Khi tôi vừa bước chân ra khỏi tháp ma thuật thì trời cũng bắt đầu mưa.
Ở thủ đô hoàng gia mưa khá là ít nhưng ở đây, phần phía đông của đế chế, nơi Tháp Trắng được xây đã mưa trong nửa tuần rồi. Để đến được đây cần tốn nửa ngày đi đường bằng một chuyến tàu kỹ thuật phép thuật.
Có vẻ do gần Tháp mà một số người đã học được phép thuật. Những người này đi bộ mà không bị ướt dù trời mưa, những hạt mưa đang né họ. Họ là minh chứng sống cho sự bí ẩn tồn tại trong thế giới này.
Những người đó có thể đọc sách ở ngoài khi mưa mà trang sách không bị dính nước, cơ mà ngồi xuống thì quần vẫn ướt. Tôi thấy chuyện đó khá là buồn cười.
Trong khi tôi còn ngắm nhìn mưa rơi thì Tháp chủ Tháp trắng đến gần.
“Trời mưa rồi. Cậu có muốn dùng cổng dịch chuyển đến thủ đô không? Tôi sẽ báo đến Tháp Xanh cho.”
“À, không sao… tôi định đọc sách trên tàu ngày hôm nay.”
Dù không thích du lịch nhưng tôi thích những chuyến đi dài. Chỉ cần chịu được say tàu thì đó là khoảng thời gian tuyệt vời để đắm mình vào những trang sách. Mang theo một cuốn sách dày cộp–một tác phẩm tầm cỡ như Những Người Khốn Khổ–tôi lên tàu và say mê những khung cảnh được miêu tả trong cuốn sách trên tay hơn là những khung cảnh lướt qua ngoài tàu.
Thế nhưng khi chiêm ngưỡng khung cảnh vừa bí ẩn vừa hài hước quanh Tháp Ma Thuật trong cơn mưa và cuộc sống thường nhật ở thế giới này với thang máy quỹ đạo, phép thuật và giả kim thuật, tôi chợt thoáng nghĩ rằng mình đã bước vào một cảnh từ những cuốn sách của Trái Đất. Không phải vì thế giới này quá phi thực, như cách người ta vẫn hình dung về một thế giới ‘dark fantasy’ mà bởi lẽ nó quá đỗi tương đồng với thế giới mà tôi từng sống. Những gì người dân thế giới này đã trải qua và những lý tưởng họ theo đuổi hòa quyện với những gì thuộc về Trái Đái.
“Nơi này gợi cho tôi những ký ức về quê hương mình.”
“Ơ? Không phải cậu đến từ thủ đô sao, Herodotus?”
“Tôi đến từ thủ đô.”
“Khu này khá lạ so với thủ đô bởi có rất nhiều người sống ở đây đến từ Vương quốc Harren… Thôi thì, tôi nghĩ nơi nào có con người sinh sống thì cũng đều có những nét tương đồng nhất định.”
“Quả đúng là như vậy.”
Nghĩ lại thì hình như mình từng hứa gì đó với Vua Lười của Harren. Là gì nhỉ? Viết một cuốn tiểu thuyết có thể lật đổ ông ấy thì phải? Điều đó nghe chừng thật vô trách nhiệm đối với một vị vua của đất nước quân chủ chuyên chế.
“Giờ mới để ý, cũng đã đến lúc mình nên nghiên cứu văn học của Vương quốc Harren rồi…”
Chính mình cũng vô trách nhiệm không kém nhỉ.
Tôi quyết định sẽ đến Vương quốc Harren.
* * *
Sau khi băng qua đường hầm dài tại vùng biên, hiện ra trước tôi là một xứ sở tuyết. Đây là câu mở đầu của tiểu thuyết Xứ Tuyết do nhà văn Nhật Bản Yasunari Kawabata chấp bút.
Tại đây, chữ "国 (quốc)" không ám chỉ một quốc gia mà là một khu hành chính của Nhật Bản, được gọi là "kuni".
Tại Hàn Quốc, từ "biên giới" thường được hiểu là ranh giới giữa các quốc gia, nên trong bản dịch, đôi khi nó được diễn giải thành "khu vực tiếp giáp" hoặc "ranh giới". Thuật ngữ "xứ tuyết" cũng thường được diễn giải là "vùng đất tuyết".
Tuy nhiên tôi thích bản dịch này nhất, vì nó giữ nguyên được văn bản gốc.
Chẳng phải đó là một điểm lời của tiếng Hàn khi cấu trúc câu lại giống tiếng Nhật, để có thể thoải mái thưởng thức văn học Nhật mà không cần dịch lại sao?
Vậy nên câu tiếp theo sẽ là:
“Đáy đêm dần chuyển trắng…”
Khi tôi xuất hiện từ đường hầm dài xuyên qua dãy núi ngăn cách giữa 'Đế Chế' và 'Vương quốc Harren', những hạt mưa đang rơi từ bầu trời đã biến thành tuyết trắng xóa.
Tôi đã đặt chân đến xứ sở tuyết.
Sau khi đợi thêm một lúc khá lâu cho đến khi tàu đến ga, tôi xuống ở ga sầm uất nhất.
Ở đây tôi nghe được những ngôn ngữ khác với khi ở Đế chế.
Ngôn ngữ chung được sử dụng trong Đế Chế cũng vang lên khá nhiều.
Một ông lão bán hàng trên tấm chiếu trước nhà ga đang mời chào khách bằng ngôn ngữ chung. Dù không có lỗi ngữ pháp nhưng ngữ điệu của ông ấy có hơi gượng gạo.
“Ê này, cậu từ Đế chế đến à? Tôi có những chiếc vòng tay xinh xắn tượng trưng cho Vương quốc Harren đây. Rẻ thôi nhưng đắt hàng lắm đó nha.”
Bản thân đã học được hầu hết các ngôn ngữ của thế giới này từ khi còn nhỏ nên tôi trả lời bằng tiếng Harren.
“Ông có thể nói chuyện thoải mái.”
“Hừm? Cậu khá giỏi tiếng Harren đấy chứ?”
“Tôi có thể giao tiếp cơ bản. Tôi có thể hỏi hiệu sách lớn nhất ở quanh đây ở đâu không?”
“Nói cho cậu cũng không khó đâu. Nếu cậu mua gì đó.”
“Hừm.”
Những món đồ trên tấm chiếu của ông lão là đủ loại đồ lặt vặt. Tôi chẳng cần gì, nên chỉ vào cây bút máy thấy có thể dùng được.
“Tôi mua cái này.”
“Một đồng bạc. Chúng tôi cũng nhận tiền giấy của Đế chế đó.”
Đúng như dự đoán từ một người chuyên buôn bán với khách du lịch, ông ấy đang chém giá. Tôi nhún vai và rút một đồng vàng từ túi ra đưa cho ông ta.
“Cứ giữ lại tiền thừa. Chỉ cần chỉ đường đến hiệu sách cho tôi đàng hoàng là được.”
“Hừ, cậu hào phóng thật đấy. Để tôi vẽ cho cậu một bản đồ, đợi một lát nhé.”
“Được thôi.”
Ông lão vẽ bản đồ khá giỏi. Chắc hẳn ông đã ghi nhớ tất cả các tòa nhà xung quanh đây vì ông vẽ chúng với những nét đặc trưng rõ ràng, giúp tôi dễ dàng tìm thấy hiệu sách. Men theo tấm bản đồ cụ ông vẽ, tôi đã đến nơi.
Hiệu sách khá lớn đúng như lời ông ấy nói, lớn nhất vùng này. Cơ mà nó không sạch sẽ hay tinh tế như những hiệu sách ở thủ đô đế chế và trông khá cũ, không khí tràn ngập mùi giấy. Ấy mà tôi lại yêu thích bầu không khí này.
“Chào mừng quý khách. Nếu có cuốn sách nào ngài đang tìm kiếm, xin cứ cho tôi hay, tôi sẽ tìm giúp ngài.”
“Tôi sẽ tự mình xem qua một chút.”
“Vâng ạ!”
Mặc dù tôi đã xoay sở để có được tất cả các tiểu thuyết gốc của Vương quốc Harren ở Đế chế, trong số đó có cả những bản dịch của những kiệt tác mà tôi đã đạo văn từ kiếp trước. Còn về chất lượng bản dịch…
À thì, mình không muốn nói xấu, nên hãy cứ coi như rất khó để đưa ra một bình luận tích cực đi.
Tôi quyết định bỏ qua các bản dịch và đọc tất cả các tiểu thuyết gốc của Vương quốc Harren.
“Cho hỏi.”
“Vâng! Thưa ngài, ngài đang tìm cuốn sách nào ạ?”
“Ông có thể gói tất cả những cuốn sách tôi đang chỉ không?”
“Sao ạ?”
“À, và làm ơn giới thiệu chỗ trọ luôn. Tôi chưa quyết định được mình sẽ ở đâu.”
“Ngài đang đùa tôi à─”
Tôi rút một túi tiền vàng từ túi ra và cho chủ quán xem. Thái độ của chủ quán lập tức trở nên thân thiện.
“Tôi sẽ đưa ngài đến chỗ trọ tốt nhất trong vương quốc!”
* * *
Tôi đã để lại lời nhắn ở nhà rằng tôi sẽ về muộn. Không biết mẹ sẽ nói gì khi tôi về nữa. Thôi chuyện đó tính sau.
Tôi ở trong nhà trọ khoảng một tuần, say sưa đọc hàng trăm cuốn tiểu thuyết. Và tôi đã khám phá ra một điều khá kỳ lạ: tại Vương quốc Harren, các tiểu thuyết mang tính phê phán xã hội và châm biếm lại vô cùng thịnh hành. Điều này lại diễn ra ở một quốc gia nơi nhà vua nắm giữ quyền lực, là người cai trị của người dân và cũng là người đứng đầu Giáo hội phương Đông.
Không khó để đoán điều gì đang diễn ra.
“Hoàng gia chắc hẳn đang cố ý ủng hộ điều này…”
Một hoàng gia lại ủng hộ những tiểu thuyết phê phán xã hội nhằm chuyển giao quyền lực cho thần dân. Tình hình của đất nước này quả thực phức tạp và đầy kỳ lạ.
Nhưng điều đó không hề tệ. Ngược lại còn rất tốt. Dù sao thì văn học cũng tiến bộ nhờ hai đôi cánh mang tên văn học thuần túy và dấn thân mà.
Khép lại cuốn sách cuối cùng, tôi rời khỏi nhà trọ và hướng tới nơi mà tôi đã dày công tìm hiểu suốt một tuần. Tôi không chút do dự bước vào một tòa nhà với dòng chữ 'Nhà xuất bản Ivan'.
“Có ai ở đây không?”
“Hừm? Cậu là ai?”
“Tôi là dịch giả. Tôi đến đây vì mong muốn được làm việc ở nơi này.”
“Hả?”
Đó chính là nhà xuất bản đã in ra những bản dịch kém chất lượng mà tôi đã bắt gặp trong hiệu sách. Bản thân là một độc giả trước khi trở thành dịch giả nên tôi không thể nào chấp nhận được chất lượng tồi tệ của những cuốn sách đã dịch đó được. Tôi đã phải chịu đựng biết bao trong kiếp trước vì những tác phẩm văn học được dịch không chuẩn xác rồi cơ chứ?
“Tôi làm không lương cũng được, cho tôi làm một tuần thôi. Tôi sẽ đảm nhiệm tất cả những cuốn sách đang cần dịch gấp.”
“…Ồ, ừm, tôi sẽ nói chuyện với tổng biên tập trước.”
“Được thôi. Đây là những bản thảo tôi đã dịch. Hy vọng chúng sẽ giúp ích cho quyết định của ông ấy. Tôi sẽ quay lại vào ngày mai.”
“Tôi nên nói tên cậu là gì đây?”
Tôi chần chừ một lúc không biết nên trả lời thế nào. Tôi không muốn dùng tên thật của mình, mà dùng những cái tên như Homer hay Herodotus thì có vẻ không hợp lắm.
“…Sophocles.”
“Sao cơ?”
“Sophocles.”
“Ồ, được. Cậu Sophocles.”
* * *
Cuối cùng tôi đã được nhận vào làm. Tổng biên tập của Nhà xuất bản Ivan có vẻ thích các bản dịch của tôi. Hoặc có thể là ổng khoái vụ làm không lương không chừng, tôi cũng không chắc.
Vai trò của tôi ở đây là dịch văn học từ 'Đế chế’ nhưng đôi khi tôi cũng dịch những cuốn sách viết bằng các ngôn ngữ nước ngoài khác.
“Xin lỗi, thưa ngài.”
“Hả! Ồ, không, ừm, cậu Sophocles.”
“Tôi đã lập một hướng dẫn đơn giản về dịch thuật. Vì các bản dịch thường được thực hiện một cách cẩu thả, tôi nghĩ việc đặt ra một số nguyên tắc sẽ giúp cải thiện năng suất.”
“Ồ, cảm ơn cậu!”
Thế là tôi dịch nhiều cuốn sách khác nhau sang tiếng Harren. Tôi đọc sách của Vương quốc Harren, nghiên cứu các bối cảnh xã hội cần thiết cho việc dịch thuật và phân tích xu hướng thị trường ở đây.
Trong lúc đó, tôi 'đạo văn' một cuốn sách.
“Tổng biên tập.”
“Ồ~. Kho báu của chúng ta, cậu Sophocles! Có chuyện gì vậy? Đã dịch xong rồi sao?”
“Tôi muốn đăng một tiểu thuyết dài kỳ trên tạp chí của nhà xuất bản chúng ta.”
“Không phải bản dịch sao?”
“Không.”
“Hừm… chuyện đó không thành vấn đề đâu! Nhờ có cậu mà nhà xuất bản của chúng ta đang phát triển. Đó là tiểu thuyết gì vậy?”
“Đó là tiểu thuyết tên là Những Người Khốn Khổ.”
“Những người khốn khổ sao? Tên nghe hay đấy.”
Xứ tuyết là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc và Cố đô, Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị. Sophocles là một nhà viết kịch và là người thứ hai trong số 3 nhà văn Hy Lạp vĩ đại nhất về bi kịch (cùng với Aeschylus và Euripides ). Ông được biết đến nhiều nhất với những gì ông viết về Oedipus , nhân vật thần thoại đã chứng tỏ là trung tâm của Freud và lịch sử phân tâm học. Ông sống qua phần lớn thế kỷ thứ 5 từ 496-406 TCN, trải qua Thời đại Pericles và Chiến tranh Peloponnesian . Những người khốn khổ (Les Misérables) của đại văn hào Pháp Victor Hugo xuất bản lần đầu năm 1862 là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của văn học thế giới.Trong 150 năm qua, Những người khốn khổ đã được dịch sang rất nhiều ngôn ngữ khác nhau, được chuyển thể thành hàng chục tác phẩm điện ảnh, những vở nhạc kịch, vở múa ballet...