Một Ngày Của Tôi Có 48 Giờ

Chương kế tiếp:

Truyện tương tự

Trở thành phù thuỷ trong thế giới tràn ngập ma quái

(Đang ra)

Trở thành phù thuỷ trong thế giới tràn ngập ma quái

吃土的书语

Day 101: Giờ đây tôi không còn sợ hãi gì nữa! Mặc vào bộ váy dài của phù thủy, tôi đã trở thành một câu chuyện ma quái!

281 5638

Ultimate Antihero

(Hoàn thành)

Ultimate Antihero

Misora Riku

Bức màn được vén lên cho một câu chuyện fantasy về một chàng trai trẻ vô song và bất bại, một người mà không đồng minh hay kẻ thù nào có thể theo kịp, và **sớm muộn gì cũng sẽ được cả nhân loại tôn xư

134 874

What Happens If You Saved A High School Girl Who Was About To Jump Off?

(Đang ra)

What Happens If You Saved A High School Girl Who Was About To Jump Off?

Kishima Kiraku

Và thế là, một cuộc sống thường nhật và câu chuyện tình yêu mới cùng cô gái bí ẩn Hatsushiro Kotori, bắt đầu từ một cuộc gặp gỡ kỳ lạ, đã mở ra.

20 36

Sói và Giấy da: Tân Sói và Gia vị

(Đang ra)

Sói và Giấy da: Tân Sói và Gia vị

Hasekura Isuna

Đây là câu chuyện về Sói và Giấy da – chuyến phiêu lưu của hai người, một hành trình rồi sẽ làm thay đổi cả thế giới!

2 4

Câu Chuyện Của Kiếm Sĩ Vô Năng Trở Thành Kiếm Thánh

(Đang ra)

Câu Chuyện Của Kiếm Sĩ Vô Năng Trở Thành Kiếm Thánh

Osaki Isle

Cuối cùng trở thành một làn sóng khiến cả lục địa phải rung chuyển…

155 1981

Tập 05 : Cánh buồm đen - Chương 23 : Cánh buồm đen (23)

Trương Hằng chuyển thanh kiếm hải quân Anh từ bàn tay phải bị thương sang tay trái, chặn đứng hai nhát chém liên tiếp của đối thủ. Lực phản lại khiến cậu lùi hai bước. Gã thủy thủ phía đối diện, thấy rõ thể lực của cậu đã xuống dốc sau một hồi giao chiến, bèn mừng rỡ, không thăm dò nữa, vung thẳng một nhát chém vào ngực Trương Hằng. Không kỹ xảo, chỉ dựa vào sức mạnh.

Nhưng lần này, Trương Hằng không lùi. Cậu tiến lên.

Hai lưỡi thép va vào nhau, tạo ra âm thanh ken két rợn người. Gã thủy thủ cảm thấy một luồng lực cực mạnh từ lưỡi kiếm truyền tới, đánh bật cánh tay hắn ra. Hắn chưa kịp hoàn hồn thì lưỡi gươm của Trương Hằng đã kề sát cổ.

“Chấm dứt rồi.”

Gã thủy thủ cúi đầu, ánh mắt đầy thất vọng, cuối cùng đành buông kiếm đầu hàng.

Trương Hằng đảo mắt một vòng quanh boong tàu. Giao chiến gần như đã kết thúc. Đám vệ binh còn sót lại bị dồn vào góc, chuyện đầu hàng chỉ là sớm muộn. Chỉ còn tên thuyền trưởng cố thủ trong phòng điều hành, nhưng chuyện đó rồi cũng xong sớm thôi.

Đây là trận đánh ác liệt thứ ba trong chưa đầy hai tháng. Dù vẫn giành được thắng lợi, nhưng tổn thất lần nào cũng không nhỏ. Owen đã bắt đầu sàng lọc tù binh để bổ sung nhân lực.

Thủy thủ hải quân chính quy ở thời này sống chẳng sung sướng gì. Lấy Hải quân Hoàng gia Anh làm ví dụ: mỗi tháng chỉ được trả khoảng một bảng, bằng nửa lương gác cổng đập nước, bằng một phần tư thợ mộc. Đã vậy, lương còn bị các sĩ quan và kế toán trên tàu bòn rút. Tiền lương cũng chẳng phát đều, có khi vài tháng chẳng thấy bóng đồng xu nào.

Chuyện kỳ lạ nhất là một con tàu tuần dương ở Viễn Đông, hai mươi hai năm mới thanh toán một lần, cuối cùng Bộ Hải quân còn từ chối trả tiền.

Thủy thủ khi tàu cập cảng để bảo dưỡng thì bị cắt lương, hoặc đơn giản là thả trôi mặc kệ, không có thu nhập. Có khi còn bị bắt nhốt lại trên tàu, chưa kịp đặt chân lên đất liền đã bị điều sang chiến hạm khác, lại tiếp tục ăn bờ lót bụng với lời hứa suông về khoản lương chưa tới.

So với cảnh đó, làm hải tặc đúng là như lên thiên đường. Có của thì cùng chia, có thịt thì cùng ăn. Hiếm thấy thuyền trưởng nào dám bớt xén phần của thủy thủ.

Trương Hằng đã ở thế giới này gần chín tháng. Ban đầu vì sống sót mà phải lên tàu Hải Sư, rồi vì nhiệm vụ chính tuyến mà bị kéo sâu vào thế giới hải tặc. Đến nay, cậu dần hiểu hơn về Nassau và đám người sống ở đó. Rất nhiều chuyện phải đặt trong bối cảnh lịch sử mới hiểu được vì sao thế kỷ 17, 18 hải tặc lại đầy rẫy khắp nơi.

Ngay từ buổi đầu của thời đại hàng hải, ranh giới giữa nhà thám hiểm, thực dân và cướp biển đã mơ hồ. Khi châu Âu rơi vào loạn chiến vì tranh giành quyền lực trên biển, chính các quốc gia ấy đã phát minh ra thứ gọi là “giấy phép tư cướp” và thế là nắp hộp Pandora bật tung.

Từ góc nhìn hiện đại, thật khó tưởng tượng nổi những chuyện kiểu này. Nếu bạn là thương nhân chở hàng sang thuộc địa bán, giữa đường bị kẻ khác cướp mất, thì cũng chẳng có cách nào đòi lại bằng luật pháp. Nhà nước sẽ cấp cho bạn một tờ “giấy phép tư cướp”, khuyến khích bạn tự đi cướp lại những gì đã mất hoặc cướp thêm càng tốt.

Ngoài ra, giới quý tộc và thương gia cũng thường tài trợ cho các thuyền trưởng “có triển vọng”, giúp họ xin được giấy phép và ra khơi cướp bóc. Sau đó chia lời, vừa làm hao tổn lực lượng hải quân nước khác, vừa tránh tăng ngân sách quốc gia mà vẫn có hạm đội không chính quy. Khi chiến tranh nổ ra, đám tư cướp ấy sẽ đổi vai thành chiến binh chính quy.

Cướp đủ nhiều, thậm chí còn được diện kiến hoàng gia, được phong tước, trở thành anh hùng dân tộc. Henry Morgan là ví dụ rõ ràng nhất. Từ Vua hải tặc vùng Caribe (1665–1670), cuối cùng lại trở thành Thống đốc Jamaica.

Ngay cả hải quân hoàng gia cũng không đứng ngoài. Để kiếm thêm thu nhập, an ủi đám lính đói, họ cũng kéo tàu ra khơi cướp bóc. Ở các cảng thậm chí có cả môi giới chuyên đổi chiến lợi phẩm thành tiền mặt. Tất nhiên, phần lớn tiền lại rơi vào túi sĩ quan, người dưới nhận chẳng được bao.

Fraser từng ngồi trong quán rượu, nói với Trương Hằng:

“Cậu biết sự khác biệt giữa chúng ta và bọn kia là gì không? Là chúng có giấy phép tư cướp, còn ta thì không. Vậy nên ta là cướp biển đáng ghét, còn chúng là anh hùng. Đó là luật chơi của thế giới này.”

Trương Hằng thu kiếm lại. Tiếng nổ dội lên từ mạn tàu, báo hiệu cứ điểm cuối cùng cũng bị phá vỡ. Thuyền trưởng tàu tiếp tế đã tử trận. Phần còn lại buông vũ khí đầu hàng. Y sĩ lo cứu người, kế toán thì bắt đầu kiểm kê hàng hóa dưới khoang.

Phía hải tặc cũng không nhẹ nhàng gì. Hải Sư mất mười bảy người, chưa kể thương binh. Đó là lý do chẳng ai muốn chạm mặt hải quân cả dù chỉ là tàu tiếp tế, hỏa lực trên đó vẫn đủ khiến người ta chùn tay. Cái giá phải trả thì nhiều, mà thu được chẳng đáng bao nhiêu.

Thế nhưng, tinh thần toàn đội vẫn không hề lung lay, thậm chí còn sôi sục hơn. Khi hoa tiêu Olf xuất hiện, tay cầm mảnh bản đồ kho báu dính máu, ánh mắt đám hải tặc lập tức sáng rực lên.

“Không nghi ngờ gì nữa, chúng ta lại gần mục tiêu thêm một bước rồi, các quý ông!” Olf tuyên bố.

Theo lời ông ta, kho báu của thuyền trưởng Kidd được chôn trên một hòn đảo hoang đâu đó trong vùng Caribe. Trước khi chết, Kidd đã vẽ một bản đồ kho báu, nhưng bản đồ bị chia làm sáu phần, giao cho những kẻ từng tham gia truy bắt và xét xử ông ta. Tàu Hải Sư hiện đang lùng sục các mảnh bản đồ này, và với mảnh vừa thu được, họ đã có bốn phần trong tay.

Thắng lợi quả thực đang ở rất gần.

Nhưng Owen tiến lại gần Olf và khẽ nói:

“Olf, chúng ta nói riêng một chút được chứ?”

Olf gật đầu. Hai người bước tới phía đuôi tàu. Trên mặt Owen lộ rõ vẻ lo lắng.

“Chắc ông cũng thấy, chúng ta mất khá nhiều người.”

Olf gật đầu: “Tuyển quân tới đâu rồi?”

“Ông biết mà, đám tù binh kia không thể lấp hết chỗ trống. Dù sao chúng cũng là thủy thủ hải quân. Nếu chiêu mộ quá nhiều, lỡ nửa đêm ngủ bị ai cắt cổ thì sao?”

“Ý cậu là gì?”

“Tôi đề nghị quay về Nassau tiếp tế. Chúng ta đã ra khơi hai tháng rưỡi rồi.”

Olf nhìn thẳng vào mắt Owen, hồi lâu mới nói: “Tôi không giấu gì cậu, chuyện kho báu nếu lộ ra ngoài sẽ gây phiền phức không nhỏ. Nhưng tôi sẽ báo lại với thuyền trưởng.”