Màu sắc của buổi đêm đã vươn đến đường phân cách giữa biển cả với bầu trời, và đâu đó đã bắt đầu xuất hiện những ngôi sao. Cứ như thể bầu trời xanh ngọc của Manhattan đã tan vỡ và bị bóng tối soán ngôi vậy. Nhưng dường như muốn xua tan màn đêm ấy, những ánh đèn rực rỡ trên mặt đất bừng lên, bức xạ từ những tuyến đường chính ra ngoài. Phản chiếu lên những bức tường đỏ tô điểm cho thành phố, ánh sáng thu hút một đám đông khác hẳn với sự nhộn nhịp ban ngày.
Cuộc Đại khủng hoảng chưa từng có của New York. Tinh thần nó tuy có thể đã lung lay, song thành phố vẫn chưa chết.
Cứ như đã mòn mỏi chờ đợi màn đêm, hơn 32000 câu lạc bộ ở New York thức dậy và bắt đầu khuấy động.
Manhattan nuốt lấy khao khát của con người, và đang trên đà để lộ một khuôn mặt khác.
Alveare (“quán Tổ ong”), một trong số những câu lạc bộ được điều hành bởi nhà Martillo, tọa lạc ở ngay giữa Little Italy với Chinatown. Xét về vẻ ngoài, thì đúng như cái tên của nó, đây là một tiệm chuyên bán mật ong. Tuy nhiên, nếu ta đi ra sau quầy tiếp tân và qua một cánh cửa chắc chắn với một cái lỗ nhòm bên trên, ta sẽ thấy mình đang ở trong câu lạc bộ đêm, nơi mà những kẻ muốn tránh né con mắt của luật pháp tụ họp. Cả đàn ông lẫn phụ nữ đều đến đây để tìm rượu. Đôi khi còn có cả trẻ em lui tới. Nơi đây là một giếng nước được dựng lên tại khoảng không giữa luật pháp và đô thị.
Ở New York tại thời điểm ấy, những câu lạc bộ ngầm như này xuất hiện nhan nhản ở khắp nơi. Đến đâu cũng có thể tìm ra những lỗ hổng luật pháp đó – phía sau một tiệm may, dưới tầng hầm một hiệu thuốc, và thậm chí là bên trong nhà thờ và đại lí tang lễ.
Alveare là một căn cứ ẩn sau một trong những lỗ hổng như vậy.
Sâu hơn nữa dưới đó, có một đại sảnh rộng thênh thang. Thường thì phòng này là một nơi mà không ai được phép bén mảng tới, nhưng hôm nay lại có hơn chục người tụ tập tại đây. Kể cả với quy mô đó, bầu không khí im ắng và căng thẳng vẫn bao trùm khắp căn phòng.
Đèn điện đã bị tắt, và nguồn sáng duy nhất chỉ có một ngọn lửa: ngọn lửa từ một chiếc đèn lớn, nằm chính giữa một cái bàn tròn.
“Firo Prochainezo.”
Sự im ắng lặng lẽ tan vỡ. Chiếc bàn khổng lồ choán lấy một nửa diện tích phòng, và những người đàn ông được xếp cách đều quanh đó. Chỉ mình người đàn ông vừa lên tiếng là ngồi trên ghế; số còn lại đều đứng nghiêm.
Chủ nhân của giọng nói vừa rồi là Molsa Martillo, thủ lĩnh đương nhiệm, hay caposocietà, của nhà Martillo. Ông nay đã hơn năm mươi tuổi, và luôn biết cách gây ấn tượng với dáng vẻ trang nghiêm rất hợp tuổi và một hình thể khỏe khoắn khác xa tưởng tượng của số đông.
Đứng bên cạnh ông ở cả hai bên là hai ủy viên cấp cao: Kanshichirou Yaguruma, một người đàn ông Nhật Bản giữ vị trí trưởng lão, hay primo voto, và Ronny Schiatto, thư ký, hay chiamatore. Maiza, với chức danh contaiuolo, đứng bên cạnh Ronny, cách Molsa hai quãng.
Mặc dù tuổi tác không liên quan gì đến chức vụ của bản thân, Yaguruma cũng đã hơn sáu mươi và, nếu chỉ nhìn qua, mang dáng dấp một chủ tiệm thuốc Bắc ở Chinatown.
Trong khi đó, Ronny vẫn còn trẻ, với đôi mắt một mí đặc trưng mang bầu không khí của loài cáo.
Gốc gác của Camorra tuy nằm ở Italia, song Molsa lại không mấy quan tâm đến chuyện quốc tịch. Do đó, trong băng có sự hiện diện của rất nhiều dân tộc khác nhau.
Firo, người đang đứng chính diện với Molsa, trả lời bằng một giọng cẩn trọng.
“...Vâng, thưa capo masto. Là tôi đây.”
“...Cậu có thể trả lời những câu hỏi sắp tới của ta mà không lầm lẫn hay dối trá chứ?”
“...Dạ được.”
Sau một khoảng lặng tầm vài giây, cuộc “đối thoại” bắt đầu.
“Cậu có muốn trở thành một camorrista không?”
“Tôi có.”
“Camorra là một tổ chức được lập nên trong một nhà tù ở Italia, quê hương xa xôi của chúng ta. Nếu cậu vượt qua lằn ranh ấy, một ngày nào đó ngục tù sẽ cướp đi sự tự do của cậu. Ngọn lửa sinh mạng cậu cũng có thể bị dập tắt trong một cuộc chiến không cân sức. Cậu có hiểu những điều đó không?”
“Tôi hiểu.”
“Chân phải cậu là nhà tù. Chân trái cậu là nấm mồ. Cho dù thế, cậu vẫn sẽ mãi hướng mắt về con đường mình đi, và nắm lấy vinh quang bằng tay phải chứ?”
“Tôi sẽ.”
“Nếu cần, cậu có thể dùng tay phải để tự kết liễu mình vì lợi ích của chúng ta chứ?”
“...Dạ được.”
“Firo Prochainezo. Nếu cha cậu giết một đồng chí của chúng ta, thì cậu có thể giết cha mình và báo thù cho người đó chứ?”
Một câu hỏi cần đến một khoảng lặng ngắn.
Firo không hề biết mặt cha mình. Cậu được sinh ra và nuôi nấng trong một khu ổ chuột ở Hell's Kitchen, nơi mà những người Italia nhập cư thường trú ngụ. Cha cậu là người Italia, còn mẹ cậu là người Mĩ mang dòng dõi Anh quốc. Khi còn ở Naples, cha cậu nhiều khả năng đã từng là một thành viên của Camorra. Đã từng có một cuộc chiến giữa các băng đảng tại đó, và khi băng của ông thua, gia đình cậu đã chuyển đến đất Mĩ.
Ngay vào cái ngày mà Firo chào đời, cha của Firo đã chết vì nhiễm bệnh lao.
Cậu lớn lên mà không biết gì về cha mình, và trước khi cậu kịp qua sinh nhật tuổi thứ mười, mẹ của cậu cũng chết theo.
Lại lần nữa, nguyên nhân là do bệnh lao. Mẹ của cậu bị cô lập khỏi tất cả mọi người xung quanh, và cái chết của bà hẳn phải rất đơn độc.
Suốt vài năm sau đó, cậu đã phải làm tất cả mọi thứ để tồn tại trên đời. Cậu không có đủ thời gian để phân biệt giữa cái tốt với cái xấu. Cậu đã lang bạt khắp New York trước khi cố gắng trộm ví từ Yaguruma, primo voto của tổ chức. Ngay cái khoảnh khắc cậu cố thò tay vào trong áo khoác cuả người đàn ông châu Á lớn tuổi ấy, tầm nhìn của Firo đã ngay lập tức lộn nhào. Sau đó thì cậu còn bị Yaguruma ném đi thêm hàng trăm lần, song lần đầu vẫn là lần đáng nhớ nhất.
Đó là lúc Firo bắt đầu trở thành một phần của gia tộc. Đối với cậu, những thành viên qua lại Alveare thực sự không khác gì một gia đình.
Cậu chưa từng suy nghĩ quá nhiều về nơi mình thuộc về.
Nhưng Firo thích những người ở đây.
Tất cả chỉ có thế, song với cậu, như vậy là đủ.
“...Được. Nếu người bị giết thực sự là một đồng chí của chúng ta, thì tôi sẽ chôn sâu lưỡi dao vào lồng ngực của người thân.”
“Ta hiểu rồi... Nghe đây, Firo. Con đường mà cậu chuẩn bị khởi đầu là...một vòng xoáy... Đúng thế, một thứ gì đó giống như một cái cầu thang xoáy khổng lồ.”
Đây không phải một câu hỏi. Ông chậm rãi lên tiếng, với tông giọng thường dùng để khuyên nhủ con cái mình.
“Thế giới của chúng ta là một cái thang xoắn ốc: Một khi cậu đã bước chân vào trong đó, thì cách duy nhất để tiến bước là đi xuống. Một số người đi xuống từ tốn, tay nắm lấy lan can, còn những người khác thì rơi thẳng một mạch xuống trung tâm của vòng xoáy. Một số người sẽ khéo léo băng qua cái hố đó, bằng một chiếc dù, để rồi được tắm trong những lời ngợi khen, trong khi dây dù của những người khác bị cắt đứt mãi mãi. Chúng ta chỉ là những cá thể bé nhỏ tìm cách đi xuống dưới cái thang ấy, không hơn không kém. Thứ duy nhất chờ đợi chúng ta ở đích đến là cái chết của chúng ta. Cho dù chúng ta rơi xuống mặt đất và chết; hay chúng ta bước đi đến kiệt lực rồi chết; hay chúng ta chết một cách mãn nguyện, như thể sắp chìm vào giấc ngủ. Sự thật rằng chúng ta rồi cũng sẽ chết đi là không đổi ở mọi thế giới, nhưng phần lớn đều chết ở trên đỉnh, hay là...ờm, đâu đó gần với thiên đường, mặc dù ta không biết nó có tồn tại hay không. Tuy nhiên, với chúng ta, đi ngược lên là bất khả thi. Capone có thể trông như là đang đi lên, nhưng ngay cả hắn cũng chỉ đang khéo léo đáp xuống, giữa những tràng pháo tay, giống như một buổi diễu hành của tổng thống... Thế nhưng, cuối cùng thì hắn vẫn chỉ đnag đi xuống mà thôi.”
Đến đoạn đó, ông dừng lại. Hít một hơi sâu, ông nói tiếp:
“Khi một ai đó tỏa sáng rực rỡ như Capone...những người đứng bên ngoài cái thang xoáy, những người sống một đời bình thường, sẽ có thể thấy được họ. Tuy nhiên, đa số không bao giờ được để ý tới. Tất cả những gì người ta nghĩ chỉ là đang có chuyện gì đó trong một cái cầu thang dẫn đến tận trung tâm của Trái đất.”
Đôi mắt Molsa chợt mở toang, và ông nhìn thẳng vào mắt của Firo.
“Firo Prochainezo. Ta sẽ hỏi cậu thêm lần nữa. Vẫn chưa quá muộn để cậu quay đầu lại đâu. Kể cả khi trước đây cậu có làm gì sai, nếu như chuyện không có gì nghiêm trọng mấy, thì cậu vẫn có thể hướng về cầu thang đi lên. Có khả năng cậu sẽ bị giam giữ một vài năm, nhưng cậu có thể gây dựng một khởi đầu mới tại đó. Tuy nhiên, nếu cậu vượt qua lằn ranh này, cậu sẽ không còn đường quay đầu nữa. Cho đến nay, người khác luôn sử dụng cậu, nhưng khi cậu trở thành một camorrista, cậu sẽ là người sử dụng người khác. Cậu sẽ nắm trong tay một vài công tắc – chỉ một vài thôi, nhớ đấy – của thế giới nhầm. Một khi điều đó xảy ra, cậu sẽ không thể nào quay đầu lại. Nếu cậu dám làm thế, những kẻ đang xuống cầu thang cùng với cậu sẽ lôi cậu về và ném cậu vào hố sâu ngay giữa thang. Thật lòng mà nói, ta nghĩ cậu vẫn sẽ làm tốt trên con đường của người lương thiện thôi. Cậu có đủ khả năng để làm điều đó. Firo Prochainezo. Dẫu thế, cậu vẫn định bước vào cái thang này chứ?”
Bài phát biểu của Molsa kết thúc tại đây. Một lần nữa, sự im lặng lại choán lấy khắp căn phòng.
Ngọn lửa trên đèn điên cuồng nhấp nháy.
Rốt cuộc Firo đã phải dùng đến bao nhiêu can đảm để thốt lên những lời đó... Để trả lời lại Molsa?
“...Vâng, Tôi đã sẵn sàng.”
Lúc cậu nói xong, lưng cậu chảy mồ hôi như thác, và những giọt nước muối rỏ xuống từ hai bàn tay nắm chặt.
“...Ta hiểu rồi... Thế thì, cho chúng ta thấy quyết tâm của cậu đi.”
Firo bước lên một bước.
Cậu rút con dao của mình ra...rồi cắm nó lên trên mặt bàn. Xung quanh còn có hơn chục vết dao nữa, có lẽ là tàn dư của những buổi lễ trước đây.
Một khẩu súng lục nằm cách con dao một chút về phía trước. Firo cầm nó lên và nhắm vào Molsa. Rồi cậu hướng nòng súng vào lồng ngực của chính mình.
Khi đã hoàn tất những hành động đó, Firo bước quanh cạnh bàn, súng vẫn nằm trong tay. Cậu bước qua khoảng một nửa số người trong lúc làm thế, và tất cả đều nhìn chằm chằm vào cậu ta.
Khi đã đến bên cạnh Molsa, Firo quỳ xuống đầy cung kính. Cậu cẩn thận nới lỏng nắm tay đang cầm món vũ khí, lặng lẽ dâng nó cho thủ lĩnh của mình.
Vị caposocietà nhận lấy nó mà không nói gì thêm. Rồi ông giơ một tay lên và ra hiệu cho Ronny, người thư kí.
Ronny lẳng lặng gật đầu, rồi bước tới một cái giá nằm trong một góc của căn phòng. Anh ta mang hai cái chai và một cái ly tới chỗ của Firo.
Một chai chứa đầy rượu, và một thứ chất độc sóng sánh trong cái chai kia.
Molsa đổ rượu vào ly cho đến khi nó đầy một nửa, rồi đổ nốt chất độc vào trong đó.
Không nói lấy nửa lời, ông chìa ly rượu độc về phía Firo.
Firo không ngần ngại đón lấy nó và chậm rãi đưa nó lại gần môi mình.
Khi nó chạm đến phần vành của chiếc ly mờ sáng--
--Molsa giật phắt ly rượu khỏi tay Firo và đổ nó xuống sàn. Rượu đỏ và mảnh ly vỡ văng tung tóe dưới chân họ.
Hành động này đã chứng tỏ lòng trung thành và dũng cảm của Firo. Bằng cách bỏ lại con dao, cậu đã cho thấy một sự can đảm không chỉ dựa dẫm vào mỗi vũ khí. Bằng cách chĩa nòng súng từ phía Molsa sang phía mình, cậu đã cho thấy quyết tâm thà chết chứ không bắn hạ caposocietà. Bằng cách đưa chất độc lại gần môi, cậu đã cho thấy sự tận tâm, sẵn sàng chấp nhận ngay cả cái chết nếu đó là mệnh lệnh mà thủ lĩnh đưa ra. Nội dung và ý nghĩa của những nghi thức thăng cấp kiểu Camorra có nhiều sự khác biệt giữa các băng nhóm. Đối với nhà Martillo, thì sau tất cả những hành động này, “nghi thức” cuối cùng sẽ được tiến hành.
“Capo... Xin hãy kiểm tra nghĩa vụ của tôi.”
Firo đáp.
Molsa im lặng gật đầu, và rồi:
“Yaguruma, anh sẽ là nhân chứng. Maiza, cậu kiểm tra nghĩa vụ của Firo.”
Phía sau chiếc bàn tròn, có một khoảng không gian thông thoáng và tương đối lớn. Khi Firo và hai ủy viên đi tới đó, Ronny mang đến ba con dao. Một trong số đó là con dao Firo găm lên bàn hồi nãy, và nó được trao trả lại cho cậu ta.
Hai con dao còn lại được hai bàn tay của hai vị ủy viên đón lấy, mỗi người một chiếc.
Hai người họ, Firo và Maiza, đang chuẩn bị có một cuộc song đấu, ngay tại đây.
Một trong số những điểm khác biệt giữa Camorra và Mafia là ở chỗ, trong khi Mafia ưa dùng súng, thì Camorra lại chọn kĩ năng sử dụng dao làm phương thức đánh giá danh dự của mình. Càng sử dụng dao thành thạo bao nhiêu, thì sự tôn trọng đến từ các đồng chí sẽ càng lớn.
Nói cách khác, đối với Camorra, có khả năng sử dụng dao là một nghĩa vụ.
Do đó, một bài kiểm tra kĩ năng dùng dao thường được lồng ghép như một nghi thức, và mặc dù không ai biết liệu nó có mang cùng một ý nghĩa hay không, rất nhiều băng Camorra – ở cả Naples lẫn New York – luôn có một cuộc song đấu trong hệ thống các lễ nghi.
Cuộc song đấu được coi là kết thúc khi một người tham gia đả thương được cánh tay của đối thủ. Nếu Firo thua Maiza, cậu sẽ đấu thêm lần nữa, với một trong số những ủy viên khác. Nếu cậu thua ba lần liên tục, cậu sẽ phải dành thời gian trau dồi kĩ năng, và cuộc đấu sẽ được tiếp tục lại vào một ngày khác. Dĩ nhiên, cho tới lúc đó, cậu sẽ không thể trở thành một ủy viên được.
“...Ta chắc là giữa hai cậu không có tư thù gì chứ? Nếu một trong số các cậu đâm vào ngực của đối phương, thì ta sẽ giết người đó ngay lập tức. Rõ chưa?”
Yaguruma lạnh lùng lên tiếng. Mặc dù là dân nhập cư từ Nhật Bản, ông cũng đã sống tại đất nước này hơn ba mươi năm, thế nên lối nói của ông không có gì khác thường cả.
Firo với Maiza cởi áo khoác ra và treo lên lưng ghế. Hai người họ mặc áo sơ mi dài tay, và trong căn phòng tối, hai mảng màu trắng ấy hiện lên rất rõ ràng.
“Không định cởi áo sơ mi ra à? ...Ta biết là trời lạnh thật, nhưng mà ngoài bị rách ra, chúng còn có thể dính máu nữa đấy... Không quan tâm à? Được rồi. Thế thì...bắt đầu thôi.”
Yaguruma lùi một bước, và Maiza cùng Firo đứng đối mặt nhau.
Firo không biết mình nên bắt đầu như nào. Nghĩ lại thì, đây mới là lần đầu tiên cậu thấy Maiza cầm một con dao. Mọi người thường hay nói xấu sau lưng anh ta rằng anh ta là một thằng hèn nhát, nhưng với vị trí ủy viên của mình, chắc hẳn anh ta cũng phải có ít nhất là một chút kĩ năng, đúng chứ?
Dẫu thế, Firo vẫn chắc chắn là mình sẽ không thua. Nếu đối thủ của cậu là Yaguruma, chắc chắn cậu sẽ kém tự tin hơn bây giờ nhiều, nhưng cậu hoàn toàn tin tưởng rằng mình có thể chiến thắng trước Maiza, không cần phải bàn cãi.
Suy nghĩ ấy bị đập tan chỉ trong một khắc.
Chúi về phía trước một chút, người đàn ông cao lêu nghêu bắt đầu lại gần. Những bước chân hết sức chậm rãi.
Đột nhiên, Maiza vươn cánh tay ra. Cảnh tượng ấy thực sự trông giống như thể tay anh ta vừa được tăng chiều dài.
“.........!”
Firo lập tức nhảy về sau, chỉ để bị Maiza cướp lấy vị trí mà cậu mới đứng ban nãy.
Nhanh quá...!
Ngay sau khi Maiza chậm rãi bước tới, anh ta đã tăng tốc đến chóng mặt. Đó là lí do tại sao Firo tưởng rằng cơ thể Maiza vừa vươn dài ra.
Maiza nở một nụ cười có phần thất vọng. Rồi anh ta thu hẹp khoảng cách thêm lần nữa, tung ra hàng loạt những đòn công kích bằng dao.
Cách di chuyển của nó biến đổi hết từ đòn này sang đòn khác. Ngay khi Firo vừa kinh qua vài cú chém vòng cung liên tiếp, thì vào đúng khoảnh khắc tiếp theo, một cú đâm trực diện đã nhắm thẳng vào cậu. Firo cũng tiến đánh không hề nao núng, nhưng tất cả đều bị gạt đi bởi những cử động tuyệt đẹp. Rồi một đòn đánh khác sẽ phóng tới khoảng không mà cậu vừa bỏ trống.
Anh ta rất khó xơi. Cái cách Maiza điều khiển con dao cho thấy kĩ năng của anh ta phải thuộc tốp đầu trong số những người mà Firo từng biết. Nếu như chỉ đứng nhìn từ bên ngoài, có lẽ cậu sẽ vô thức tán dương nó ngay, nhưng giờ cậu không có thời gian để làm thế.
Tuy nhiên, Firo cũng là một trong số những người giỏi dùng dao nhất tổ chức, và cậu tiếp tục né thành công những đòn đánh của Maiza trong đường tơ kẽ tóc.
Sức mạnh của Firo nằm ở đôi mắt sắc bén và tầm nhìn mà chúng mang lại. Đường đi của con dao không phải là thứ duy nhất mắt cậu để ý tới: Cậu nắm bắt chi tiết được cả cử động của đôi vai, đôi mắt, lẫn đôi chân của Maiza, qua đó nhanh chóng quyết định xem mình nên di chuyển như thế nào.
Công việc của cậu trong tổ chức có bao gồm chống gian lận trong một sòng cờ bạc, và nó đã rèn luyện khả năng nhận biết hành động lẫn mở rộng tầm nhìn thị giác cho dù cậu có muốn hay không. Ngoài ra, mỗi khi có thời gian rảnh, cậu đều học võ với Yaguruma và đấu dao với Ronny cùng Molsa, thế nên cậu rất thành thạo trong khoản ra quyết định giữa trận chiến.
Thế nhưng, Maiza vẫn đang dồn ép cậu đến tận chân tường.
Đôi mắt Firo hướng sang khoảng không phía sau Maiza. Dựa trên vị trí của những bức tường trước mặt cậu, chắc chắn Firo sẽ bị ép góc sau vài giây nữa. Chỉ cần lưng cậu đập vào tường một lần thôi, có lẽ Maiza sẽ xử gọn cậu. Và như thế – Firo lập một canh bạc. Cậu tự nguyện nhảy ra sau, đập lưng mình lên một bức tường. Maiza tiến lại gần. Firo nhanh nhẹn khuỵu gối xuống...rồi đá mạnh vào bức tường, lao băng băng tới chỗ của Maiza. Trong một thoáng, người đàn ông kia có vẻ hơi hoang mang – hoặc Firo nghĩ thế, nhưng cậu không có thời gian kiểm tra lại. Cậu nhắm mục tiêu và vung dao về phía đối thủ của mình.
Nếu cậu nhắm vào cánh tay, rất có khả năng tay cậu sẽ bị chém trước. Và thế-- cánh tay Maiza đột ngột dừng lại.
Mũi dao của Firo đâm vào miếng phân cách giữa phần cán và phần lưỡi của dao Maiza. Hai món vũ khí chồng lên nhau một cách hoàn hảo. Song lưỡi dao của Firo dường như lại dài hơn một chút: lưỡi dao của Maiza vẫn chưa chạm được tới miếng phân cách của Firo.
Một cú ăn miếng trả miếng. Cảnh tượng kì lạ ấy kéo dài chưa đến một giây.
Maiza vội vã rút dao về, nhưng cứ như đã đồng bộ hóa chuyển động của mình với của Maiza, Firo đẩy con dao của mình vào sâu hơn nữa.
Đợt tác động bất ngờ đó khiến Maiza mất thăng bằng.
Lần này, nhắm vào khoảnh khắc ấy, Firo giật dao về. Nó nhẹ nhàng trượt ra khỏi miếng phân cách của Maiza. Và rồi, nhân lúc Maiza đứng chưa vững, nó sượt qua tay trái của anh ta.
Trận đấu cân tài cân sức, với thời lượng lên đến mấy phút, đã kết thúc theo cách không thể nào đột ngột hơn.
Tay áo của Maiza bị xẻ ngang, và máu đỏ rỉ ra từ vết rách.
“...Kết thúc rồi đấy, thưa các quý ông.”
Maiza mỉm cười rạng rỡ, giơ cánh tay nhuốm máu của mình lên cao.
Sau một thoáng im ắng, căn phòng như rung lên bởi tiếng ăn mừng.
Ngay trước lúc đó, tất cả các ủy viên đều quan sát nghi thức với vẻ mặt rắn như gỗ đá, nhưng dựa trên dáng vẻ của họ bây giờ, thì người ngoài hoàn toàn có thể nghĩ rằng tuyển thủ yêu thích của họ vừa mới ghi được một cú homerun. Bọn họ ca tụng Firo, đồng loạt cùng một lượt.
“Yahoo! Cừ lắm đó, Firo!”
Một ủy viên quàng tay qua vai Firo.
“Không thể tin là cậu có thể đánh trúng Maiza một cú đấy!”
Rõ ràng mọi ủy viên đều biết đến trình độ của Maiza. Nghĩ lại thì, cậu chưa từng thấy ủy viên nào nói xấu sau lưng Maiza bao giờ. Sau khi lấy lại đủ sự điềm tĩnh để có thể cân nhắc đến những khía cạnh đó, mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên mặt cậu ta.
“Không...tôi cũng...hoảng lắm.”
“Chúc mừng nhé, Firo.”
Toàn bộ sức lực dường như đã bị rút kiệt ra khỏi cơ thể Firo, và Maiza ôm lấy cậu ta, như thể đang muốn giữ cho cậu ta đứng vững. Rồi, cứ như lấy đó làm dấu hiệu, những ủy viên khác đến ôm chầm lấy Firo, từng người từng người một.
Vừa lấy tay vỗ lưng lưng Firo, Yaguruma vừa dành tặng một lời khen hiếm thấy.
“Quả nhiên là nhóc đã trưởng thành rồi. Ta đã làm nhân chứng suốt bao năm qua, và nhóc là ứng cử viên đầu tiên từng hạ được Maiza đấy!”
Cuối cùng, Molsa ôm Firo, đập bộp một cái lên lưng cậu.
“Ta không còn gì để nói nữa. Firo, cậu đúng là một camorrista đích thực.”
Rồi Molsa cầm lấy khẩu súng vừa được dùng trong nghi thức ban nãy.
“Giờ ta sẽ bắn một phát súng, để chào mừng ủy viên mới của tất cả chúng ta!”
Hướng nòng lên trần nhà, ông bóp lấy cò súng. Viên đạn đâm xuyên qua cái trần gỗ, nhắm thẳng tới tầng trên. Phát bắn này có lẽ đã luôn nhắm vào cùng một nơi: có một vài vết đạn cũ ở quanh khu vực đó.
Như thế, toàn bộ buổi lễ kết thúc, và một camorrista mới đã được ra đời.
Có lẽ là bởi đang quá hạnh phúc, nên người camorrista đó liên tục nhìn ngó khắp chung quanh.
“...Hả?”
Rồi cậu chợt để ý.
Rằng vết máu đỏ trên tay Maiza đã hoàn toàn biến mất.
Ngay lúc cậu đang thử nghĩ xem như vậy nghĩa là gì--
Một tiếng rền nặng nề vang lên, cứ như có một thứ vừa đổ sập xuống ở phía bên kia trần nhà. Rồi sau đó là tiếng thét của một cô gái.
“Aaaaaaaaaaaaaaaaaa! Isaac bị giết mất rồi!”
-----
Ít lâu trước đó.
Isaac và Miria dạo bước bên nhau, với bộ dạng y hệt như lúc trước, trong lúc đèn đường bắt đầu sáng lên.
“Chà. Không biết là Ennis đã nộp bốn tên đó cho cảnh sát hay chưa nữa.”
“Hi vọng là sau đó cô ấy có một màn tẩu thoát ngoạn mục!”
Cô đã tự gọi mình là tội phạm, thế nên rõ ràng họ đang lo rằng cô có thể đã bị cảnh sát bắt mất.
“Nè, theo em thì trước kia Ennis đã làm gì?”
“Có lẽ là cô ấy bỏ trốn khỏi nhà đấy, anh có nghĩ vậy không?!”
Họ không hề biết rằng cô mới là người nghĩ họ từng bỏ nhà ra đi.
“Hừm... Ừ, có thể là vậy đấy. Cơ mà... cô ấy đúng là mạnh thật!”
“Cực kì mạnh luôn!”
“Anh nghĩ đó chính là 'Baritsu Đông phương' trong truyền thuyết.”
“Baritsu là gì vậy?”
“He-he-he! Đó là một trường phái võ thuật được sử dụng bởi Holmes, vị anh hùng trong những cuốn tiểu thuyết Anh quốc nổi tiếng. Nghe nói đó là một cách gọi tắt của 'Nhu thuật phái Barron'!”
“Oa, Isaac, anh đúng là cái gì cũng biết!”
“He-he-he, nếu như em quan sát thay vì chỉ đơn thuần là nhìn, thì em sẽ hiểu được ý nghĩa của Baritsu thôi, Miria yêu dấu ạ.”
Rõ ràng cậu ta là một người hâm mộ tiểu thuyết trinh thám. Thế nhưng, thật sự rất khó để tin rằng kể cả quan sát sẽ là đủ để làm rõ ý nghĩa của Baritsu. Bởi vì hiện chẳng có gì để quan sát hết.
“Cơ mà, phụ nữ mạnh mẽ đúng là đẹp thật đấy, nhỉ?”
“Phải, y hệt như Tomoe Gozen!”
Tại sao bọn họ lại am hiểu những thứ kì quặc đến dư thừa, mà chẳng hiểu gi về những chuyện khác?
“Mà nè, Isaac! Chúng ta sắp sửa đến đâu vậy?”
“Phải rồi. Về vụ đó...”
Isaac hạ giọng thì thầm và bắt đầu giải thích.
“Kể cả khi chúng ta đang định trộm tiền từ Mafia, nếu như chúng ta ăn trộm từ một băng quá lớn, sẽ có rất nhiều người truy lùng chúng ta, và như vậy sẽ khó lắm. Vì thế, kế hoạch sẽ là nhắm vào một băng nhỏ không liên kết với bất cứ ai khác! Dựa trên thông tin anh thu thập được từ trước, thì những băng đạt yêu cầu trong khu vực này là nhà Martillo với nhà Gandor.”
“Mm-hmm, mm-hmm.”
“Thế nên, ngay bây giờ, anh nghĩ chúng ta sẽ tới hang ổ của nhà Martillo trước, bởi nó ở gần hơn. Chúng ta sẽ dành ngày hôm nay để do thám chỗ đó.”
“Do thám! Được luôn!”
Trên đường đi theo địa chỉ nhận được từ đại lý tin tức, họ bắt gặp một cửa hàng với biển hiệu hình tổ ong.
Tấm biển hiệu màu nâu có ghi dòng chữ ALVEARE bằng sơn trắng, song Isaac không biết tiếng Italia, thế nên cậu ta không nhận ra rằng từ đó có nghĩa là “tổ ong.”
“A, chính là nó, chính là nó rồi.”
“Phải, chính là nó!”
Khi họ mở cửa ra, một mùi hương ngọt đậm lập tức tràn vào mũi họ.
Ở bên trong, cửa hàng chứa đầy những kệ mật ong đủ loại. Họ đã nghĩ mùi hương kia có thể đến từ những lọ mật để hở nắp, nhưng rõ ràng nguyên nhân phải là chỗ mật ong đang sôi liu riu trên cái bếp ở phía sau quầy thanh toán.
“Mời vào.”
Người phụ nữ đang khuấy nồi mật ong nói với họ.
“Chúng tôi sắp đóng cửa, nên mấy cô cậu muốn tìm gì thì nói mau đi.”
Cô nom vẻ hơi thô lỗ, nhưng Isaac với Miria không thực sự quan tâm. Họ nhìn ngắm một lượt cửa hàng.
Phía sau quầy thanh toán có một hành lang dẫn đến một cánh cửa trông tương đối chắc chắn.
“Ờm, chúng tôi muốn đi qua cái cửa đó.”
“Chúng tôi muốn đi vào!”
Đáp lại những lời đó, người chủ quán ném cho họ một ánh mắt lạnh lùng.
“...Chưa từng thấy mấy cô cậu bao giờ.”
“Không cần phải lo!”
“Không cần!”
Chủ quán nhìn lại cặp đôi kia thêm một lượt. Một bộ vét không cà vạt, và một chiếc đầm đen. Họ cầm trên tay một thứ gì đó nom như một loại mũ đến từ nước ngoài kèm một cái mặt nạ kì dị.
Bất kể nhìn nhận thế nào, họ cũng khó có thể là cảnh sát điều tra, và cô chưa từng nghe đến chuyện phụ nữ có tham gia vào một chiến dịch kiểu này.
Đi đến kết luận đó xong, người chủ quán lặng lẽ đi vào trong hành lang.
“Nào, mau lên.”
Cô gõ một vài cái lên cánh cửa đóng chặt. Chỉ một thoáng sau, ánh sáng đã xuyên qua lỗ quan sát.
Một khoảng lặng ngắn trôi qua, rồi họ nghe thấy một tiếng cạch từ phía bên kia cánh cửa. Có vẻ như là do tiếng mở khóa.
Cánh cửa được mở ra, và ánh sáng rực rỡ chảy tràn ra ngoài.
“Oa...”
“Tuyệt thật...”
Nội thất bên trong có khá nhiều điểm tương đồng với một nhà hát kịch. Ánh sáng từ ngọn đèn chùm rọi lên những bức tường màu trắng sữa, làm người ta liên tưởng đến cái vàng óng của mật ong. Căn phòng trông rộng rãi hơn nhiều so với mặt tiền của cửa hàng, với tầm mười chiếc bàn phủ khăn trắng. Ngoại thất của các tòa nhà liền kề nhìn có vẻ tách rời nhau, nhưng rõ ràng một vài trong số đó được nối lại thông qua hệ thống tầng hầm.
Một sân khấu nhỏ nằm gọn ở phía sau, có vẻ như là để các cư dân địa phương khoe giọng nếu thích. Tần suất ánh đèn ở khu vực đó nhiều hơn so với phần còn lại.
“A, xin chào quý khách! Mời vào, mời vào!”
Một giọng tiếng Anh tương đối sõi vang đến từ đằng sau lưng họ.
Một cô gái Trung Quốc tóc đen chạy tới chỗ Isaac và Miria. Cô mặc một bộ xường xám đỏ bắt mắt với những đường chỉ thêu màu vàng. Những đường nét mảnh dẻ của cô được tôn lên thấy rõ, và dáng vẻ này chắc chắn được dùng để thu hút khách hàng nam. Tuy nhiên, những nét trẻ con lại thường xuyên lộ ra trong cử chỉ với cách nói, và sẽ hợp lí hơn nếu gọi cô là cục cưng thay vì nàng thơ của nơi đây.
“Ôi, tôi thành thực xin lỗi! Tôi e là có một vài nhóm đã đặt bàn từ trước rồi, nên là mong quý khách có thể ngồi ở bàn góc đằng kia. Được chứ?”
Họ nhìn quanh sau khi thấy cô nói thế, và nơi đây thực đúng là tương đối trống trải. Ngoài họ ra, những vị khách duy nhất chỉ có mấy ông già và, lạ lùng thay, một đứa bé. Ngoài ra, còn có một nhóm ba người đàn ông ở phía sau, và đó là tất cả.
Không buồn đợi họ trả lời, cô gái Trung Quốc dẫn họ tới một bàn nhỏ nằm trong góc.
Isaac với Miria không phàn nàn gì mà đi theo luôn. Họ đến đây chỉ là vì mục đích do thám, thế nên họ không quan tâm mấy tới vị trí ngồi.
“Ừm...mang cho chúng tôi loại rượu rẻ nhất ra đây, được chứ?”
“Được chứ!”
“Vâng, vâng! Xin chờ một lát.”
Sau khi cô nữ hầu kia rời đi, hai người bắt đầu thì thầm trong bí mật.
(“Được rồi, nghe đây: Chúng ta cần phải tìm những nơi có thể cất trữ tiền.”)
(“Như là một cái két?”)
(“Đúng thế. Dựa trên những gì anh biết, thì văn phòng của tổ chức nằm ở đâu đó trong đây. Có nghĩa nhiều khả năng nơi đây cũng có một cái két.”)
(“Đã rõ!”)
Cả hai lặng lẽ đứng lên và bắt đầu rình rập lén lút khắp căn phòng. Chỉ cần cố chút thôi là họ sẽ không thể đáng nghi hơn được nữa, nhưng tại thời điểm ấy, nhân viên duy nhất trong phòng chỉ có mỗi cô gái Trung Hoa, và cô dường như không để ý đến những gì họ đang làm.
“Giờ thì, biết tìm từ đâu đây... Hửm?”
Đôi tai Isaac chợt bắt được tiếng gì đó nghe như tiếng hò reo.
“Cái gì thế...?”
Cậu ta căng tai lên, cố gắng tìm ra nguồn gốc của tiếng động ấy, và nhận thấy có mấy cái thùng phuy xếp chồng lên nhau ở góc phòng, ngay bên bàn của bọn họ.
Isaac đi đến chỗ đống thùng phuy và ghé mắt nhìn qua khe hở giữa chúng.
Ban đầu, dường như không có gì ở trong khoảng không đó cả, nhưng tiếng reo hò nhất quyết là đang phát ra từ đó.
“...Hửm?”
Đôi mắt cậu ta chuyển hướng sang một khoảng sàn nhà bị chìm trong bóng tối. Trên đó có một vài lỗ nhỏ.
“Cái gì đây?”
Isaac khuân một cái thùng sang bên và đứng đó, mắt nhìn xuống mấy cái lỗ trên sàn.
Ánh sáng mờ mờ đang xuyên qua chúng. Rõ ràng là nó được phát ra từ một căn phòng ngầm.
...Và tiếng hò reo nhất định là đang phát ra từ những cái lỗ đó.
“Aha... Vậy ra là văn phòng ở dưới tầng hầm à?”
Nếu thế thì, lối vào đâu?
Ngay lúc cậu ta đang bắt đầu tìm kiếm, cô gái Trung Quốc chợt thét lên.
“Aaaa! Thưa ngài! Không phải chỗ đó! Nó nguy hiểm lắm! Làm ơn tránh xa ra!”
Nghe thấy thế, tất cả các hành khách trong quán đều quay sang nhìn Isaac. Miria cũng nhanh chóng nhìn theo với vẻ mặt hết sức hiếu kì.
“Hả...? Nguy hiểm cái gì cơ c--?”
Bằng.
Một tiếng nổ khô khốc phát ra từ tầng dưới. Rồi một cơn sốc nhẹ chạy dọc qua mũi giày của cậu ta.
“Cái...?”
Cậu ta nhìn xuống và thấy mũi giày của mình hơi rách bợt ra. Ngón chân của cậu xem chừng không bị hề hấn gì, nhưng những vệt khói vẫn đang bốc lên từ vết rách trên chiếc giày da.
Isaac ngửa cổ nhìn lên trần nhà.
Ở đó hiện đang có một lỗ nhỏ mới nguyên.
“Hả...? Có phải mình vừa...bị bắn không?”
Isaac không nói được gì nữa. Cậu ta ngã uỵch xuống, nằm bất tỉnh nhân sự.
Miria, người đã chứng kiến tất cả từ đầu đến cuối, ôm mặt đau đớn và thét.
“Aaaaaaaaaaaaaaaaaa! Isaac bị giết mất rồi!”
-----
“Cạn li! Mừng ngày một camorrista mới ra đời!”
Molsa mở lời, và tất cả đều uống cạn li của mình ngay lập tức.
Sau khi hoàn thành nghi thức xong, các ủy viên đã tụ tập quanh thành viên mới nhất của mình và mở một bữa tiệc chào mừng. Hôm nay, họ là những thành viên duy nhất của tổ chức trong Alveare. Các hội viên và thực tập sinh đều đã được điều tới các cơ sở khác, và chỉ có các ủy viên kèm những người thực sự thân thiết là đang ở nơi đây... Dù sao đi nữa, đáng lẽ mọi chuyện nên là như vậy.
“Nói thật với em nhé, anh cứ tưởng là mình sắp chết rồi cơ.”
“Em cũng nghĩ thế!”
Tình cờ thay, hai kẻ lạ mặt lại cũng đang góp mặt trong buổi tiệc. Bộ vét và chiếc đầm đen trên người họ trông không mấy lạc lõng đối với một dịp như thế này. Vì một lí do nào đó, họ còn ngồi cùng bàn với Firo, khách mời danh dự.
Sau khi cả nhóm đổ xô lên tầng trên, họ tìm thấy Isaac với đôi mắt đang trợn trừng và Miria, người luôn miệng mếu máo “Giiiết ngườiii!” Rồi Maiza cùng Firo đồng loạt hô “A!” và số còn lại đều ngầm định rằng họ có quen cặp đôi này...và cuối cùng chuyện thành ra như trên. Một điểm cần chú ý nữa là, chỉ cần viên đạn đi lệch hướng một chút thôi, nó đã có thể giết chết một trong hai người họ, thế nên không một ủy viên nào dám phản đối việc đãi rượu cho họ hết.
“...Ai mà ngờ rằng cái cặp đôi ở cửa hàng mũ lại đến đây được cơ chứ...?”
“Trên đời đúng là lắm sự trùng hợp thật đấy, nhỉ.”
Firo với Maiza đưa mắt nhìn nhau, rồi nở một nụ cười nhăn nhó... Có điều, nếu họ biết được thêm cả những sự trùng hợp xảy ra xung quanh, có lẽ họ sẽ khó mà mỉm cười hay thậm chí là thấy vui nổi.
“Thành thực xin lỗi mấy cô cậu vì chuyện vừa rôi. Tôi không hề biết là cái thùng đó đã bị chuyển đi...”
Molsa cúi gập đầu xuống.
“Hả? À, ừm, không, không, không sao đâu, đừng lo quá lên làm gì! Chỉ là cái mũi giày của tôi thôi. Liếm phát là lành lại ngay ấy mà!”
“...Không, chắc chắn là không đâu.”
Có lẽ là bởi chưa từng được ai lớn tuổi hơn – chứ chưa nói gì đến ai đó với vẻ nghiêm trang như Molsa – xin lỗi bao giờ, nên Isaac nom chừng hơi bối rối. Về phần Miria, cô đã hào hứng bắt đầu nếm thử những món ăn vừa mới được đem ra rồi.
Seina, người chủ quán, cùng Lia Lin-Shan, người nữ hầu, đã tự tay chuẩn bị hầu như mọi món mà họ bưng lên. Hầu hết trong số đó đều tương đối công phu đối với một câu lạc bộ đêm, và bản thân các món cũng rất đa dạng và đầy đủ mọi phong cách, từ pasta kiểu Ý cho đến món áp chảo đậm vị và nhiều dầu kiểu Trung Hoa.
Ngoài những bóng đèn điện ra, trên tường còn có cả những ngọn đèn chạy bằng dầu, và ánh lửa nhạt của chúng thậm chí còn làm cho đồ ăn thêm đẹp mắt hơn.
Món ăn nổi trội nhất trong số đó chính là món vịt quay được đặt ở trung tâm của mỗi bàn. Chúng được rán ngập dầu nguyên con, sau đó được hầm trong mật ong – đặc sản của tiệm – rồi lại được rán thêm lần nữa.
Khi Miria dùng dao chạm thử một con, nó vang lên tiếng răng rắc đầy tinh tế, và mỡ béo khẽ tràn ra từ vết nứt trên lớp da vịt.
“Ôi, ngon thật đấy!”
Nghe thấy lời khen của Miria, Lia nom vẻ rất hài lòng. Hai người phụ nữ mỉm cười như trẻ con, và nó thắp sáng bầu không khí của cả căn phòng.
Đúng lúc ấy, hai ủy viên là Randy với Pezzo xuất hiện.
“Nè, Firo. Cái món rượu vừa rồi ấy... Nó hết chưa?”
“Rồi, bọn tôi chỉ mua một ít thôi.”
“Hừm. Vị cũng mạnh phết đấy. Tôi thích mấy thứ rượu như này.”
“Ban đầu bọn tôi định đến cả mấy chỗ khác để mua thêm cơ, nhưng mà tự nhiên lại gặp phải một đám cháy. Tôi đến đó để xem xét tình hình ra sao, thế nên không có đủ thời gian...”
Firo không đề cập đến chuyện mình đã lang thang khắp nơi để tìm một cô gái. Song sự thật đúng là cậu có đi tọc mạch ở chỗ đám cháy, nên thực chất cậu vẫn chưa nói dối gì cả.
Đột nhiên, vẻ mặt của Randy với Pezzo chợt thay đổi.
“? Có chuyện gì thế?”
“Ừm...à...Không có gì. Phải không, Pezzo?”
“Đ-đừng có nhìn tôi!”
“?”
Giữa lúc hai bọn họ đứng đó, cố gượng một nụ cười, Seina – người đến để mang thêm đồ ăn – lấy lòng bàn tay đập mạnh vào đầu họ.
“Nói thật đấy! Mấy lão vô công rồi nghề các ông lại lảm nhảm cái gì vậy hả?! Nếu muốn uống rượu đến thế, thì uống của chúng tôi đây này! Cả cậu nữa, Firo, cậu cũng tệ hại chả kém. Đi đến tận mấy chỗ đâu đâu chỉ để mua rượu về cho buổi tiệc của chính mình!”
Seina trừng mắt nhìn cậu ta, và Firo hơi cúi đầu.
“À, ừm... Cô Seina... Rượu nào ở đây cũng đều trộn với mật ong cả, cô biết đấy? Mấy sự kiện kiểu này không phải lúc nào cũng có, thế nên cháu muốn uống một cái gì đó...trưởng thành hơn.”
“Ha! Với tôi thì cậu vẫn là thằng nhóc thôi!”
Lắc đầu thật mạnh một cái, cô lại tiếp tục đi lấy thêm đồ ăn.
Tất cả những thức uống có cồn trong tiệm này, kể cả rượu lẫn bia, đều có chứa mật ong, và nó ngọt đến kinh khủng. Mặc dù vẫn có những vị khách thường xuyên đến đây vì hương vị độc đáo của nó hay trình độ nấu nướng của hai người phụ nữ, nhưng không thể phủ nhận rằng câu lạc bộ này kém đắt khách hơn so với những nơi khác.
Kể cả thế, vẫn có hai yếu tố giúp cho Alveare phát đạt với quy mô hiện giờ: thứ nhất là nó được nhà Martillo điều hành trực tiếp và không phải trả tiền bảo kê, và thứ hai là nó không phải trả tiền cho cảnh sát với lực lượng thi hành luật Cấm rượu hay những công tố viên và chính quyền trung ương.
Edward, người phụ trách an ninh của quận này, không chấp nhận hối lộ dưới mọi hình thức, và bản thân anh ta cũng không bao giờ chịu đầu hàng trước sức ép của cấp trên. Nói cách khác, đưa tiền cho anh ta là một hành động vô nghĩa. Tuy nhiên, họ rất giỏi trong khoản phán đoán những đợt rà soát, và cho đến nay vẫn chưa bị tống giam một lần nào cả.
Ở những cơ sở bình thường, những khoản phí như trên có thể lên đến năm trăm đô mỗi tháng. Một trong những đặc quyền của các câu lạc bộ đêm là khả năng vừa kiếm tiền vừa trốn thuế rượu, nhưng cuối cùng thì, lượng thuế mà họ phải trả từ trước luật Cấm rượu vẫn rẻ hơn.
Nếu nghĩ như thế, có thể coi hơn ba vạn câu lạc bộ đêm ở thành phố này cũng đang kẹt trong một vòng xoáy lạ lùng của riêng mình.
Do cuộc Đại khủng hoảng, lượng tiền dành cho tiêu thụ rượu đã giảm đáng kể, và cầu thang xoắn ốc đang quay cuồng như điên. Ở giữa tình thế ấy, được đứng ngoài vòng xoáy đã biến nơi này thành một nơi rất may mắn
Trong câu lạc bộ may mắn đó, cuộc vui của những kẻ ngoài vòng luật pháp vẫn tiếp tục.
“Cơ mà, cháu đúng là cứng cựa ra phết rồi đấy, Firo ạ. Cứ nghĩ đến cảnh cháu hạ Maiza như thế...”
“Không, đấy chỉ là ăn may thôi. Với lại...nếu họ cho phép chúng cháu tấn công cả những chỗ không phải tay nữa, thì thể nào cháu cũng chết ngay.”
“Ừm hưm, tất nhiên rồi! Ta còn đang định hành hạ cháu thêm nhiều nữa cơ, nên là cứ chuẩn bị tinh thần đi nhé!”
“Ự...”
“Nếu là ta thì... Để xem nào. Trước tiên ta sẽ tóm lấy tay cậu ta rồi ném cậu ta qua vai...”
“Nhưng mà đó đâu phải kĩ năng dùng dao.”
“...Ơ? Lọ tiêu đâu mất rồi...”
“Mà này, ông biết cái bàn to đùng ở trong tầng hầm chứ? Làm sao mà người ta đem được nó xuống vậy?”
“Ê, ai đó cho ta mượn lọ tiêu với.”
“Hửm? Firo, không phải chúng ta có mua bốn chai rượu cao cấp à?”
“...Không, chỉ hai thôi.”
“A, Miria, anh cũng muốn ít vịt đó nữa.”
“Được thôi! Đây, nói “Aaaaaa” nào!”
“...Oa, ngon thật đấy. Nhưng vẫn chưa là gì so với em đâu, Miria à.”
“Trời, ai lại đi so sánh vẻ ngoài với đồ ăn chứ?”
“Yaaay! Isaac vừa khen mình kìa!”
“Chậc, không biết mình có nên lẳng mấy người này ra ngoài không nhỉ.”
“Êêêê. Ai đó. Có tiêu không.”
“Hừm. Cháu cũng có thể làm cậu ta mất cảnh giác rồi cho một cú lên gối.”
“Vâng, cơ mà đó cũng có phải kĩ năng dùng dao đâu.”
“Nói thật nhé, cái đất nước này quá lạnh lùng với những người Nhật Bản hay Trung Quốc như bọn ta. Nhất là cái chính sách nhập cư ấy. Trắng trợn coi bọn ta như đám vô lại thế thì thật...”
“Yaguruma này, bác đi hơi xa khỏi chủ đề ban đầu rồi đấy... Bác say rồi à?”
“Hả...? Bàn của cậu cũng không có tiêu luôn?”
“Theo như tôi biết thì, khi họ xây cái nhà này, họ đặt nó vào trong trước khi dựng cái trần.”
“Ông đang nói về cái gì thế?”
“Cái bàn! Cái mà ông vừa hỏi tôi đấy, Pezzo!”
“À, Randy. Randy.”
“Gì thế, Maiza?”
“Hôm nay ông không định làm cái trò đó à? Ông biết chứ... Cái trò găng tay cháy ấy.”
Phụtttt.
“Uây, Randy với Pezzo vừa nhổ rượu khắp ra bàn kìa!”
“Kinh quá đấy!”
“Hự, xin lỗi, xin lỗi... Hôm nay bọn tôi không có hứng lắm...”
“Ê, Ronny. Tiêu đâu hết rồi?”
“Thôi nào, sếp, hết tiêu thì cũng có chết ai đâu.”
Gần như không còn có thể nhận ra ai đang nói chuyện với ai nữa. Đó là một bữa tiệc lộn xộn đến khó tả, và Firo đang cảm thấy vô cùng thích thú.
Kể từ khi được sinh ra, cậu chưa từng cười nhiều. Những người sống quanh cậu ở khu ổ chuột cũng không hay cười mấy... Hay nói cho đúng thì, họ không có đủ thời gian để cười.
Từ khi còn là một đứa trẻ, cậu đã mơ đến cái ngày mình có thể cười rạng rỡ như những người Italia trong sách và trong phim. Giờ đây, giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực.
Cậu ước rằng: Hãy để quãng thời gian này kéo dài mãi.
Cậu biết đó là một điều ước rất ngu ngốc.
Thế nhưng, cậu vẫn thấy may mắn vì có thể ước mong một cách khờ dại như vậy.
-----
Một phía của cầu thang xoắn ốc được thắp sáng rực rỡ.
Như một lẽ dĩ nhiên, mọi thứ ở phía bên kia đều bị bao phủ trong màn đêm đen kịt.
Ba người đàn ông đi xuyên qua bóng tối trong khoảng không ẩn giữa chốn đô thị hối hả.
Sảnh nhạc jazz đã treo biển ĐÓNG CỬA ra ngoài. Thường thì giờ này nó vẫn sẽ tương đối đông đúc, nhưng vì ba vị quản lí đều đã rời đi, nên tối nay nó đành phải ngừng hoạt động.
Khi họ mở cửa ra, bên trong chỉ có một người đàn ông duy nhất.
“À, xin lỗi. Hôm nay chúng tôi đ--”
Một trong ba người kia chặt mạnh tay vào cổ người đàn ông đó.
“Ư...a...---, ---, ---!”
Trong một khoảnh khắc ngắn, không khí trào ra khỏi họng anh ta. Ngay lúc sau, máu đã văng tung tóe.
Tên đàn ông cầm dao nhanh chóng dùng cánh cửa để che thân mình khỏi chỗ máu của nạn nhân.
Khi dòng máu chảy đã dịu bớt, Dallas Genoard lặng lẽ đá người đó sang bên; anh ta đã cố bấu lấy kẻ giết mình. Cái vũng lầy đỏ thẫm hiện lên xung quanh anh ta cứ thế phình ra mãi.
“...Xuống tầng dưới. Trước tiên, tìm xem chúng cất cái hộp ở đâu, hiểu chứ? Xong rồi...phá nát mọi thứ. Chỉ cần không đụng đến cái thùng là được.”
Một con dao nhuốm máu đang nằm trên tay Dallas.
Hai tên đứng sau hắn ta thì giấu súng tiểu liên bên trong áo khoác.
“Ê... Mấy cậu là ai?”
Khi họ xuống tầng dưới, họ thấy bốn thành viên nhà Gandor đang ngồi đợi. Có vẻ như họ đang chơi poker: cả bốn thành viên đều đang ở quanh một chiếc bàn nằm chính giữa.
Dallas trả lời, khuôn mặt vô cảm như không.
“À... Chiều nay chúng tôi có để quên một thứ ở đây, mấy anh thấy đấy. Chúng tôi vừa mới hỏi người ở tầng trên, anh ta bảo chúng tôi xuống hỏi mấy người dưới này...”
“Quên một thứ...? A, ý cậu là cái hộp kia à?”
Người đàn ông đảo mắt sang một cái két nom khá chắc chắn. Cái hộp đang nằm ở ngay trên.
“Phải... Là nó, cái hộp ấy đấy.”
“Xin lỗi, nhưng bọn tôi không biết nó có thực sự là của các cậu hay không. Phiền các cậu đợi Luck quay lại vào ngày mai nhé?”
Thấy anh ta đi xa đến thế, một thành viên khác cũng khẽ lầm bầm.
“Này... Có khi Mike cũng biết về cái hộp đó đấy.”
Mike có lẽ chính là người đàn ông vừa bị rạch họng ở tầng trên.
Khóe môi Dallas cong lên đầy tàn nhẫn. Hắn giơ tay lên, tỏ ý ra hiệu.
Hai tên phía sau hắn ta, cũng với một nụ cười như thế, rút những cỗ máy nghiền nội tạng từ trong áo khoác ra.
Chúng là súng tiểu liên Thompson, thứ mà các băng nhóm thường hay gọi tắt là “súng Tommy.”
Một vụ đột kích. Không thể nào... Ở một cơ sở nhỏ như này ư? Sự ngần ngừ ấy khiến bốn người đàn ông kia chững lại một khắc.
“Tạm biệt nhé, đám vô danh tiểu tốt.”
“...Bọn chó! Chúng mày làm gì với Mike rồi?!”
Trước khi tay của các thành viên Gandor kịp chạm vào súng, những khẩu Tommy đã bắt đầu tóe lửa.
Phát này nối tiếp phát kia, những cỗ máy đánh chữ từ Chicago nã hàng tá những lỗ lên xác của bọn họ.
Cuộc thảm sát chỉ kéo dài đúng vài giây. Tiếng gầm rú vang vọng khắp căn phòng ngầm là quá đủ để hủy diệt ba mạng người, bàn ghế, máy thu thanh, kèm những cái lọ để trên giá.
“Ha, ha, ha... Ha-ha-ha, ha-ha-ha, ha-ha-ha, ha-ha-ha-ha-ha-ha-haaa...ha-ha...Gì đây, có thế thôi á? Chúng mày gọi người khác là lũ rẻ rách thối tha, và đây là tất cả những gì chúng mày có...? Hay thật đấy. Vừa hay lại vừa buồn cười.”
Giữa lúc Dallas đang cười như điên, một lỗ đỏ hiện ra trên trán của hắn.
“...Hả...?”
Mấy viên đạn kia dường như vẫn là chưa đủ để giết chết người thứ tư. Anh ta tồn tại bằng cách dùng ba người còn lại làm lá chắn, và giờ, hai gối quỳ xuống sàn, người đàn ông bắt đầu phản công. Sau khi anh ta xả cạn băng đạn của mình, một trong số ba tên tấn công đã chết ngay tắp lự vì một lỗ ở trên trán, và có vẻ như hai tên kia cũng đã bị nắm thóp hoàn toàn: Chúng co rúm người, tay ôm lấy khẩu Thompson.
Người đàn ông sống sót nhặt lấy khẩu súng của một trong số những đồng chí che chắn cho mình và xả cạn nó vào chúng mà không suy nghĩ. Khi thấy mình đã thổi bay hộp sọ của hai tên còn lại, anh ta hít một hơi dài.
“Cái thá gì đây...?”
Những người vừa mới chơi poker cùng anh ta cách đây một lúc đang nằm rạp trên sàn trước mặt anh ta. Một trong số đó đã mất sạch ngón tay của mình. Dù cho có sống sót trở về, anh ta cũng sẽ mãi không thể chơi bài được nữa.
“Cái thá gì vậy hả?! Con mẹ nó!”
Vừa hét toáng lên, anh ta vừa ném khẩu súng nhặt được vào xác của những kẻ tấn công.
Sau một hồi thở thật sâu, anh ta chậm rãi đứng dậy. Đầu gối anh ta đang run rẩy, và anh ta không thể đi cho vững.
“...Điện thoại... Bây giờ...phải gọi cho Luck...”
Chiếc điện thoại được treo trên bức tường bên phía những kẻ tấn công, vậy nên nó không phải chịu sát thương từ những khẩu súng máy.
“Mình khá chắc là...Luck cùng những người khác đang...ừm...”
Anh ta thấy một bàn tay đặt lên vai mình.
“............”
Nỗi sợ phủ lấy anh ta từ đầu đến chân.
“......Mike...?”
Khi anh ta sợ hãi quay ra đó, một con dao đâm mạnh vào trán anh ta.
“...Đau đấy, thằng khốn.”
Lấy chân đá vào người đàn ông vừa ngã ra sàn, Dallas mừng rỡ nói.
“Chúng ta thực sự đã bất tử. Tuyệt thật đấy... Mình đang cử động... Phải, thật sự đang cử động!”
Vết thương trên trán hắn đã khép miệng hoàn toàn. Không còn vết màu nào nhuốm bẩn bộ đồ của hắn nữa.
-----
“Giờ, có một vấn đề...”
“Phải, một vấn đề!”
“Họ thực sự là người tốt...”
“Phải, rất tốt!”
Isaac cùng Miria đang lang thang vô định giữa phố phường ban đêm. Họ đã ăn cho tới tận khi đầy ứ dạ dày, rồi tạm biệt và rời đi... Song mọi người không những chỉ buồn khi thấy thế, mà còn bảo “Nào, cứ nhận chút quà đi,” rồi cho họ một hũ mật ong to đùng.
“Dám cá là cướp tiền từ những người tử tế như thế sẽ là rất xấu.”
“Chúng ta sẽ thực sự là lũ quái vật!”
Và thế, cặp đôi đi do thám mục tiêu còn lại của mình, nhà Gandor, nhưng...
“A, chắc hẳn đây là tòa nhà đó.”
“Phải, tòa nhà đó!”
“Cơ mà, nó vắng vẻ thật...”
Trong lúc họ quan sát từ cách một quãng, có gì đó chuyển động ở cửa vào.
Ba người đàn ông bước từ trong tòa nhà ra.
Rất nhanh chóng, Isaac với Miria giấu mình, rồi quan sát từ trong bóng đêm.
Ánh sáng từ đèn đường quá yếu, và họ không thể nhận ra được khuôn mặt của từng người đàn ông. Tuy nhiên, hai người có thể khẳng định rằng họ đang mang một cái hộp gì đó như thể nó vô cùng quan trọng vậy. Có vẻ như họ đang đứng trò chuyện quanh cửa vào, và hiện vẫn chưa cho thấy dấu hiệu gì là sắp sửa rời đi.
“Aha... Anh biết thừa trong đấy có gì rồi. Nhất định là tiền bẩn của cái tổ chức đó.”
“Vậy à? Thế thì sao họ lại mang nó đi? Băng này có quan hệ với ai đâu, đúng chứ?”
“Có lẽ là một thứ gì đó khác – tiền hối lộ cho cảnh sát chẳng hạn. Họ còn có thể mang gì ra ngoài vào giữa ban đêm, với tận ba người, và dáng vẻ cẩn trọng như vậy chứ? Chỉ có thể là tiền thôi, phải không?”
“Ra vậy. Isaac, anh quả đúng là thiên tài!”
“Đúng không? ...Nếu thế thì, chúng ta chỉ có thể làm một thứ thôi. Chúng ta sẽ trộm nó.”
“Tại sao?”
“Hôm nay họ đang chuyển tiền đi, em thấy đấy. Nếu chúng ta trộm vào ngày mai, thì trong két sẽ chẳng còn gì cả.”
“Em hiểu rồi! Isaac, anh thông minh quá!”
Một cách âm thầm, bánh xe vận mệnh bắt đầu lăn xuống vòng xoáy.
“Ê, nếu như mang được cái này về...thì mày có nghĩ chúng nó sẽ thực sự trả tiền cho mình không?”
“Ngoài tin bọn nó ra thì cũng đâu còn cách nào nữa.”
“Ừ, nhưng Dallas này... Mày thấy chúng nó giết Scott dễ dàng ra sao rồi đấy. Một khi có được thứ chúng muốn từ tay chúng ta, thì cớ gì chúng lại không khử luôn ta cho rảnh nợ?”
“Quên chuyện thằng Scott đi... Đừng lo. Mấy tên đó muốn thứ rượu này. Đúng chứ?”
“Phải.”
“Trong trường hợp đó, chúng ta chỉ cần chĩa súng vào nó là được. Ta sẽ bảo chúng là chúng không được động vào nó cho tới khi chịu nôn tiền ra.”
“Ra vậy.”
Bọn chúng không hề biết rằng mối đe dọa đấy chỉ là trò trẻ con trước đúng một người: Szilard, kẻ thống trị tối cao.
Trên đường rời đi, chúng bị một cái bóng đen chặn mặt. Đó là một gã đàn ông cao lớn đeo một cái mặt nạ kì dị. Lạ lùng hơn cả là, trên đầu hắn còn có một cái mũ với hai vật hình dao được đính trên trán theo hình chữ V.
“...Mày là ai?”
Dĩ nhiên, ngay cả khi đã có một thân xác không thể bị hủy hoại, Dallas vẫn nom rất hoang mang trước cảnh tượng ấy.
“...Ngay lúc này, hãy cho phép ta được xưng danh là Giáo sư Moriarty! Đúng thế, ta chính là Moriarty! ...Vì một lý do nào đó không rõ, ta đã hồi sinh trở lại từ dưới lòng thác Reichenbach năm xưa.”
Rõ ràng là cậu ta thực sự hâm mộ các tác phẩm của Conan Doyle. Tuy nhiên, Moriarty lại chưa từng nói như thế, và chắc chắn ông ta sẽ không bao giờ mang những thứ quái đản như cái mặt nạ hay cái mũ đó cả.
“Ờm... Bằng chứng là, trong tay ta đang có lọ mật mua từ Holmes, người nuôi ong.”
Cậu ta lôi ra một cái lọ chứa đầy mật vàng. Đó là lọ mật ong được trao làm quà cho cậu ta cách đây một lát.
“...Mày đùa với tụi tao đấy hả?”
“Không được à? ...Ừm, được rồi, cứ gọi là Jack Đồ tể đi.”
“Nhảm vừa thôi!”
“Mấy người đúng là khó chiều thật đấy... Thế thì mấy người thích ai hơn nào? Gã chủ tàn độc của bác Tom? Hay Phù thủy Độc ác trong Phù thủy xứ Oz? ...Có điều ta là đàn ông, nên...”
Đó đều là những vở nhạc kịch nổi tiếng ở Broadway. Biết được cả những thứ lạ lùng như thế, rất có khả năng Isaac được sinh ra trong một gia đình tương đối giàu sang.
“Im ngay! Bọn tao không có thời gian với mấy thằng điên như mày!”
Bọn chúng rút dao ra, định bụng dọa dẫm anh chàng lạ mặt. Đó cũng là lúc sự chú ý của ba tên phét lác hoàn toàn bị chi phối bởi con người đó.
“Thế, còn tôi thì sao?”
Một giọng nói vang đến từ phía sau. Rất nhanh chóng, bọn chúng quay đầu lại.
Ngay lập tức, một thứ gì đó bay thẳng vào mấy tên kia.
“Uây!”
Chúng vội vã quay sang hướng ban nãy, nhưng lại bị Isaac quẳng cho thứ tương tự.
“Mắt taaaaao...a...a-a...aaaa...khụ...”
Chúng vừa mới tắm phải một hỗn hợp bột được làm từ tiêu và vôi. Liều lượng tuy chỉ ngang cỡ một nắm, song sức công phá lên mắt với phổi của ba tên kia vẫn là rất đáng kể. Mở ngoặc đơn, nhờ “mượn” thêm từ bữa tiệc lúc trước, khối lượng tiêu đã gia tăng nhiều hơn chút đỉnh.
Cơn ho sặc sụa nối tiếp đó khiến cho bọn chúng gặp tương đối nhiều rắc rối chỉ để thở. Mặc dù đã nhận được thân xác không thể bị tàn phá, chúng vẫn chưa thể tự giải phóng khỏi cơn đau.
Không thể chịu nổi điều ấy, cả đám bất chấp tình cảnh hiện tại mà hít thật sâu. Cái kết là, bọn chúng lại hít phải đống bột vẫn còn đang lơ lửng trong không khí. Chúng rơi vào một vòng luẩn quẩn khô cằn.
Nhóm của Dallas thậm chí còn không có đủ khả năng để rút vũ khí. Tất cả những gì chúng có thể làm là che miệng với ôm họng và lăn lộn liên hồi.
Chiếm được lợi thế, Isaac cùng Miria bắt lấy cái hộp gỗ và chuồn ngay.
Đến cuối, vẫn không phe nào nhận ra rằng phe kia chính là những người mình đã từng gặp lúc ban ngày.
Ennis chạy. Cô hoàn toàn không biết phải làm gì.
Szilard đã giao một mệnh lệnh cho cô: “Trong trường hợp ba tên kia lén uống thứ rượu ấy, giết chúng.”
Cô đã quan sát suốt nãy giờ ở một chỗ tối cách gần năm chục mét so với hang ổ của nhà Gandor, ngược hướng với Isaac và Miria, nhưng...
Trước tiên chúng bị chặn đường bởi một cái bóng cao lớn, và rồi, khi một cái bóng thấp hơn bao vây từ phía sau, chúng bị dính phải một đòn gọng kìm. Ngay lập tức, Dallas cùng những tên khác có vẻ như đã đột ngột bị khuất phục bởi cơn đau. Hai cái bóng cướp cái hộp khỏi nhóm Dallas, rồi chạy vụt ra tuyến đường chính mà không ngừng lấy một giây.
“Chuyện gì thế này...?”
Liệu cô nên đuổi theo hai kẻ vừa cướp cái hộp ấy, hay nên giúp đỡ cho nhóm của Dallas? Ennis do dự một hồi, nhưng khi nghĩ đến chuyện nhóm Dallas giờ không thể chết được nữa, cô quyết định đi truy lùng cái hộp.
Cô nhảy bật qua Dallas cùng mấy tên khác, những kẻ đang giãy giụa dưới lòng đường, và tự mình lao đến chỗ đường chính.
Khi cô rời khỏi con hẻm và nhìn quanh, thì dù vài cửa sổ vẫn để đèn sáng, trên đường cũng chỉ có dăm ba người. Cô không thấy bất cứ ai đi bên nhau như một cặp đôi.
Ennis nhìn qua lại tầm hai ba lượt, rồi tiếp tục vụt chạy thêm lần nữa, hướng tới con hẻm gần nhất với mình. Tất cả những nơi khác đều cách quá xa con đường cô vừa rời đi. Nếu cặp đôi kia nhanh quá mức, hoặc đã trốn vào được một cửa hàng lân cận, thì cô cũng chẳng thể làm gì nữa, song cô thấy khả năng sau cùng tương đối khó xảy ra: Cô không thấy bất cứ cánh cửa nào mới được mở ra hay đóng lại cả.
Sau một loạt những phán đoán tương tự, cô chạy qua hết hẻm này sang hẻm khác.
Vài phút sau, trong một góc của một trong số đó, cô thấy vài thứ rất lạ.
Chúng bị bỏ lại trên một đống rác rưởi, song chúng còn rất mới – và đắt – so với những đồ cần phải thanh lí.
Dựa trên tình trạng của chúng, có thể thấy chúng chưa nằm đây được lâu.
“Một cái mũ sắt và...mặt nạ?”
Một chiếc áo vét cũng bị cởi ra và thải bỏ bên cạnh chúng.
Tất cả đều hết sức quen thuộc với Ennis. Nghĩ lại thì, sự khác biệt về chiều cao giữa cặp đôi đó cũng rất quen.
“Không thể nào...”
Trong một thoáng, Ennis đã choáng váng trước kết luận vừa đạt được.
Đến nước ấy, cô tạm thời hủy bỏ cuộc truy lùng.
-----
“Cái đéo... Cái đéo, cái đéo, cái đéo mẹ gì đây thế hả?!”
Berga gầm lên trước những mất mát mà anh ta đang phải thấy.
Ba anh em nhà Gandor đã về thẳng nhà sau khi ra ngoài, và ngay giữa đêm ấy, một vài viên cảnh sát xuất hiện.
Khi nghe được những chuyện đã xảy ra và chạy vội tới, họ tìm thấy xác của những người đàn ông đã từng là cấp dưới và đồng chí của họ.
“........................”
Người anh cả lặng lẽ chau mày trước cảnh tượng kinh hoàng kia.
“Là ai...? Ai lại có thể...?”
Nụ cười thường ngày của người em út đã hoàn toàn biến mất.
Berga gào thét dữ dội đến nỗi làm mùi máu như tiêu tan và rung chuyển cả tòa nhà.
“Tao sẽ giết chúng nó... Thằng đéo nào cần biết chúng nó là ai?! Tao sẽ xé tan xác chúng nó!”
Anh ta vừa tuyên bố ý đồ giết người trước mặt tất cả các viên sĩ quan, song không một ai dám chỉ trích anh ta hết.
Tham gia Hako Discord tại
Ủng hộ bản dịch tại