Đó là ngày đầu tiên của Ngày Hội Thành Lập, khoảng hai tuần kể từ khi tôi bắt đầu học từ hai nghệ sĩ múa kiếm. Theo như Sordio, khả năng kiếm thuật của tôi như hiện tại là đủ rồi, nhưng tôi cần có thêm kinh nghiệm sử dụng ma thuật trong lúc chiến đấu. Sau đó, tôi được dạy cách làm chủ phép thuật của mình, cũng như tập trung vào việc dùng ma thuật trong lúc di chuyển. Điều này đồng nghĩa với việc tôi cần ưu tiên tốc độ hơn là sức mạnh khi sử dụng phép thuật, nhưng đồng thời cũng phải sử dụng chúng liên tục trong khoảng thời gian đều đặn nữa. Hai tuần là không đủ để tôi có thể làm chủ được những kĩ năng này, nhưng tôi được bảo rằng độ chính xác cũng như chuyển động trong lúc kích hoạt phép thuật của tôi đã được cải thiện. Có người dạy cho quả thực đã giúp tôi tiến bộ hơn.
Đối với bài tập khởi động vào mỗi buổi sáng, tôi bắt chước bài kiểm tra ném củi dạo trước, nhưng thay vào đó là dùng slime kim loại và slime sắt. Những quả bóng kim loại bay về phía tôi với tốc độ cao từ khắp mọi hướng, giúp tôi cải thiện được kĩ năng chặn và né đòn. Thật may là những con slime đều khá cứng cáp, và tôi biết cách cường hóa bản thân. Nếu không thì việc này sẽ đặc biệt nguy hiểm với cả hai bên. Nhưng nói chung mọi thứ vẫn ổn. Những con slime có vẻ đã nhân cơ hội này để luyện kĩ năng tấn công của riêng chúng, thậm chí tôi còn thấy một con slime tiêu diệt được con bọ ngựa hang lẻn vào đây ngày hôm qua. Chúng từng đánh bại kẻ địch một vài lần trong quá khứ rồi, nhưng giờ có lẽ chúng đã nhận ra việc lao vào đối thủ chính là một đòn tấn công hiệu quả. Có lẽ giờ tôi có thể coi đàn slime của mình như những bảo vệ có năng lực cho khu mỏ, vì vậy tôi dự định sẽ tiếp tục đào tạo chúng trong tương lai.
Cũng nhờ nỗ lực giữ an toàn đường đi lại của hội, số kiến đào hầm ở khu vực đồng bằng đã không thể gây hại được tới thị trấn cũng như khách bộ hành. Sự xuất hiện của chúng đúng là đã gây ra một cơn náo động, nhưng rất nhiều người cùng ma thú đã chung tay tiêu diệt được hết bọn chúng. Cũng vì lẽ đó, thị trấn đã đón nhận được một lượng du khách ổn định, và mọi thứ quanh đây đã bắt đầu giống với không khí lễ hội hơn.
Buổi sáng hôm đó, một đám đông ồn ào tụ tập trước cửa tiệm của tôi.
“Chào buổi sáng!” tôi chào tất cả bọn họ.
“Chào buổi sáng, Ryoma,” Pauline trả lời. “Cô có mang bữa sáng qua này.”
“Cháu cảm ơn, cô Pauline,” tôi nói và nhận chiếc bánh mì kẹp xúc xích trong lúc kiểm tra lần cuối đồ đạc cũng như bữa sáng của tất cả mọi người.
“Ryoma, qua đây ngồi nếu muốn nhé,” người bán thịt Sieg đề nghị.
“Cảm ơn chú.”
“Không vấn đề gì. Công nhận là nơi này thay đổi nhiều thật đấy.”
Đúng là như thế. Nơi này từng là một khoảng đất trống, nhưng giờ đã có vô số thứ được đặt quanh đây. Đầu tiên, mặt nằm ngay cạnh đường chính đã được thiết lập thành cổng vào, và ở chính giữa mặt đối diện là sân khấu của Đoàn kịch Semroid. Một số thành viên của đoàn có kỹ năng dàn dựng sân khấu, và nhờ khả năng lãnh đạo cùng với việc họ đã mua vật liệu từ trước, sân khấu được dựng lên gần như ngay lập tức. Lúc đó tôi vẫn đang bận rộn với việc tiêu diệt đàn kiến đào hầm nên không được xem, nhưng hình như họ đã hoàn thiện nó chỉ trong vài ngày.
Ở phía trước sân khấu, một hàng dài gồm cả bàn và ghế đã được dựng lên. Có rất nhiều khoảng trống giữa chúng, và nhìn thì có vẻ chúng được sắp xếp không đồng đều, nhưng đây đều là ý tưởng của Prenance. Làm vậy là để khán giả có thể dễ dàng quan sát, cũng như di chuyển quanh đó mà không gặp bất tiện gì.
Ở phía bên trái của sân khấu, gần cửa tiệm của tôi là nơi bán đồ ăn. Còn về bên phải là quầy hàng của Công ty Thương mại Morgan. Nó giống như một khu ăn uống ở cửa hàng bách hóa vậy. Phía sau những quầy hàng này cũng còn thừa nhiều khoảng trống. Ở bên phía Công ty Thương mại Morgan, nơi đó được dùng làm kho chứa đồ. Còn về bên tiệm của tôi, nó được để ngỏ làm một tuyến đường vận chuyển hàng hóa. Nó nằm ngay cạnh sân khấu, nhưng được ngăn cách bởi một tấm màn cùng bức tường đá. Sâu hơn phía trong góc, nhà vệ sinh công cộng được dựng lên để khán giả cũng như người đi đường có thể tự do sử dụng. Đương nhiên là tôi đã tận dụng tối đa đàn slime cũng như sản phẩm vệ sinh từ cửa hiệu của mình. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi đã chuẩn bị tất cả mọi thứ có thể.
Giờ chỉ cần đợi đến lúc ngày hội bắt đầu nữa thôi. Theo như tôi biết thì đó là vào 8h sáng. Một vài quầy hàng đã bắt đầu mở trên tuyến đường chính rồi, nhưng chúng tôi vẫn muốn mở vào thời điểm chính thức bắt dầu. Vào ngày đầu tiên, chủ yếu là Sieg, Pauline, và toàn bộ nhân viên từ cửa tiệm cũng như vợ của họ sẽ bán hàng giúp chúng tôi. Tôi và nhân viên sẽ bắt đầu bán vào ngày mai.
“Đã đến giờ chưa?”
“Cháu nghĩ là rồi đấy.”
Ngồi tán phét khiến thời gian trôi qua nhanh hơn tôi nghĩ. Tôi cần đảm bảo mình sẽ sẵn sàng cho giờ mở cửa, nên tôi quyết định nhanh chóng hoàn thành bữa sáng của mình.
“Cảm ơn mọi người đã giúp đỡ ngày hôm nay. Cháu sẽ quay lại đây vào buổi chiều,” tôi nói.
“Cứ để đấy cho bọn tôi!”
“Tận hưởng ngày lễ nhé, Ryoma!”
Tôi không phải là khách hàng, cũng không có việc gì để làm hết, nên nếu tôi ở đây sẽ chỉ làm vướng chân họ thôi. Tôi chào tạm biệt và rời khỏi cửa tiệm. Tôi vẫn nghe thấy tiếng hô của những người đàn ông cùng vợ của họ ở phía sau lưng trong lúc tiến vào thị trấn.
◇◇◇
Tôi đi lang thang quanh thị trấn trong vài phút cho đến khi nghe thấy tiếng chuông nhà thờ rung.
“Ồ, đã đến lúc bắt đầu rồi hả?” tôi tự nhẩm. Nói thật thì lễ hội cũng đã phần nào bắt đầu rồi, nhưng bây giờ mới là chính thức. Đám đông xung quanh tôi bắt đầu sốt sắng hẳn lên, và đường phố càng ngày càng tấp nập. Cứ như thể toàn bộ năng lượng tích trữ trong người họ cuối cùng cũng được giải phóng vậy. Được trang trí cờ hoa cùng những mảnh vải màu sắc, đường phố tưởng chừng như sáng bừng lên cùng đám đông nhộn nhịp.
Tôi đứng đó một hồi lâu suy nghĩ xem nên đi đâu trước. Vì đã ăn xong bữa sáng, tôi nghĩ mình sẽ tính tới việc mua đồ ăn sau. Nhưng chuyện đó khá khó khăn khi mà bao quanh tôi toàn là những hàng quán vỉa hè, và ai ai đứng bán cũng đang cố mời gọi tôi.
“Chào mừng, chào mừng! Hãy thử món hamburger đặc biệt thơm ngon ở hàng chúng tôi!”
“Chúng tôi đã bán hàng rong giữa các thị trấn được hơn ba mươi năm rồi! Món khoai tây chiên này không gì sánh bằng được đâu!”
“Bỏng ngô, ai mua bỏng ngô không? Bỏng ngô nóng giòn đây!”
Rất nhiều món ăn ở đây khiến tôi gợi nhớ về những kí ức ở kiếp trước. Dựa vào tên và vẻ bề ngoài của số đồ ăn này, chúng có lẽ đã được ai đó ở Trái Đất giới thiệu.
“Xin lỗi, cháu có thể mua một chút khoai tây chiên được không?” tôi hỏi.
“Chắc chắn rồi cậu nhóc! Giá của chúng là 5 sute!”
Tôi rất nhớ món khoai tây chiên nên không thể không mua một ít.
“Đây ạ. Đúng năm sute, không phải trả lại.”
“Cảm ơn, lần sau lại tới nhé!”
Tôi nhận về một cái hộp lớn làm từ lá cuộn lại, trong đó chứa đầy khoai tây chiên nóng hổi. Tôi ăn thử một miếng và thấy vị nó giống hệt với khoai tây chiên trên Trái Đất. Vị mặn nhè nhẹ tràn ngập trong miệng tôi.
“Ngon thật đấy.”
“Phải không?”
Hương vị này chính xác như những gì tôi nhớ. Cảm thấy hài lòng, tôi tiếp tục ăn cho đến khi chiếc hộp sạch bong. Suýt nữa thì tôi đã mua thêm, nhưng tôi tự kiềm lòng lại vì vẫn còn nhiều thứ khác chưa thử. Nếu không, có khi tôi đã đứng đó cả ngày chỉ để ăn khoai tây chiên rồi.
“Ồ, chờ một chút,” ai đó gọi tôi từ một cửa tiệm tôi đi ngang qua.
“A, chào ông.”
Đó là ông cụ trong cửa hàng bán thuốc mà tôi thường hay ghé qua. Thay vì trực tiếp bán hàng, ông ấy thường ngồi trên chiếc ghế cạnh tường và quan sát cửa tiệm, nhưng hôm nay có vẻ như ông đang bán một thứ gì đó.
“Nhóc thường hay ghé qua đây đúng không? Đây, cầm lấy một cái đi.”
“Cảm ơn ông. Đây là kẹo ạ?”
Tôi nhận lại một cái que có một cục tròn ở dưới. Nó giống như một que kẹo bọc táo, chỉ có điều là không có quả táo nào ở đây, nhưng nó được phủ đầy bột và có rất nhiều màu sắc. Ông cụ bảo tôi rằng nó có thể được coi là kẹo. Nhưng ngay giây phút tôi cho nó vào miệng, tôi bị nổi da gà.
“Cái quái gì vậy?”
Ông cụ phá lên cười và nói, “thứ này rất tuyệt trong những ngày nóng nực đấy.”
Nó đắng và chua đến mức khiến tôi rùng mình, và còn có cả chút vị mặn nữa. Sau khi nếm nó thêm một lúc, tôi phát hiện ra trong này có chứa một vài loại thảo mộc có tác dụng giải nhiệt. Có vẻ số muối trong này được dùng để chống say nắng. Nếu không tính đến vị, thứ này cũng giống bất cứ loại kẹo mặn nào thường được bán ở Nhật. Có lẽ ăn nó trong những ngày nóng nực sẽ phát huy được hiệu quả.
“Ta sẽ bán chúng vào cả ngày mai nữa. Nếu nhóc thích thì cứ quay lại mua thêm,” ông cụ nói. Nó cũng chưa đến mức không thể chịu được, nên tôi sẽ xem xét.
Tôi cảm ơn ông cụ, rồi tiếp tục chuyến hành trình của mình. Khi tôi nhìn quanh, tôi nhận ra mọi người đều tận dụng ngày hội này để bán đủ thứ trên đời. Hoa quả là một chuyện, nhưng có người còn bán cả rau, và tôi chả thấy ai đi mua chúng vào ngày hội cả. Có những người bán cả nồi niêu xoong chảo, đồ vật dụng trong bếp, nhưng tôi cũng không nghĩ sẽ có người mua chúng. Cơ mà chúng được bày bán khá đẹp mắt nên thế chắc cũng đủ rồi.
Tiếp đó, tôi tìm thấy những cửa hàng bán đồ chơi, và rồi còn có cả một sân tập bắn cung nữa. Họ dùng một cây cung và tên rất bắt mắt.
“Này nhóc, có muốn thử không?” người chủ cửa hàng hỏi tôi.
“Thôi ạ, để khi khác.”
Tôi không thấy có phần thưởng nào hay ho mà mình muốn cả, nên tôi rời khỏi đấy. Tiếp đó, tôi vào trung tâm thị trấn. Tất cả các con đường đều dẫn tới điểm này, nên khu vực quanh đây được trang trí lộng lẫy nhất. Ở đây cũng có rất nhiều nghệ sĩ đường phố đang biểu diễn nữa.
“Bốn, năm, sáu!” một người tung hứng đếm mỗi khi anh ta tung thêm một quả bóng.
“Được rồi!” một diễn viên nhào lộn hô tô khi anh ta tạo dáng trên một chồng ghế nghiêng ngả.
Nơi này nhìn chả khác bất cứ lễ hội đường phố nào trên Trái Đất cả. Đồ ăn và những màn biểu diễn không làm tôi hứng thú bằng những tạo tác ma thuật hay ma thú được sử dụng quanh đây. Một người đàn ông đang giữ thăng bằng trên một con quái thú giống một con tatu khổng lồ đang cuộn tròn lại. Tôi không biết anh ta hay con quái vật mới là ngôi sao của màn biểu diễn này nữa.
Bỗng tôi thấy một khuôn mặt quen thuộc, nhưng với bộ trang phục không hợp ngày hội chút nào đang đứng giữa đám đông. Đó là một nữ tu sĩ trẻ tuổi. Cô ấy nhìn thật lạc lõng giữa bầu không khí ồn ào xung quanh. Những người đi đường cùng chủ các quầy hàng có vẻ cũng tò mò không kém. Có vẻ như cô ấy đang bận tâm chuyện gì đó. Nhưng thứ khiến tôi chú ý nhất có lẽ là một biển hiệu ở cái quầy ngay cạnh có ghi: ‘Slime Sắc Màu’.
“Chào buổi sáng, chị Bell,” tôi nói khi tiến gần về phía cô ấy. Nữ tu sĩ giật mình quay lại.
“Ồ, Takebayahi đó à, chào buổi sáng,” cô ấy vui vẻ chào lại tôi. Đằng sau cô ấy là một cái hộp có chứa con slime nhiều màu. Khi nhìn cả hai, tôi chợt nhớ ra cô ấy từng hỏi tôi cách để nuôi slime trước đây. Cô ấy chưa từng hỏi gì thêm kể từ ngày hôm đó.
“Vậy cuối cùng chị cũng quyết định nuôi slime rồi ạ?” tôi hỏi.
“Ừ. Sau khi chúng ta nói chuyện, chị có hỏi đám trẻ trong nhà thờ xem chúng có muốn nuôi không, và bọn trẻ đều đồng ý. Rồi chị dành rất nhiều thời gian để học ma pháp thuần thú và thần chú để lập giao ước cho đến tận tuần trước.”
“Ra là thế, vậy sao nay chị lại ở đây?”
“Chà, em thấy đấy, chị đang gặp chút rắc rối.”
Chúng tôi cùng đi ra một chỗ khác nói chuyện để tránh làm ảnh hưởng đến việc bán hàng. Theo như cô ấy, có vẻ như cô ấy quyết định sẽ chịu trách nhiệm cho việc nuôi con slime, và được giao nhiệm vụ tìm một con. Nhưng để làm thế, cô ấy không biết nên hỏi nhờ Hội bắt hộ hay là mua con slime từ cái quầy ban nãy.
“Nếu chị mua nó từ quầy hàng vừa rồi, nó sẽ rẻ hơn là nhờ Hội. Nhưng so với những con chị thấy ở Hội Thuần Thú, con này nhìn không khỏe mạnh cho lắm.”
“Vâng, em nghĩ chị nói đúng đó.”
Tôi tò mò tiến về phía con slime nhiều màu. Thứ nhất, khả năng cao đây là một dạng thấp kém hơn của slime. Mà đúng hơn, có lẽ đây chỉ là một con slime bình thường bị bắt uống nước có màu. Căn bệnh mà Bell để ý có lẽ bắt nguồn từ chính số màu này.
“Slime thường sẽ thay đổi màu sắc sau khi chúng ăn phải vật gì đó, nhưng quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn cho đến khi chúng tiêu hóa được thứ đó đi,” tôi giải thích. “Nhưng cũng tùy vào từng loại vật liệu mà slime có thể tiêu hóa nhanh hay không. Quầy hàng vừa rồi có lẽ đã dùng một loại thuốc nhuộm nào đó khó tiêu hóa hơn, nên những con slime này sẽ giữ nguyên màu sắc như vậy trong thời gian dài.”
Dựa vào mùi hương nhẹ nhàng và độc nhất mà tôi ngửi được, đây có lẽ là từ cỏ mizurina. Chúng thường được dùng để làm thuốc nhuộm màu xanh lá, nhưng do có mùi hương đặc biệt, chúng cũng hay được dùng làm thuốc đuổi côn trùng. Loại cỏ này chứa nhiều chất xơ và khó tiêu hóa. Nó cũng có tác dụng gần giống với thuốc trừ sâu, khiến số slime bị yếu đi và càng khiến việc tiêu hóa khó khăn hơn.
“Vậy sao?” Bell hỏi tôi.
Kể từ khi tôi phát hiện ra cách tiến hóa slime, cỏ mizurina là một trong những loại cỏ mà tôi không cho slime của mình ăn trừ khi số slime muốn ăn chúng. Mà nhân tiện, loại slime duy nhất muốn ăn là slime độc.
“Vâng, nhưng nếu một người bình thường ăn phải thì cũng chỉ thấy khó chịu chút thôi, trừ khi họ bị yếu bụng. Chúng cũng được dùng để làm quần áo nữa, nên em không nghĩ chúng có gì quá nguy hiểm đâu. Nhưng vì con slime của chị sẽ được rất nhiều trẻ em chơi đùa cùng, cá nhân em khuyên thật là chị không nên mua nó,” tôi nói. Việc này tôi cũng không dám chắc, nhưng nếu nó tiến hóa thành slime độc thì sẽ rất nguy hiểm. “Chị có muốn em bắt hộ một con slime không? Em cũng thường hay ra ngoài thị trấn để thám hiểm. Mà thực ra, ngày nào em cũng đi từ ngoài thị trấn vào đây.”
“Em sẽ làm việc đó giúp chị sao?”
Tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ. Nhà thờ đã giúp đỡ tôi rất nhiều, và họ sẽ tiếp tục làm thế trong tương lai. Nhưng để họ có thể làm thế, tôi ít nhất cũng cần giúp ích được cho họ. Giáo hội có ảnh hưởng ít nhiều trong xã hội hiện tại. Còn chưa kể đến việc đây sẽ là một cơ hội tốt để tôi có thể truyền tải thông điệp về slime ra công chúng.
“Hm?” tôi lẩm bẩm.
“Có chuyện gì vậy?”
“Nhìn đằng kia kìa.”
Trong một góc đường, có một đứa trẻ với khuôn mặt u ám đang đứng đó. Dựa vào đôi tai đầy lông đang rủ xuống, đứa trẻ này chắc chắn thuộc tộc thú nhân. Tôi không rõ giới tính của đứa trẻ đó vì rất khó có thể nhận ra từ vẻ bề ngoài của một người thuộc tộc thú nhân. Đứa nhóc đó còn quá nhỏ để có thể tự đi chơi ngoài đường, nhưng tôi không thấy cha mẹ của nó đâu cả.
“Mẹ! Mẹ ơi!” Đứa trẻ đó khóc to.
“Không ổn rồi.”
“Có lẽ nó đã đi lạc.”
Bell chạy đi trước khi kịp nói xong, nên tôi đi theo cô ấy.