ăn để quan sát tình trạng của đàn cá vẫn là nguyên tắc cơ bản nhất trong ngành nuôi trồng.
Những con cá yếu đi hoặc bị bệnh thường ăn rất kém. Nguyên nhân có thể do bản thân con cá, hoặc do chất lượng nước, nhiệt độ nước. Dù là gì đi nữa, điều cốt yếu là phải nhanh chóng phát hiện ra những bất thường của chúng và xử lý kịp thời. Nếu chậm trễ, cá có thể chết hoặc không còn đủ tiêu chuẩn làm thực phẩm.
Vì cá yamame là cá thương phẩm nên không thể cứ thấy chúng bệnh là tùy tiện dùng thuốc. Quan trọng nhất là phải quản lý chăn nuôi sao cho cá không đổ bệnh ngay từ đầu.
Về khoản này thì tôi khá tự tin, vì từ nhỏ ngoài câu cá, tôi còn có sở thích nuôi đủ các loại cá nên đã quen với việc quan sát.
Ngoài cho ăn, công việc của tôi còn bao gồm vớt những lứa cá đủ lớn ra khỏi ao, sơ chế, mổ cá rồi phân loại, đóng gói để chuẩn bị xuất hàng.
Hợp tác xã Thượng nguồn Sông Abarakawa không bán cá ra chợ đầu mối mà phân phối trực tiếp cho các nhà hàng, khách sạn và quán ăn cao cấp đã ký hợp đồng riêng. Nhờ đáp ứng tỉ mỉ các yêu cầu cá nhân của khách quen về số lượng, kích cỡ cá, thời gian giao hàng, v.v., nên hợp tác xã luôn bán được giá cao.
Việc giao hàng sẽ do nhân viên chính thức của trại nuôi đảm nhận, nhưng toàn bộ quy trình từ thả lưới mỗi sáng đến đóng gói đều là một phần việc của tôi.
Ngày thường, tôi làm thêm hai tiếng buổi sáng và hai tiếng buổi chiều. Tùy vào mức độ bận rộn của trại nuôi hay của hợp tác xã, tôi cũng nhận làm thêm vào những ngày nghỉ học.
Công việc thì không thiếu, dù không phải ngày nào cũng có, ví như dọn dẹp ao nuôi hay hỗ trợ cho cá yamame sinh sản.
Hầu hết những việc này tôi đều đã có kinh nghiệm từ hồi cấp hai khi phụ giúp ông. Vì vậy, ngay từ tháng Tư, tôi đã có thể bắt tay vào việc như một nhân viên lành nghề.
Cũng chẳng có ai phàn nàn vớ vẩn rằng cháu trai của trưởng hợp tác xã làm thêm ở trại nuôi là nhờ "con ông cháu cha". Vốn dĩ tôi đã lân la ở hợp tác xã từ bé, nên mối quan hệ giữa tôi với các xã viên và nhân viên ở đây thân thiết như chú bác hàng xóm với đứa cháu trong nhà vậy.
Tiện thể, có một công việc của hợp tác xã mà tôi không thể tham gia vì chỉ làm các ngày trong tuần, đó là mở quầy hàng bán cá yamame nướng xiên ở bờ sông hoặc các khu sự kiện.
Chẳng hạn, trong một khoảnh bờ sông thuộc ngư trường do Hợp tác xã Thượng nguồn Sông Abarakawa quản lý có một khu cắm trại kiêm nướng BBQ, nơi mọi người có thể đến vui chơi tắm sông.
Bản thân khu cắm trại không do hợp tác xã quản lý, mà do một công ty điều hành được cấp quyền sử dụng khu vực bờ sông này. Hợp tác xã chỉ được phép mở quầy hàng tại đó.
Sự tồn tại của khu cắm trại và nướng BBQ này gây ảnh hưởng đến hoạt động của hợp tác xã, vốn có quyền đánh bắt tại đây. Do đó, như một biện pháp bù lại, công ty điều hành đã cho phép hợp tác xã mở quầy hàng.
Thực ra, doanh thu từ việc bán cá nướng cho khách du lịch còn cao hơn nhiều so với việc bán vé câu cho dân câu, nên đối với hợp tác xã thì đây đúng là một món hời.
Về phía công ty điều hành, sự có mặt của quầy hàng giúp không khí thêm nhộn nhịp, lại có cả hợp tác xã cùng tham gia quản lý sông ngòi nên họ cũng chẳng thiệt gì. Một mối quan hệ đôi bên cùng có lợi.
Quầy hàng mùa hè bán cá yamame và cá ayu nướng muối đã được làm sạch, xiên que cẩn thận, cùng với bia và nước ngọt ướp trong đá lạnh.
Đây chính là nơi làm việc ban ngày của tôi trong suốt kỳ nghỉ hè, không liên quan đến ca làm hai tiếng sáng tối ở trại cá.
Dù không thoải mái nói chuyện với bạn cùng lớp, nhưng tôi lại có thể tán gẫu thoải mái với khách hàng. Tôi còn khá giỏi trong việc nói chuyện khéo léo, đôi lúc trêu đùa khách một cách duyên dáng.
Về cơ bản, quan hệ với khách hàng chỉ là thoáng qua, không cần phải đào sâu làm gì.
Nhưng nói vậy không có nghĩa là tôi lừa lọc khách hàng, công việc tôi lúc nào cũng làm rất đàng hoàng.
Tôi không trông coi quầy hàng một mình mà làm cùng một nhân viên khác từ trại nuôi.
Chúng tôi dùng giàn nướng chuyên dụng nối với bình ga để nướng cá chứ không dùng than củi.
Suốt những ngày hè nóng nực, khu cắm trại và khu BBQ lúc nào cũng tấp nập khách đến vui chơi tắm sông.
Ngay cả khu vực bờ sông công cộng bên ngoài khu cắm trại cũng có rất đông người ghé qua.
Nhiều khách hàng còn tìm mua cá yamame và cá ayu tươi để tự nướng BBQ thay vì mua xiên nướng sẵn.
Thế nhưng, mặt hàng bán chạy nhất lại là đồ uống.
Vì bờ sông không có điện nên chẳng có máy bán hàng tự động nào. Bởi vậy, dù giá có hơi cao một chút, đồ uống vẫn bán rất chạy vì khách hàng ngại đi xa để mua.
Giữa cái nóng như thiêu như đốt, việc phải túc trực bên giàn nướng cá quả thực là một cực hình.
Tôi và người làm cùng hôm nay, anh Tatsu-san, thay phiên nhau giữa việc nướng cá và bán đồ uống. Anh Tatsu-san là nhân viên trại nuôi, trạc bốn mươi tuổi. Anh ấy có vẻ ngoài bặm trợn, nên mỗi khi làm ở quầy hàng, trông chẳng khác gì một tay bán hàng chuyên nghiệp ở các lễ hội.
Tôi mặc quần bơi, áo rash guard và khoác thêm áo phông bên ngoài.
Mỗi khi nóng không chịu nổi, tôi có thể nhảy ùm xuống sông bất cứ lúc nào.
Vào một ngày trong kỳ nghỉ lễ Obon tháng Tám.
Lúc đó, tôi đang phụ trách bán đồ uống.
Trong một chiếc thùng nhựa FRP lớn màu xanh, tôi đổ đầy nước đá, ngâm lạnh bia lon cùng các chai trà và nước ngọt.
Tôi ngồi bán hàng trên một chiếc ghế xếp dưới bóng ô.
Trên bờ sông không chỉ có người lớn và các gia đình, mà còn có cả các nhóm học sinh.
Nước ở đây trong vắt, nên nếu chọn đúng chỗ an toàn thì có thể bơi lội thỏa thích.
Tuy nhiên, vì là thượng nguồn nên nước lạnh buốt.
Tôi đang bận rộn đẩy những lon và chai đã đủ lạnh ra phía ngoài cho khách dễ lấy, rồi châm thêm những chai chưa lạnh vào phía trong, gần chỗ mình ngồi.
Vì vậy, tôi cứ cúi gằm mặt.
Qua đôi chân xuất hiện ở phía đối diện, tôi biết có hai vị khách vừa dừng lại trước thùng nước.
"Xin mời ạ."
Tôi ngẩng đầu lên.
Tôi chạm mắt với hai nữ sinh trung học quen thuộc.
Đó là Kotonoha Takane và Tsuruse Ayumi.