Tháng 11 năm 1930, New York
Bầu trời trong vắt theo kiểu mà người ta hay so sánh với pha lê. Thành phố được bao phủ trong ánh nắng rực rỡ của ban ngày.
Những tòa nhà gạch đỏ và vàng túm tụm vào nhau như thể đang cố gắng che lấp cả thành phố bằng màu sắc. Thế nhưng, những con người len lỏi qua chúng lại không hề thấy chúng o ép gì cả.
Thực chất, đám phương tiện đã bắt đầu lộ diện từ mấy năm gần đây còn khiến người đi đường thấy o ép hơn gấp bội.
Hiện đang là Thời kì cấm rượu. Toàn bộ các dòng chảy xã hội tụ họp lại với nhau, và chính phủ thông qua hàng loạt đạo luật nhằm tạo nên một “đất nước khô ráo.” Hệ quả là, sức hấp dẫn của rượu dần tăng lên, và ngay cả những người chưa từng thưởng thức rượu cũng bắt đầu lui tới các quán rượu bất hợp pháp... Nói cách khác, trớ trêu thay, những nỗ lực ấy chỉ dẫn đến nhiều tội phạm hơn nữa.
Một quầy tạp hóa chất nước nho lên kệ hàng, đi kèm với một lời cảnh báo:
Nếu bạn để mặc thứ này đủ lâu, nó sẽ lên men và trở thành rượu. Hãy uống nó trước khi chuyện đó xảy ra.
Thứ nước nho ấy bay biến khỏi kệ ngay tức khắc. Đó là một thời kì như vậy.
Kỉ nguyên nhạc Jazz đã bước qua thời hoàng kim, và mới năm trước, cuộc Đại khủng hoảng đã tóm được lấy nước Mĩ. Những tòa nhà gạch đỏ phủ đầy thành phố dần trông mờ nhạt đi.
Dẫu vậy, trong bóng tối của thành phố, vẫn có những “nhân vật chính” sở hữu sức mạnh để kiềm chế cơn khủng hoảng. Nhìn chung, họ thường được gọi bằng cái tên “Mafia,” và họ đã đạt đến ngưỡng sức mạnh khủng khiếp nhờ lấy buôn lậu rượu làm bệ đỡ.
Nói cách khác, chính sách cấm rượu của chính phủ là một điều kiện vô cùng thuận lợi, giúp cho họ - kẻ thù của luật pháp - thăng tiến nhanh chóng trên bình diện xã hội.
Vô vàn huyền thoại, lớn có nhỏ có, lan truyền khắp lực lượng bọn họ, trong đó nổi bật nhất là Al Capone và Lucky Luciano. Đấy chính là tình hình năm 1930.
-----
Huyền thoại của họ luôn bắt đầu trong những con hẻm khuất.
“Còn tiền thừa không? Còn tiền thừa không?”
Lối thoát khẩn cấp của một ngân hàng. Nằm giữa những tòa nhà chen chúc. Nơi mà các nhà hàng ném đồ thừa... Lạ lùng thay, miễn là ở đâu đó có một con hẻm chật chội, u ám, thì tất cả những nơi khác đều ổn cả. Không cần biết nơi đấy đông đúc hay gần như không một bóng người. Dĩ nhiên, thời gian và thời tiết cũng chẳng liên quan gì hết.
“Cậu có thể cứu ông già khốn khổ này chỉ với một chút tình người thôi đấy.”
Giọng nói của một người ăn xin vang lên từ phía sau tiệm bán mũ. Giọng nói ấy, vang vọng khắp con hẻm, có lẽ thực sự là căn nguyên của mọi sự.
Bất cứ khi nào có người đi qua hẻm, một người đàn ông trung niên ăn vận tồi tàn sẽ quấy rầy họ, miệt mài hỏi xin mấy đồng tiền thừa. Khi họ bước ra tuyến đường chính, ông ta sẽ bỏ cuộc và quay lại nơi ông ta bắt đầu... Một vòng luẩn quẩn mãi không dứt.
“Chúa trời sẽ chứng giám cho hành động của cậu. Sẽ không tốn nhiều thời gian để ngài ấy ban phước cho...”
“Ý tôi đang muốn nói ở đây là--”
Đột nhiên, vòng luẩn quẩn bị phá vỡ.
Chàng trai vừa mới nói chuyện với gã ăn mày... Cõ lẽ bây giờ gọi cậu ta là một chàng trai thì vẫn không sao. Cậu ta bất chợt dừng lại, quay mặt về phía người đàn ông râu ria đang định làm phiền cậu ta.
“Sao ông lại lôi Chúa ra ở một chỗ như này cơ chứ?”
Cả tông giọng lẫn thái độ của cậu ta đều không hề ăn khớp với tuổi. Trước câu hỏi bất ngờ ấy, gã ăn mày không khỏi khó hiểu.
“Ý cậu là sao, thưa cậu?”
“Ông có phải một tín đồ ngoan đạo không? Ông đã bao giờ đi cầu nguyện vào ngày Chủ nhật, dù chỉ lấy một lần chưa? Ông có tìm đến nhà thờ trước khi bị mất việc không? Ông có thể kể cho tôi về sự khác biệt giữa Công giáo và Ki tô giáo chứ? Nếu không thì ông không nên cầu viện đến Chúa và quỳ lạy ở một nơi như thế này. Hoặc là đến nhà thờ để giúp các xơ làm việc thiện nguyện, hoặc là chăm chỉ kiếm việc làm đi, hoặc không thì đổ lỗi cho Chúa vì đã đẩy ông vào tình cảnh này và theo Satan giáo ấy.”
Gã ăn mày hoàn toàn bị áp đảo trước lời diễn giảng điềm đạm của chàng trai, song ngay khi cậu kết thúc, gã lại phản đối ầm ĩ.
“Nhưng thưa cậu! Thế còn những khoản đóng góp cho nhà thờ thì sao?! Chúng mượn danh nghĩa của Chúa, và chúng thu về gấp hàng nghìn - không - hàng triệu lần so với một gã ăn mày như tôi!”
“Ngoại trừ việc ông chỉ nghĩ đến túi tiền của mình, và ông thừa hiểu điều đó... Như vậy chỉ có nghĩa là Chúa đã buông bỏ những kẻ chỉ biết nghĩ đến mình như ông thôi. Đại khủng hoảng có thể đã đẩy ông ra đường, nhưng dù thế thì những người đang đứng ngoài đại lộ với tấm biển “Cho tôi việc làm” vẫn còn nghiêm túc với cuộc đời hơn hẳn ông đấy.”
Gã ăn mày cố gắng nặn ra một câu đáp trả, song gã không thể nghĩ ra thứ gì đủ khôn ngoan hết. Ngay cả khi gã ta vẫn còn đang vật lộn để lấy lại vị thế, chàng trai kia vẫn cứ tiếp tục bài giảng của mình.
“Với lại, ngay cả ăn mày cũng có những thủ pháp riêng đấy. Một vài người kiếm sống nhờ nó chọn nổi bật giữa đám đông trong những bộ đồ rách rưới, ngay cả khi bọn họ có tiền. Đôi ba người thậm chí còn tự bẻ gãy tay với răng của mình ra để tạo hiệu ứng. Khi họ van nài, người đi đường sẽ rỏ nước mắt nhiều hơn cả khi thấy người bị thương tật thực sự. So với họ, ông chỉ là một gã tay mơ.”
Đến lúc ấy, chàng trai thoáng ngước lên, rồi rút một cái ví da ra khỏi túi.
“Hả?”
Gã ăn mày không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Dựa trên cuộc hội thoại vừa nãy, đáng lẽ gã ta sẽ không thể nhận được tiền thừa... Thế thì tại sao cái người ở trước mặt gã ta lại phải rút ví?
“--Bình thường thì tôi sẽ không để tâm đến mấy gã nghiệp dư như ông đâu, nhưng mà...”
Cậu ta xòe ra vài đồng xu. Tuy nhiên, ánh mắt của gã ăn mày lại chỉ để tâm tới xấp tiền mặt dày cộm trong ngăn để tiền mặt. Đó là một khoản tiền mà không một ai, nhất là một thiếu niên như cậu ta, nên sở hữu trong thời kì khủng hoảng này. Ngay cả một người trưởng thành với một công việc đứng đắn cũng còn phải làm lụng đến kiệt lực để có nhiều tiền đến vậy. Cái ví ấy dày đến như thế.
“Hôm nay là một ngày trọng đại của tôi, ông thấy rồi đấy, và tôi cũng đang có tâm trạng tốt nữa. Nhận lấy chỗ này, rồi cảm thấy may mắn vì đã nói chuyện với tôi đi.”
Sau một vài khoảnh khắc, khuôn mặt gã ăn mày chợt rúm lại vì hân hoan.
“Ôi, ôiiiiiiiii, cảm ơn cậu nhiều lắm, thưa cậu! Tôi sẽ ghi nhớ ân huệ này cho đến ngày tôi chết!”
“Nah... Tôi đâu cần biết ông có quên hay không chứ, nhanh nhận tiền giùm cái đi.”
Chàng trai thúc giục gã ăn mày, không biết nên làm gì với chỗ xu lẻ đang nằm trên lòng bàn tay.
“Ahhhh, chắc chắn Chúa sẽ ban phước cho hành động của cậu.”
“Nghe này, tôi đã bảo rồi, đừng có giả vờ mình là người ngoan đạo nữa...”
“Tôi biết mà! Nhìn này, tôi có hái được vài bông hoa sáng nay. Đó sẽ là bằng chứng cho lòng tốt mà tôi được nhận từ cậu. Nào, cậu đấy, nhận một bông đi.”
Ngay lúc mới nói xong, thay vì nhận lấy mấy đồng tiền, gã ăn mày bắt đầu lục lọi cái túi giấy bẩn thỉu mà gã cầm trên tay.
“Cơ mà thể nào mấy bông đấy cũng héo luôn rồi.”
“Không, không, tôi chắc chắn Chúa sẽ làm chúng nở thêm lần nữa, thật tươi và thật đẹp.”
Gã ăn mày liếc nhìn bên trong cái túi, khuôn mặt vẫn tràn ngập niềm vui. Và rồi...
“Một bông hỏa đỏ thật to, thật tươi tắn...!”
Tai họa giáng tới ngay khắc tiếp theo.
Một tai họa nhỏ, tàn độc trỗi dậy từ một cái túi giấy.
Một con dao găm mờ sáng chọc thủng cái túi và lao vụt ra ngoài.
“---------!”
Gã ăn mày râu ria thét một câu gì đó không rõ tiếng, khuôn mặt hạnh phúc đến tột độ.
Và ngay trước khi tiếng thét lạ lùng, sung sướng của ông ta kết thúc...
...nó chuyển thành một tiếng thét đau đớn và hãi hùng.
“--Gaaaaaaaaah! Gah! Gwaah... Ah!”
Ngay trước khi lưỡi dao kịp chạm đến da thịt của mình, chàng trai kia đã gạt cánh tay cầm dao sang bên, đồng thời vặn mình một chút. Lưỡi dao đâm thẳng vào không trung, khẽ sượt qua mạng sườn của cậu. Chỉ một thoáng sau, cậu ta đã nắm lấy cánh tay đang vươn ra của kẻ thù, rồi dễ dàng vặn mạnh nó.
Đó là những hành động duy nhất diễn ra trong màn chuyển giao giữa niềm hạnh phúc và nỗi đau.
“Hup.”
Từng chút từng chút một, như thể đang dựa chân vào lưng kẻ tấn công, chàng trai dồn thêm lực vào điểm tựa.
Cậu ta nghe thấy tiếng con dao va vào mặt đường nhưng không hề để tâm.
Tiếng răng rắc dần hiện lên rõ mồn một từ những khớp nối trên tay gã ăn mày.
Song âm thanh ấy lại bị nhấn chìm trong tiếng gào thét của gã.
“Waugh… Aaaaaaaaaaaaaaah! Ah! Kha! Augh! D-D-D-D-D-D-Dừng...!”
Khi thấy ý chí của gã ăn mày đã bị cơn đau chi phối, chàng trai liền đẩy gã vào bức tường gạch màu đỏ. Gã ngã khuỵu xuống cùng với một tiếng thụp nặng nề. Rồi, miệng vừa rên, gã vừa chậm rãi nghiêng mình, lộn một vòng trên mặt đất.
Hướng khóe mắt về phía kẻ tấn công mình, chàng trai nhặt nhạnh mấy đồng xu rơi xuống vì vụ ẩu đả ngắn ngủi ban nãy.
Rồi khi cậu thấy gã ăn mày không còn di chuyển nữa:
“Thôi nào. Dậy đi.”
Nắm lấy cánh tay gã ta với vẻ cảnh giác nhất định - kẻ hành hung cậu có khổ người to gấp đôi cậu - chàng trai lôi gã đứng lên. Rồi cậu dựa lưng gã ăn mày vào bức tường gạch.
“Lỗi lầm của ông đã buộc tôi phải ngăn ông lại. Tôi không phải là một con chiên ngoan đạo. Không may thay, tôi không giàu đức hi sinh đến độ đứng đó và để ông đâm được.”
Miệng thở khò khè, hai vai nhấp nhô, gã ta mặc kệ lời mỉa mai của cậu. Gã nhanh chóng nhìn lảng đi, chỉ cử động mỗi đôi mắt. Ngay cả trong hoàn cảnh này, gã dường như vẫn đang tìm đường thoát.
“Ông muốn chạy à? Đừng vội chứ.”
Xòe mấy đồng xu vừa mới nhặt ra, chàng trai giơ lòng bàn tay ngay dưới chóp mũi của gã.
“Tôi đã bảo gì nào? Cảm thấy bản thân may mắn...”
Cậu ta nắm bàn tay ấy lại thật chặt, bóp mạnh mấy đồng xu bên trong.
“...Tỏ ra biết ơn rồi nhận tiền đi.”
Không có dấu hiệu gì cho thấy cậu đã phải vung tay nhiều. Tuy nhiên, cú đấm mà cậu tung ra vẫn đủ sức làm gãy răng cửa của gã vô lại kia.
“--!”
Áp lực từ cú đấm đẩy phần gáy của gã ăn mày vào bờ tường. Cú này, cùng với cơn đau ở chỗ răng cửa, gợi lên một tiếng thét không lời, và rồi--hắn trượt xuống, từ từ...chà lưng vào bức tường...cuối cùng là nằm thành một đống trên mặt đất.
Không như lần trước, gã đã hoàn toàn mất đi ý thức, thế nên gã cũng không còn lăn lộn qua lại.
Một cách chậm rãi, chàng trai thả lỏng nắm đấm của mình. Những đồng xu rơi ra từ đó, đồng này nối tiếp đồng kia. Chúng rơi lả tả lên mặt gã, cái bản mặt dính đầy máu tứa ra từ mũi với mồm. Khuôn miệng gã khẽ mở, ướt át, và một vài đồng tiền rơi vào trong. Tiếng kim loại khô khốc của những đồng rơi xuống vệ đường tan dần vào trong bầu không khí tàn tạ của con hẻm khuất.
“...Hửm?”
Đánh mắt nhìn qua, cậu thấy con dao ban nãy đang nằm trên đường, cách chỗ cậu vài bước. Mẫu dao này khá phổ biến, và bản thân nó cũng không có nhiều giá trị.
Chắc là mình nên ném cái này xuống sông...
Chàng trai ngoảnh ra sau một lúc. Gã ăn mày chắc chắn đã bất tỉnh. Dẫu vậy, chỉ để đảm bảo an toàn, cậu vẫn quyết định lấy món vũ khí đó.
Ngay trước khi cậu kịp vươn tới món đồ rẻ tiền kia, có ai đó chợt đọc tên cậu.
“Firo Prochainezo. Đứng lại đó.”
Lặng lẽ rút bàn tay đã suýt nữa thì chạm phải con dao về phía mình, chàng trai - Firo - đảo mắt về phía giọng nói đó...về phía lối vào con hẻm...và ánh sáng đường phố.
Cậu nhìn thấy một người đàn ông trẻ đứng ngay trước thứ ánh sáng ấy. Người này nhiều khả năng là đang ở cái tuổi xấp xỉ hai lăm. Ở trên bộ vét nâu, anh ta mặc một cái áo choàng đen kéo dài tới tận mắt cá.
“Nộp tang vật ra đây.”
Ném ánh mắt khó chịu về phía Firo, người đàn ông chậm rãi nhặt lấy con dao bằng đôi bàn tay đeo găng trắng.
“Edward... Có chuyện gì vậy?”
“Là ‘Ngài Edward.’ Thưa gửi người có chức vụ cho tử tế vào...thằng nhóc. Hoặc cậu cũng có thể gọi tôi là ‘Trợ lí thanh tra Edward,’ nếu cậu muốn.”
Miệng mỉm cười ngạo mạn, người đàn ông mặc áo choàng đen - Trợ lí thanh tra Edward Noah - lặng lẽ giơ tay phải lên.
Ngay lập tức, một vài người xuất hiện phía sau anh ta...và bắt đầu thu thập cái túi giấy bị rách, mấy đồng tiền xu nằm rải rác, và gã ngu độn đang nằm bất tỉnh, lần lượt từng thứ một. Không một ai để tâm đến sự hiện diện của Firo. Tất cả bọn họ đều cao hơn cậu một cái đầu, khiến cho cậu không tài nào lọt nổi vào tầm mắt.
“Này, cẩn thận đấy. Đừng có vô tình đè bẹp cái thằng kia.”
Mặc kệ trò đùa vụng về của sếp mình trôi đi mà không nói lấy nửa câu, đám cảnh sát tiếp tục âm thầm làm việc
“...Hừm. Chả biết hòa đồng gì cả.”
“Giải thích chuyện này đi, Ed--...Ngài Edward. Anh đang làm tôi trông như thằng ngốc đấy.”
Firo, người giữ im lặng suốt nãy giờ, lặng lẽ lên tiếng.
Phần lớn các tang vật đã bị mang đi, và những người đàn ông mà ban nãy còn siêng năng làm việc cũng đã biến mất. Dấu vết duy nhất của vụ việc vừa rồi chỉ còn mỗi vệt máu mà gã ăn mày để lại.
Edward trả lời Firo mà không buồn quay đầu lại, hay thậm chí là liếc ra sau.
“Đúng, cậu không phải một thằng ngốc. Một thằng cặn bã, phải, và một con rận của thành phố, nhưng một thằng ngốc thì không.”
“Đừng có né tránh câu hỏi.”
Một chút bực bội len lỏi vào trong giọng nói của Firo. Với một nụ cười khinh bỉ trước cơn bực bội ấy, Edward dựa lưng vào bức tường và châm xì gà.
“Thôi nào, nhớ cho kĩ đi chứ. Cái thằng khốn mà cậu vừa mới đánh gục ấy... Bọn tôi để mắt đến hắn cũng được ít lâu rồi. Hắn là một nghi phạm.”
“Nghi phạm vì tội gì?”
“Giết người. Chúng tôi nghĩ hắn sử dụng phương pháp mà hắn đã dùng lên cậu. Hắn giả vờ làm một kẻ ăn mày trong một con hẻm khuất, kiểm tra quần áo - hoặc ví tiền - của những quý ông hoặc quý bà đa cảm, và nếu họ có vẻ như là đáng để liều lĩnh, thì hắn sẽ đâm họ bằng một con dao giấu trong một cái túi giấy... Kiểu như vậy. Mặc dù mãi gần đây bọn tôi mới biết đến cái túi giấy.”
“Sao mấy anh lại để cho một tên như vậy lảng vảng ở đây?”
“Chúng tôi có lời khai của nhân chứng, song lại không có bằng chứng xác thực nào cả. Chúng tôi đang định đẩy nhanh tiến độ bằng cách dùng một cảnh sát làm mồi nhử và bắt hắn tận tay.”
Edward nhả một hơi xì gà thật mạnh.
“...Và rồi tôi xuất hiện?”
“Đúng thế. Thẳng thắn mà nói, nếu người vướng vào không phải là cậu, thì chúng tôi đã cử người đến và đảm bảo cậu được an toàn rồi, nhưng...”
“Vậy tức là anh đã quan sát tất cả ngay từ đầu. Quả là một sở thích thú vị đấy. Anh đứng xem một vụ ẩu đả mà ai đó có thể sẽ bị giết như một trận đấm bốc thôi ư? ...Dám cá là anh ăn gần hết chỗ bỏng ngô của mình rồi, phải chứ?”
“Và bởi chúng tôi đã đồng ý, nên chúng tôi cũng làm ngơ luôn hành vi lạm dụng bạo lực của cậu đấy.”
“Tôi biết ơn đến nỗi không ngừng khóc nổi luôn này.”
“Về mặt cá nhân thì tôi chả quan tâm chút nào nếu cậu bị đâm rồi lăn ra chết đâu, nhưng mà... Cú né vừa rồi được phết đấy.”
“Khi có người ăn mày ở trong một chỗ hẻo lánh như thế, tôi nhất định phải giữ cảnh giác rồi. Đã thế lại còn cái túi giấy đáng nghi rành rành nữa... Cũng may là trong đấy không có khẩu súng nào.”
“Ô hô? Thế thì sao cậu không kệ hắn luôn đi?”
Anh ta đưa ra một câu hỏi rất bình thường.
“Hôm nay tôi không muốn thế. Nếu hắn chỉ là một gã ăn mày, thì tôi cũng định cho hắn mấy xu... Này, cơ mà sao anh lại có vẻ là đang muốn gây gổ với tôi thế?”
“Còn nhớ những gì tôi nói chứ? Hung thủ chỉ nhắm đến những kẻ có nhiều tiền trong người. Hắn chỉ ra tay với những mục tiêu đáng để hắn đánh đổi những rủi ro khi đâm một ai đó giữa ban ngày ban mặt rồi bỏ trốn. Cậu thấy đấy, tôi không thể nào tin được rằng một thằng nhóc chưa đến hai mươi tuổi lại có thể có một khoản tiền như thế...”
Đó là một cách mỉa mai: Edward thừa biết là cậu có nó.
“...Thế, thì sao? Anh định bắt tôi vì tội trộm cắp hay trốn thuế à?”
Một tia sáng sắc lẻm lướt qua đôi mắt của Firo.
“Ha! Cậu đùa tôi à? Ai lại phải đi rào trước đón sau với một thằng rẻ rách như cậu chứ? Ngay cả khi cậu có trực thuộc đầu não của cái ‘tổ chức’ đấy đi chăng nữa, thì cái bộ đồ nhu nhược đấy cũng chả là gì ngoài mồi câu cho kẻ khác đâu! Lí do duy nhất mà nó vẫn còn ở bên cậu là bởi nó tởm lợm đến nỗi không ai thèm nhìn vào nó hết!”
“--Một lời nữa, và tôi sẽ coi là anh đang sỉ nhục tôi.”
Trong lúc chàng trai đang tự hỏi nên làm gì để xử lí người đàn ông kia, ai đó lại gọi tên cậu một lần nữa. Giọng nói này hiền lành và bình thản, đối lập hoàn toàn với giọng của Edward.
“Cậu đây rồi, Firo.”
Một người đàn ông cao ráo, ôn hòa với cặp kính trên sống mũi đang đứng ở chỗ giao với tuyến đường chính, cũng là cái chỗ mà mới Edward xuất hiện cách đây một lúc. Giữa cơn lũ ánh sáng đổ dồn vào từ đại lộ, mái tóc nâu nhạt của anh ta tỏa sáng như vàng nguyên chất. Nhìn qua thì có thể đoán anh ta bằng tuổi với Edward, song bầu không khí mơ hồ xung quanh người đàn ông ấy lại khiến mọi người khó xác định tuổi thật của anh ta.
“Chúng ta đã hẹn là sẽ gặp nhau ở cửa hàng mũ này, đúng chứ? Nhưng mà cậu không tới. Tôi có lo một chút, và rồi tôi nghe thấy giọng cậu ở đây...”
Mặc dù không ai biết anh ta đang vui mừng vì điều gì, anh ta vẫn nở một nụ cười tươi tắn đến đáng kinh ngạc.
Tuy nhiên, trước biểu cảm chân thành quá đỗi ấy, nụ cười kiêu ngạo của Edward đã bay biến hoàn toàn.
“Anh là...”
“Maiza! À...Em xin lỗi. Em bị vướng vào một chút vấn đề...”
Thái độ của Firo chợt quay ngoặt sang hướng đối diện so với lúc đối đáp với Edward, vị trợ lí thanh tra. Cậu vội vã chỉnh lại cổ áo và đứng thẳng dậy, dẹp bỏ điệu gù lưng ban nãy.
Ở phía bên kia, Edward trưng ra một cái nhìn cau có và dụi điếu xì gà lên bức tường.
“Maiza Avaro. Chà chà chà. Rất vinh dự được gặp contaiuolo của nhà Martillo ở một nơi như thế này...”
Vẻ căng thẳng phảng phất trong giọng nói của Edward. Maiza đáp trả anh ta bằng một nụ cười không phòng bị.
“Ờm... À. Chắc hẳn cậu là Trợ lí thanh tra Edward. Quả nhiên là cậu vẫn hài hước như mọi khi.”
Đó là một cách tương đối mỉa mai để chào hỏi một người vốn đang không có tâm trạng tốt, nhưng có lẽ là bởi người đàn ông kia đang cười tươi, nên Edward không thực sự cảm thấy mình đang bị lôi ra làm mục tiêu châm biếm.
“...Hừm...Cũng được đấy. Không như thằng nhóc kia, ít ra anh cũng biết nên chào hỏi người khác ra sao cho tử tế.”
“Không, không. Tôi không còn có thể gọi cậu là ‘trợ lí thanh tra’ được lâu nữa đâu, cậu biết đấy.”
“......?”
“Tôi nghe nói cậu sẽ trở thành ‘Đặc vụ’ Edward, bắt đầu từ tuần sau.”
Đôi mắt của vị trợ lí thanh tra chợt mở to, và khuôn miệng anh ta mấp máy mấy cái trước khi anh ta trả lời:
“Anh...vừa mới nói cái gì cơ...?”
“Ô, tôi nói sai gì đó à? Cũng tại có người đang đồn đại về chuyện đấy.”
Đôi mắt Edward chợt bùng cháy vì hận thù. Đúng là kể từ tuần sau, anh ta sẽ bắt đầu thực tập tại Cục Điều tra (nơi mà năm năm nữa sẽ được đổi tên thành Cục Điều tra Liên bang... gọi tắt là FBI). Anh ta thậm chí còn chưa nói gì với người yêu hay đồng nghiệp, thế thì tại sao một kẻ đáng lẽ ra không liên quan gì lại biết được chuyện đó?
Cố gắng tìm kiếm vị trí mà thông tin bì rò rỉ, vị trợ lí thanh tra trẻ tuổi hướng ánh nhìn về phía Firo vì quá xấu hổ với chính mình.
“...Dù sao thì, nghe đây, Firo. Tôi không cần biết cậu bố thí tiền của cho ai cả. Sẽ không có ai coi cậu là gì ngoài một thằng lừa bịp hết. Dẹp mấy cái trò vô bổ đấy rồi cút ra khỏi thành phố này hoặc sẵn sàng bị tống vào tù đi.”
Cuộc đối thoại bất chợt chuyển hướng sang cậu ta, và trong một thoáng, Firo không khỏi bối rối. Dẫu vậy, rất nhanh sau đó, cậu đã trả lời như thể đang cảm thấy phiền nhiễu hết sức.
“Làm như tôi quan tâm ấy? Cho dù tôi có định làm màu hay tư lợi cho bản thân, thì người nhận được tiền vẫn chẳng thay đổi. Rốt cuộc là tôi đang làm phiền ai với cái thói lừa bịp tự nhận đấy, hả? Họ đâu rồi?”
“Đừng nghĩ ai cũng sẽ hạnh phúc vì mấy đồng tiền bẩn của cậu.”
“...Điều đó khiến cho việc quyên góp cho các quỹ cộng đồng hay các tổ chức từ thiện thật tuyệt vời, nhỉ? Sẽ không ai có thể phân biệt tiền nào đến từ đâu hết.”
Firo không hề phản đối chuyện tiền bẩn.
“Và cũng không phải là tôi có thói quen phát của bố thí.”
“Lại nữa... Hôm nay cậu bị làm sao vậy?”
Đúng vào lúc Edward hỏi câu đấy, Maiza chợt chen ngang:
“Firo, chúng ta đi thôi... Như vậy được chứ, ngài Trợ lí thanh tra?”
“...Ừm, được...”
“À...Em xin lỗi, Maiza. Em bắt anh phải đợi rồi, nhỉ?”
Hai người họ lục đục rời đi. Vừa quan sát họ rảo bước, vị trợ lí thanh tra trẻ tuổi vừa nghĩ ngợi.
Một thành viên đang lên trong một tổ chức và một trong số những ủy viên của nó. Một ngày đặc biệt.
Có gì đó chợt vỡ ra trong đầu vị thám tử ấy, và anh ta gọi với lại chàng trai kia.
“Firo, đừng nói với tôi là cậu...”
Chàng trai kia dừng lại. Lưng cậu vẫn đang ở thế đối diện với anh ta.
“Đừng nói với tôi là... Một ủy viên? ...Bọn họ tính thăng chức cho cậu ư? Cậu? Thành một ủy viên?”
Anh ta vừa hỏi vừa nhíu mày, tựa như đang hồ nghi chính lời mình nói.
Edward đã sống ở thành phố này được một thời gian dài. Anh ta thừa nhận rằng Firo là một thành viên có năng lực trong tổ chức, song cậu vẫn còn quá trẻ để có thể được phong làm ủy viên. “Chàng trai” đó sẽ phải mất đến một năm rưỡi nữa để chạm đến tuổi hai mươi, và khuôn mặt cậu còn trẻ hơn thế tới tận ba bốn tuổi. Ý tưởng cậu thiếu niên ấy được phong làm ủy viên, thậm chí là của một tổ chức ngầm nho nhỏ - không, không một tổ chức nào, ngay cả những tổ chức hợp pháp - chỉ đơn thuần là không thể tưởng tượng nổi.
Dẫu vậy, anh ta cũng từng nghe nói đến một nghi thức đặc biệt đi kèm với việc thăng chức. Firo vừa mới nói là cậu chuẩn bị gặp một ủy viên - người mà theo luật thì sẽ không bao giờ được cho phép có người yết kiến - ở một cửa hàng mũ... Anh ta biết là trong “ngày đặc biệt,” một nhân vật trung tâm trong tổ chức của Firo sẽ luôn ghé thăm một người bán mũ hoặc một thợ may. Chỉ biết mỗi điều đó thôi thì sẽ không dẫn Edward đến đâu cả, song đó là một cách hay để phán đoán.
“Này, có thật là vậy chứ?”
Chàng trai không trả lời. Cậu cũng không chối bỏ điều ấy. Không nói một lời, cậu lẳng lặng bước tiếp.
Edward coi thái độ đó như một lời thừa nhận. Với một nụ cười thất kinh, nụ cười mà anh ta luôn thể hiện khi nghe được một câu chuyện hoang đường ở quán rượu, anh ta hùng hổ nói tiếp.
“Thật ư? Họ thật sự định phong cậu làm ủy viên cơ á? Cậu? Một thằng nhãi con như cậu? Cậu đang lừa tôi đấy phải không? Thôi nào... Mau nói cho tôi là tôi sai rồi đi. Tôi sắp sửa cười phát điên lên rồi đấy. Tổ chức của cậu thiếu người đến mức đấy cơ à?”
Hai người kia mặc kệ anh ta và rời khỏi con hẻm. Điều đó không làm Edward bận tâm. Anh ta tiếp tục cười ngặt nghẽo.
“Hoặc là, cậu biết đấy, tôi luôn nghĩ khuôn mặt của cậu có phần quá nữ tính... Cậu đã phải quan hệ với bao nhiêu ủy viên để đạt đến tầm cao như vậy thế, hả?”
Hai người kia lặng lẽ dừng lại.
Firo tự hỏi liệu có nên đáp trả hay không. Suy nghĩ của cậu hướng tới con dao giắt bên hông quần.
“Ngài Trợ lí thanh tra.”
Tuy nhiên, Maiza mới là người hành động trước.
Vẫn nở nụ cười dịu dàng trên môi, anh ta nhìn thẳng vào mặt vị trợ lí thanh tra và nói:
“Nếu anh đi xa hơn nữa, chúng tôi sẽ coi đó là một lời sỉ nhục.”
Biểu cảm của Edward chợt đông cứng. Lời chế nhạo của anh ta trôi ngược vào cuống họng.
Nụ cười của Maiza rất đơn giản và chân thành, và giọng nói của anh cũng không hề có gì khác biệt với lúc trước.
Tuy nhiên, vị trợ lí thanh tra tội nghiệp lại nhận ra một điều.
Mình sẽ chết.
Chỉ cần anh ta nói thêm một từ nữa về “tổ chức” hay Firo thôi, người đàn ông kia sẽ giết anh ta. Sự lạnh lùng âm hưởng sâu trong giọng nói ấy buộc anh ta phải tin là như vậy.
Đôi mắt anh ta là thứ truyền tải mọi suy nghĩ. Chúng gieo rắc vào vị trợ lí một nỗi sợ không tên, cứ như thể một thứ gì đó nằm ngoài tầm hiểu biết đang âm thầm len lỏi tới tận cùng...
Trong lúc Edward khép chặt miệng, nhận ra là mình vừa mới chảy mồ hôi lạnh đầm đìa, Maiza đặt một tay lên vai Firo và nói tiếp:
“...Phải, tổ chức của chúng tôi có thể chỉ tồn tại để bị nuốt chửng...”
Anh ta tạm ngưng một hồi.
“...nhưng mà nhớ cẩn thận kẻo nuốt phải độc đấy.”
Thằng khốn. Vậy ra là hắn nghe lén.
Edward nghĩ về điều đó nhưng lại không thể biến nó thành lời. Mồ hôi lạnh bắt đầu túa ra đến tận lưng anh ta.
Firo vẫn đang trừng mắt nhìn vị trợ lí. Vỗ vai bạn đồng hành của mình hai cái, Maiza bước ra đại lộ như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Tựa như bị cuốn vào hành động ấy, đôi chân của Firo cũng chuyển hướng sang phía đại lộ.
“...Nhớ... Hãy nhớ đấy... Cho dù mấy người có giết tôi, tôi cũng sẽ không bao giờ chấp nhận lũ Mafia rác rưởi như mấy người... Một ngày nào đó...nhất định tôi sẽ quét tan băng của mấy người...! Tôi thề đấy!”
Ở phía sau, hai người họ nghe thấy giọng nói nghèn nghẹn của vị trợ lí thanh tra.
“À. Bọn tôi không phải Mafia.”
Vẫy nhẹ một tay, Maiza trả lời mà không buồn quay đầu lại.
Firo đi theo anh ta, và bọn họ tan biến vào biển người.
“Bọn tôi là...Camorra.”
Trong con hẻm mờ tối, khi hai người họ đã rời đi, nắm đấm của vị trợ lí chợt run rẩy.
“Ừm... Ngài Trợ lí thanh tra, chúng ta nên về sở thôi.”
Đúng lúc ấy, một viên cảnh sát vừa mới tham gia thu thập chứng cứ cách đây một phút quay trở lại.
“...Thế mấy cậu ở đâu?”
“Ờm...à...chúng tôi đợi ở trong xe, nhưng vì ngài không tới, nên...”
“Đừng có nói cái kiểu đấy! Các cậu không dám xuất hiện cho tới tận bây giờ chỉ là bởi các cậu sợ cái thằng contaiuolo đấy thôi!”
“T-thưa ngài, không phải vậy...”
Khuôn mặt viên cảnh sát tái đi, ngầm báo hiệu cho vị trợ lí thanh tra biết là mình đã đoán đúng.
“Lũ khốn nạn các cậu dám tự gọi mình là cảnh sát ư?! Công việc của chúng ta là gì, hả?! Là bảo vệ luật pháp Hoa Kì và người dân của nó, chính là vậy đấy! Chúng là loại đe dọa cả hai! Chúng ta là cái thá gì nếu sợ hãi cả bọn chúng chứ?!”
Anh ta đá vào bức tường gạch liên hồi bằng đôi giày da gần như mới nguyên.
Lời buộc tội ấy cũng dành cho chính anh ta. Điều đó càng làm anh ta điên tiết hơn nữa.
“Maiza Avaro... Firo Prochainezo... Ta vốn dĩ không ưa chúng, và ta thề là ngày nào đó ta sẽ tiêu diệt chúng bằng chính đôi tay này!”
Nhằm cố gắng trấn an vị trợ lí thanh tra, viên cảnh sát ngu ngốc kia vô tình tung ra một câu đùa thiếu suy nghĩ.
“Nghe giống lời thoại của mafia trong tiểu thuyết thật.”
Chiếc giày khốn khổ của Edward lập tức tung cước vào ống quyển viên thuộc cấp.
-----
“Rõ ràng là chúng ta sắp sửa bị quét tan nhỉ.”
“A, sợ thật đấy. Những người như vậy thực sự rất là ngoan cường... Mặc dù đối với cảnh sát, những người ngoan cường luôn là những người mà ta có thể tin cậy.”
Firo và Maiza nhìn nhau rồi bật cười.
“Chúng ta tin cậy cảnh sát để làm gì cơ chứ?”
Sau khi rời khỏi con hẻm, hai người họ bách bộ giữa Little Italy và Chinatown, hướng đến chỗ cầu Manhattan. Họ đã hẹn nhau ở cửa hàng ban nãy để mua mũ, nhưng vì vụ việc vừa rồi là một dấu hiệu “không lành,” nên họ quyết định tới một nơi khác.
“Nếu như chúng ta định đi đường này, thì tôi biết một cửa hàng hay lắm.”
Theo lời đề nghị của Maiza, cả hai cùng nhau đi bộ gần một giờ đồng hồ.
“Nhạc kịch tuyệt thật đấy, nhỉ...? Theo cậu thì Glinda trong Phù thủy xứ Oz làm gì để kiếm sống suốt quãng đời còn lại?”
Người đàn ông tên Maiza thực sự không hề giống một camorrista.
Anh ta không gây gổ, không cãi cọ, thường xuyên mỉm cười, và lịch sự với tất cả mọi người. Nói chung, anh ta dường như không hề có bất kì đặc điểm nào của một thành viên trong thế giới ngầm. Nếu như anh ta chỉ cư xử như vậy ở ngoài đường, thì ít ra người ta còn có thể giả định là anh ta đang che giấu bản chất thật, nhưng anh ta vẫn như vậy ngay cả trong những buổi họp của tổ chức hoặc khi ra lệnh cho thuộc cấp.
Mỗi khi Camorra và Mafia được đem ra so sánh, Camorra thường xuyên bị coi là có khuynh hướng bạo lực hơn. Tuy nhiên, cái tiếng tăm ấy lại chưa từng biểu hiện dù chỉ một chút trên Maiza.
Nghe đồn anh ta được bổ nhiệm làm contaiuolo bởi anh ta là người giỏi nhất trong khoản đọc viết và tính toán, song chỉ riêng chuyện một người như anh ta gia nhập tổ chức đã hết sức kì quái rồi, chứ chưa nói gì đến trở thành ủy viên. Ít nhất thì Firo cảm thấy như vậy.
Một vài thành viên hạ cấp trong tổ chức thậm chí còn khinh thường Maiza, gọi anh ta là “hèn nhát” và “nhu nhược.” Firo nghĩ anh ta là người tốt, vậy nên cậu luôn đứng về phía anh ta mỗi khi có thể, song không may thay, nếu như người đàn ông ấy lại đang ngẫm nghĩ về Phù thủy xứ Oz, thì chẳng có lời nào từ Firo có thể thuyết phục được họ cả.
“A, đây rồi. Tôi có chút quen thân với cái cửa hàng này.”
Tiệm bán mũ cổ kính ấy nằm trên một tuyến đường lớn song song với cầu Manhattan.
Khi họ bước vào, chủ tiệm liếc nhìn họ một cái nhưng không hề có ý định chào hỏi. Ông ta là một người chủ cực kì thiếu thân thiện so với một cửa hàng nằm ngay quốc lộ chính, nhưng khi nhìn thấy số hàng hóa được trưng bày, thì điều đó chẳng còn quan trọng gì nữa. Cửa hàng tập trung vào mũ và thắt lưng, và hàng hóa bên trong mênh mông đến nỗi Firo phải buột miệng khen thầm.
“Tuyệt vời...”
Mũ được treo trên mọi bức tường. Hay nói đúng hơn, mũ hoàn toàn phủ kín mọi bức tường, đến độ người ngoài khi nhìn vào phải tự hỏi xem liệu phía sau chúng có thực sự tồn tại bức tường nào hay không. Dĩ nhiên, không chỉ có mỗi những bức tường: Mũ cũng được treo thành hàng trên những cái giá chạy dọc trong cửa hàng, và khu vực xung quanh quầy thu ngân treo nhiều đai lưng tới nỗi chúng nom chẳng khác gì giấy dán tường.
“Nơi đây thực sự quá tuyệt vời, lần nào tôi nhìn vào cũng thấy thế... Tôi có nhiệm vụ phải chọn cho cậu chiếc mũ hợp với cậu nhất trong toàn bộ chỗ này, cậu thấy đấy... Tôi xin lỗi, nhưng vụ này có thể sẽ tốn kha khá thời gian.”
“Tất nhiên. Anh không cần phải lo làm gì. Anh muốn bao lâu cũng được. Em sẽ đợi.”
Sau khi cúi đầu một cái thật cung kính, Firo cũng bắt đầu ngắm nhìn những bức tường mũ xung quanh.
Theo luật của Camorra, khi một thành viên được thăng lên chức camorrista - ủy viên - người đó sẽ không được thông báo về chuyện đó cho tới khi diễn ra nghi thức thăng chức. Tuy nhiên, gia đình của họ lại có một đặc điểm khác với các băng Camorra còn lại. Thành viên được chọn sẽ được thông báo vào ngày hôm trước, và vào buổi sáng ngày tổ chức nghi thức, người đó sẽ đến cửa hàng mũ với một ủy viên được chỉ định. Ở đó, ủy viên sẽ chọn một chiếc mũ cho thành viên sắp sửa chung cấp bậc với mình vào tối hôm ấy, một chiếc mũ hợp với người đó nhất có thể.
Hành động này không ẩn chứa ý nghĩa đặc biệt nào cả. Truyền thống được khởi nguồn từ khi Molsa Martillo, thủ lĩnh đương nhiệm của tổ chức, gây dựng lá cờ của gia đình mình tại New York và tặng cho mỗi thành viên đời đầu một chiếc mũ. Tất cả chỉ có vậy.
Dẫu vậy, đối với Firo - người sắp sửa trở thành một ủy viên - chọn mũ chính là một phần của nghi thức, và cậu đang trải qua nó với một tâm trạng phấn khởi nhưng vẫn đôi chút âu lo.
Trong lúc đang thưởng ngoạn cửa hàng mũ cùng Maiza, vụ việc gần đây và vị trợ lí thanh tra cay nghiệt đã hoàn toàn bay biến khỏi tâm trí Firo. Tất cả những gì bên trong đó giờ chỉ còn những suy đoán và linh cảm về buổi lễ sẽ diễn ra vào tối hôm nay.
“Cái này chắc được đấy. Cậu thấy sao?”
Một chiếc mũ nằm gọn trên đầu Firo.
Một chiếc mũ nồi màu xanh ngọc. Đắm mình trong tia sáng phản chiếu từ ngoài cửa vào, màu xanh nhạt của nó nom như đang tỏa sáng. Nó ăn nhập với nước da trắng ngà của chàng trai; cậu nom như thể vừa mới bước ra từ một bức tranh nào đó. Khi cậu bước vào trong khoảng tối, màu xanh lá mạ đột ngột chuyển sậm đi... Sự đối lập với nước da của cậu trở nên rõ mồn một, và nó khiến cậu thêm phần lanh lợi hơn.
“Cái này... Maiza, cái này tuyệt quá! Nó thực sự quá hoàn hảo với em!”
Cậu không chỉ đang tỏ vẻ tôn trọng trước một contaiuolo; cậu thực sự đang cảm thấy rất vui sướng. Cậu nhìn vào chính mình trên chiếc gương lớn của quán, ngỡ như mình vừa mới trở thành một người khác hẳn. Cậu nghĩ mình nên mua một chiếc áo choàng cùng màu với cái mũ kia. Nó chắc hẳn sẽ khiến cậu nổi bật hơn một chút... Không, rất nhiều, song cậu không quan tâm.
Khi chàng trai ngắm nhìn mình trong gương, nụ cười của cậu ngập tràn niềm hạnh phúc. Dựa trên phản ứng ấy, thật khó có thể tưởng tượng ra cậu cách đây hơn một tiếng trước, khi cậu giảng đạo cho tên cướp giả vờ làm ăn mày hoặc tặng cho mặt hắn một cú đấm đầy tàn nhẫn.
Đó là lần đầu tiên Firo trưng ra một bộ mặt như vậy kể từ khi ông trùm cho phép cậu trở thành một phần của gia đình.
Lúc họ mua chiếc mũ nồi, chủ tiệm vẫn cứ im lặng như thế. Miệng không nói nửa lời, ông ta bỏ món hàng vào trong túi, và tiền được chuyền tay theo mức giá ghi trên mác. Ngay cả khi Maiza chào ông ta, ông ta vẫn chỉ tung ra một cái nhìn đầy lạnh lùng.
Dẫu vậy, cả hai vẫn không hề thấy khó chịu vì điều đó, và rời khỏi cửa hàng, vừa đi vừa bàn tán về chuyện thực đơn cho buổi tiệc sau nghi thức nên có những món gì, cũng như ý định mua rượu tại một câu lạc bộ đêm trên đường về.
Trong lúc ra khỏi đó, họ đi ngang qua một cặp đôi đang định vào tiệm.
Chàng trai đằng trước cao hơn cả Maiza, và cậu ta suýt chút nữa là đã đập đầu vào gờ cửa. Cô gái thì thấp hơn một chút so với Firo, và cô đeo vòng ngọc trên cả hai tay cùng mấy cái nhẫn bạc.
Cả hai người họ đều mặc những bộ trang phục hết sức phô trương. Chàng trai mặc một bộ tuxedo kèm theo găng tay da nhuộm đem và không đeo cà vạt. Cô gái mặc váy đen kèm theo vài chiếc đai màu đỏ quấn quanh eo và cổ tay. Đó là một bộ trang phục tương đối bất thường với phụ nữ thời kì ấy, và nó khiến cô trông như phù thủy trong một vở nhạc kịch.
Nói tóm lại, hai người họ nổi bật như hai con cừu đen giữa bầy cừu trắng.
“Whoops! Xin lỗi nhé.”
Vai của họ đụng phải nhau, và Maiza lập tức xin lỗi.
“Này, cẩn thận chứ.”
“Cẩn thận chứ!”
Cô gái bắt chước câu nói của chàng trai ngay sau khi cậu ta lên tiếng.
Không còn gì xảy ra sau đó nữa, nhưng khi nhìn lại cặp đôi kia, những người trông như vừa mới đào thoát khỏi Broadway, Firo chợt nghĩ: Hai người họ đều nom chừng hai mươi tuổi hoặc hơn, cơ mà... Giữa thời điểm như này á? Bộ họ là con nhà giàu à?
Vừa suy đoán mà không hề để tâm đến những gì hiện có trong ví của mình, Firo rời đi.
Ở bên trong cửa hàng, sau khi Maiza và Firo đã đi khuất... Chàng trai mặc tuxedo - Isaac Dian - nói chuyện với cô gái - Miria Harvent - đang đứng ngay cạnh cậu ta.
"Nghe đây, Miria. Một lần nữa, để cho chắc thôi nhé: Không cần biết tình hình có ra sao, đừng có làm gì quá nổi bật.”
“Em biết mà. Em chỉ cần tỏ ra thật lén lút, lén lút như chuột thôi, đúng chứ?”
“Chuẩn luôn. Biết vậy là tốt.”
Sau cuộc hội thoại ấy - một cuộc hội thoại không được thuyết phục lắm, tất cả là vì vẻ ngoài của họ - cặp đôi bắt đầu nhìn một lượt những bức tường treo đầy mũ. Chàng trai có mang theo một cái va li du lịch cỡ lớn, song phục trang của cậu ta chắc chắn không phải là để đi du lịch.
“Lạy Chúa, ở đây có bán đủ thứ luôn này.”
“Muốn mua gì cũng được luôn!”
“Anh đoán là chúng ta có thể dùng mũ để chinh phục thế giới đấy.”
Sau khi tung ra một phép ẩn dụ không thể hiểu nổi, chàng trai nhặt bừa một cái mũ chóp và xoay nó trên đầu ngón tay.
“Chúng ta định mua kiểu mũ gì thế?” Miria hỏi.
“Chà, bắt đầu bằng thứ gì đó đơn giản chắc sẽ là tốt nhất... Hoặc là, không, một thứ gì đó kì quặc có thể sẽ khiến người ta xao nhãng hơn...”
Họ càng đi sâu vào trong cửa hàng mũ, lựa chọn của họ lại càng trải dài thêm gấp bội.
Ở đằng cuối, có thể thấy những dãy mũ rơm, cho dù hiện đang là mùa đông, cũng như những chiếc mũ lông của thổ dân da đỏ, cùng với cả loại mũ ống cao màu đen mà lính cận vệ của hoàng gia Anh hay đội, tất cả đều được trưng bày tại đó.
“...Không biết bán mấy thứ thế này có ổn không nhỉ?”
Isaac đang cầm trên tay một chiếc mũ đồng phục của lực lượng cảnh sát New York. Trong khi đó, Miria đã đội lên đầu một chiếc mũ của quân đội Hoa Kì, và vẻ ngoài của cô, thứ vốn dĩ đã kì lạ sẵn, giờ đã đạt đến cấp độ mà có thể được miêu tả là lập dị tột độ.
“Oa, cái này hay đấy.”
Một món hàng rực rỡ đến choáng váng đang tọa lạc ở giá trên cùng. Chiếc mũ này được làm từ kim loại. Tô điểm cho phần gờ của nó là một thứ gì đó trông như vải thô, đồng thời còn thấy lác đác cả những sợi chỉ vàng. Và ở trên đỉnh của nó, có một màu vàng chói...
“Cái gì đây? Là Boomerang à?”
“Chẳng lẽ chúng mình phải dùng cái này để đánh vào đầu người khác? Chắc là sẽ đau lắm.”
Hai vật thể trông như hai lưỡi dao hình thù kì dị được gắn lên nó theo hình chữ V.
Bên dưới chiếc mũ lạ lùng ấy là một tấm thẻ ghi dòng chữ “Nhật Bản.”
“Aha... Chắc hẳn đây là vương miện của người Nhật.”
“Chắc chắn là vậy rồi. Nó còn sáng lấp lánh nữa cơ mà!”
Mấy cái giá bên dưới chiếc vương miện chứa đầy mặt nạ từ các nền văn minh khác, mũ siêu trộm làm bằng lụa, và những món đồ vượt xa hơn cả đáng nghi vấn.
“......Thế này có kì lạ quá không?”
Miệng mỉm cười rạng rỡ, Miria chen ngang bằng một câu đáng sợ như thể chuyện đó chẳng hệ trọng gì.
“Có lẽ cướp bóc của người ta cũng không phải là tốt!”
“Không sao, cứ mua hết chỗ này là được.”
Cuối cùng, không mảy may để tâm đến lời Miria vừa mới nói, Isaac mang một cái mũ nồi đen và một cái mũ ren dành cho nữ, cộng thêm chiếc vương miện Nhật Bản và một cái mặt nạ gỗ kì quặc, tới quầy thu ngân. Trước mặt người chủ tiệm lớn tuổi là một loạt đồ vật.
Dẫu vậy, chủ tiệm vẫn cứ im lặng như tờ. Ông ta chỉ liếc nhìn chỗ đồ đó, rồi mau mắn viết giá cả của từng mặt hàng và tổng số tiền lên một tờ biên lai.
Trên tờ biên lai là một con số tương đương với hai tháng lương của một nhân viên ngân hàng. Bằng dáng điệu hết sức thong thả, chàng trai tên Isaac rút ra một xấp tiền từ trong va li, nhẩm đếm qua loa một hồi, rồi đưa nó cho chủ cửa hàng.
Cậu ta đưa quá nhiều, và sau tầm một phút, khoảng một tá tờ tiền và một vài đồng xu được trả lại cho cậu ta dưới danh nghĩa tiền thừa.
Rồi cặp đôi này đế thêm một câu hoàn toàn không cần thiết.
“Nghe đây, ông già. Tốt nhất là ông nên quên sạch chuyện bọn tôi ghé qua cửa hàng này đi.”
“Tốt nhất là quên đi.”
Trong một vài trường hợp, chỉ riêng việc nói những thứ như thế - kết hợp với mấy bộ đồ lộ liễu mà họ đang mặc - cũng là quá đủ để hai người họ bị trình báo ngay lập tức. Rõ ràng, đúng như vẻ ngoài của họ, họ không được thông minh cho lắm.
“Nếu ông dám trình báo chúng tôi cho cảnh sát...chúng tôi sẽ, ờm... Chúng ta sẽ làm gì nhỉ?”
Ngay cả khi đã thừa nhận rằng mình là một tên tội phạm, cậu bạn trai mặc tuxedo của Miria vẫn cứ công khai nhờ cô giúp đỡ.
“Ừm...sao không bảo là chúng ta sẽ đánh ông ta? Nếu như anh không nghĩ ra được thứ gì cụ thể hơn nữa...”
“Hiểu rồi. Vậy thì, ông kia! Nếu ông dám trình báo chúng tôi...chúng tôi sẽ đánh ông!”
“Đánh ông!”
Tại thời điểm ấy, hai người họ thậm chí còn tồi tệ hơn cả cách mà họ ăn mặc. Theo nhiều hướng khác nhau.
Không rõ là có để tâm đến mấy câu nói mập mờ của họ hay không, người chủ quán nhìn họ chằm chằm bằng ánh mắt đầy cau có, ngoại trừ đôi mắt ra thì tất cả đều hoàn toàn bất động.
Ngay lập tức, chàng trai và cô gái kia im bặt. Rồi họ hối hả chạy vụt ra khỏi cửa hàng, ôm chặt lấy mấy món đồ mà họ đem đến quầy thu ngân.
Chủ tiệm hướng mắt trở lại tờ báo và quên hết mọi thứ về những vị khách vừa mới ghé qua.
“Haah, haah, haah... B... B-b-b-ban nãy sợ thật đấy.”
“Sợ thật...”
Rời đi trong bộ dạng như thể đang chạy trốn, cặp đôi lao tới một con hẻm gần kề.
“Khốn thật đấy... Cái lão già đó quả là khó ăn thật. Chỉ với một cái nhìn thôi, ông ta đã khiến anh... Ừm... Chà, không, anh không sợ, nhưng mà... Ông ta khiến anh chạy... Không... Đuổi anh đi?”
“Khiến anh phải rút lui.”
“Phải, đúng rồi đấy... Nghĩ đến việc ông ta khiến anh phải rút lui chỉ với một cái nhìn... Dĩ nhiên, em biết đấy--nếu chúng ta chống trả, thì anh có thể sẽ hạ được ông ta, nhưng mà, em thấy đấy, ông ta cũng rất là mạnh, và anh nghĩ là mọi chuyện sẽ rất tệ nếu em vô tình bị thương thôi, Miria.”
“Thật á?”
Miria hỏi, nghe chừng có vẻ đang vui.
“Ừ, thật chứ. Kể từ khi chúng ta bắt đầu chuyến hành trình trộm cắp này, chúng ta đã trộm tổng cộng tám mươi bảy nơi, từ San Francisco cho đến New Jersey, và trong suốt quãng thời gian ấy, đã bao giờ anh đẩy em vào thế nguy hiểm chưa?”
“Khoảng tám mươi bảy lần.”
“............”
“............”
“Đấy, thấy chưa?! Còn chẳng đến một trăm lần nữa là!”
“Anh nói phải! Tuyệt thật đấy!”
Tiếng hò reo của cô dường như vừa vang lên từ tận đáy lòng. Nếu họ hành xử như thế, thì chắc hẳn đã có rất nhiều lúc họ thậm chí còn chẳng nhận ra những mối nguy mà họ vướng vào.
“Đúng thế! Chúng ta sẽ thực hiện phi vụ lớn cuối cùng ở New York này, rồi chúng ta sẽ về Miami nghỉ hưu và sống một đời an nhàn hạnh phúc. Một khi chuyện đó xảy ra, thì hai từ hiểm nguy sẽ không còn liên can gì tới chúng ta nữa!”
“Không còn gì nữa!”
“Hãy mua một ngôi nhà thật lớn. Chúng ta sẽ xây một cái bể bơi, và chúng ta sẽ dành cả ngày để bơi lội ở đó, từ sáng cho đến tối.”
“Cơ mà buổi tối lạnh lắm.”
“Không phải lo. Nếu như chúng ta đặt khoảng mười cái bếp lửa, thì bể bơi sẽ ấm lên ngay.”
“Mười cái bếp lửa! Hay quá, hay quá--ngay cả mấy ông vua Ả Rập cũng không dùng nhiều bếp đến vậy!”
Phải, đêm ở sa mạc đúng là lạnh thật, nhưng... Có một sự ngu ngốc rất chi là đáng chú ý trong câu nói này.
“Rồi chúng ta sẽ lắp một đường ray chạy qua vườn, và ngày nào chúng ta cũng sẽ đi từ nhà ra đến cổng bằng tàu hỏa luôn.”
“Oa! ...Cơ mà như thế thì tốn nhiều tiền vé lắm.”
“Phải. Được thôi, vậy thì khỏi lắp đường ray nữa.”
“Cơ mà vẫn tuyệt thật đấy... Chúng ta thực sự sẽ giàu đến vậy sao?”
“Dĩ nhiên. Miễn là được ở bên em, thì anh thậm chí còn có thể trở thành cả tổng thống! Đó là vua của nước Mĩ - vua đấy. Đúng thế, anh có thể trở thành vua, hoàng hậu, hoặc thậm chí là thằng hề.”
"Hoàng hậu” về cơ bản là bất khả thi.
“Em không hiểu lắm, cơ mà tuyệt thật đấy!”
Trước cả khi họ nhận thức được, hai người họ đã đắm chìm trong vô vàn cảm xúc, và họ bắt đầu ngâm nga một bài nhạc jazz. Con hẻm là sân khấu, và họ nắm lấy đôi bàn tay của nhau, chuẩn bị cất bước nhảy. Hai con người yêu nhau ấy lạc lối trong mơ...
...và rồi bị một chiếc ô tô tông phải.
-----
“--Chúng chết chưa?”
Một giọng nam già cả cất lên từ ghế sau của chiếc xe.
“...Chưa. Chúng ta đi không nhanh lắm. A, họ cử động được rồi. Có vẻ như họ chỉ mất thăng bằng rồi ngã thôi.”
Giọng nói đáp lời từ ghế lái thuộc về một người phụ nữ trẻ.
“Nếu thế thì đi tiếp đi.”
“Rõ, thưa ngài.”
Chiếc xe tăng tốc và bỏ đi như thể chưa hề có gì xảy ra. Sau cùng, khi nó rời khỏi con hẻm và rẽ vào một tuyến đường lớn, vị hành khách lại tiếp tục cuộc trò chuyện:
“...Cẩn thận chút đi. Sao ngươi lại đâm chúng?”
“Tôi rất xin lỗi, thưa ngài. Tôi đã cố tránh, song đột nhiên họ lại bắt đầu nhảy múa ở ngay giữa đường... Tôi đã không phanh kịp lúc.”
Người đàn ông im lặng một hồi. Rồi ông ta nhớ ra là người phụ nữ kia chưa từng thốt ra một lời nói dối ngu ngốc nào hết.
“...Chúng bắt đầu nhảy múa?”
“Vâng. Người đàn ông mặc một bộ tuxedo, và người phụ nữ mặc váy đen, nên...tôi nghĩ là họ đang tập dượt cho một vở kịch.”
“Broadway cách đây tương đối xa đấy.”
“Với lại... Người đàn ông còn cầm vài cái mũ và...một cái nón sắt kiểu Nhật trên tay phải.”
Đúng như dự đoán, người đàn ông lập tức nhíu mày.
“...Thật không thể hiểu nổi giới trẻ ngày nay...”
Không có tiếng đáp trả từ phía ghế lái.
“Hừm... Nói cho đúng thì, ta cũng không còn có thể lĩnh hội được suy nghĩ của giới trẻ từ lâu rồi.”
Ông ta chậm rãi nhắm mắt lại, tiếp tục nói với chính bản thân.
“Phải... Kể từ hai trăm năm trước hoặc hơn... Kể từ khi cái tên đấy hóa thành người mất trí. Đó là lúc ta ngừng tin tưởng bất cứ ai trẻ tuổi hơn nình.”
“...Nếu phải so sánh với ngài Szilard, thì tất cả mọi người trên thế giới này đều trẻ hết.”
Giọng nói từ chỗ ghế lái vang đến tai ông ta. Nó làm gián đoạn cuộc độc thoại, song ông ta vẫn trả lời mà không tỏ vẻ khó chịu gì mấy.
“Dĩ nhiên. Do đó ta không tin ai cả.”
Đó là những lời cuối cùng. Sự im lặng bao bọc lấy bên trong chiếc xe.
Chiếc ô tô màu đen mà người phụ nữ đang lái dừng lại ở trước một tòa nhà nằm ở phía Nam ga Grand Central.
Nhìn một vòng thì có thể thấy tòa cao ốc Empire State, công trình dự kiến sẽ được hoàn thành vào năm sau. Dù vẫn còn đang được thi công, nó đã bắt đầu nhìn xuống thành phố với dáng vẻ đầy oai phong lẫm liệt.
Người tài xế nữ rời khỏi xe trước, rồi mở cánh cửa nằm cạnh ghế sau ra. Chiếc xe thuộc loại vô cùng hiếm hoi ở thời điểm ấy: Phía sau ghế lái còn dư rất nhiều không gian.
Szilard Quates cáu kỉnh bước ra, rồi co bóp khuôn mặt vốn dĩ đã đầy nếp nhăn của mình để nó nhăn nheo hơn nữa. Mặt trời cuối thu, thứ có thể được nhìn thấy qua những hẻm núi giữa các tòa nhà, soi sáng khuôn măt ông ta.
“...Chói quá.”
Người tài xế lập tức bung một cây dù. Nó che phủ hoàn toàn khoảng cách gần năm mét ít ỏi từ chiếc xe đến tòa nhà bằng một bóng đen không lường trước.
Khi họ tiến đến cửa vào, người tài xế dùng bàn tay còn lại cả mình để đút chìa vào lỗ khóa. Trong lúc lặng lẽ chờ đợi cánh cửa mở ra, Szilard thậm chí còn không thèm nhìn cô lấy một lần.
Bên trong tòa nhà chẳng có gì. Phòng ốc được chia ra bằng vách ngăn, song tất cả chỉ có thế. Tòa nhà hoàn toàn không có dấu hiệu của người ở. Tuy nhiên, không ai có thể nói là nó bị bỏ hoang. Trên sàn không hề có mẩu rác nào, và tường với đèn điện trông cũng rất mới, cứ như thể phần nội thất vừa mới được hoàn thành vào hôm qua vậy.
Szilard bước tới một chỗ nằm cạnh cầu thang, rồi dậm lên sàn vài cái bằng gót giày.
Vài giây sau, bóng đèn treo trên thang bộ chợt bừng sáng. Thấy vậy, ông ta dậm lên sàn một đợt nữa, nhiều hơn đợt trước một cú dậm.
Cách ông ta một khoảng ngắn, sàn nhà từ từ nâng lên, và từ đó ló ra cái đầu của một người đàn ông cao tuổi.
“A, chẳng phải ngài Quates đây sao! Đã lâu lắm rồi nhỉ, thưa ngài.”
“Mới có hai mươi năm thôi. Chưa lâu lắm đâu.”
“Ha-ha-ha... Thời gian của ngài với của chúng tôi quả thực khác nhau quá.”
“Thời gian là bất biến. Ta phải thừa nhận là cái khác nằm ở cảm nhận của chúng ta.”
Trong lúc chuyện trò, hai người đàn ông và người phụ nữ bước xuống một cái cầu thang.
Cách đi đứng của ông ta không khác biệt gì so với tuổi. Rồi tất cả đều quây quần trước mặt ông ta.
“A, ngài Quates.”
“Ngài trông khỏe thật đấy, thưa ngài.”
“Ngài không hề thay đổi chút nào...”
“Quả đúng là một thực thể phi phàm...”
Ngay khi thấy Quates, người không hề thay đổi chút nào suốt hai mươi năm qua, khoảng hơn chục người đàn ông đã thốt lên những lời đầy ngưỡng mộ.
Tuổi tác của họ tuy khác nhau, song ngay cả người trẻ nhất cũng đã phải hơn bốn mươi tuổi. Còn về người già nhất...thì có ba người nom như thể đang ngấp nghé tuổi chín mươi.
Người đàn ông đứng ở trung tâm nhìn một lượt những cá nhân làm nên vòng tròn xung quanh mình và chán nảm lên tiếng.
“Ta không thấy Barnes với Stagen.”
Mấy người đàn ông kia nhìn nhau, rồi cúi gằm mặt xuống. Người quản gia hộ tống Szilard xuống dưới đưa tin với vẻ tiếc nuối.
“Ngài Barnes hiện đang ở ‘nhà máy chưng cất.’ Ngài Stagen Heim...thì qua đời từ năm ngoái rồi ạ.”
“Hiểu rồi.”
Quates không có vẻ gì là dao động trước thông tin ấy.
“Chúng ta không thể làm gì với những cái chết do tuổi già. Nếu ông ấy cố được thêm năm nữa, có lẽ ông ấy sẽ được thấy ngày này.”
Không một ai tỏ ý phản đối trước lời tuyên bố rằng nguyên nhân cái chết là do tuổi già.
Họ đều hiểu. Họ biết là mình sẽ không chết vì tai nạn hay bệnh tật.
“Với sản phẩm thất bại, ta đã không thể nào giúp linh hồn của các vị trường tồn... Bởi cái chết bắt đắc kì từ vẫn còn đang ở bên, nỗi sợ lão hóa của các vị chắc hẳn phải rất khủng khiếp. Tuy nhiên, ngay cả điều đó cũng sẽ kết thúc vào hôm nay.”
Một tiếng hoan hô nho nhỏ vang vọng trong căn phòng ngầm.
“...Mặc dù có vẻ như đã có một vài vấn đề nào đó xảy ra.”
Ngay lập tức, tiếng hoan hô bị thay thế bởi sự im lặng.
“Có thật là người pha chế đã chết rồi không?”
Đáp lại câu hỏi của Szilard, người quản gia nhanh nhẹn trả lời:
“V-vâng, thưa ngài... Có vẻ như hắn bị đâm đến chết bởi một tên cướp vào hôm qua...”
“Vậy còn hung thủ thì sao?”
Nghe thấy thế, một người đàn ông khoảng tầm bốn mươi tuổi bước lên và báo cáo thay cho vị quản gia.
“Thưa ngài Szilard. Hung thủ vừa mới bị bắt vào hôm qua trong một chiến dịch mai phục của lực lượng cảnh sát. Nhiều khả năng hắn thực hiện tội ác của mình trong khi giả dạng làm một gã ăn xin... Có vẻ như hắn từng là một tên du côn mang khuynh hướng nghiện ma túy, và hắn ta không trực thuộc một tổ chức nào.”
“Một sự trùng hợp, hửm? Nếu chuyện là như vậy, thì đáng lẽ ta phải thêm--ta không nhớ tên của hắn, nhưng mà--gã pha chế đó vào lực lượng của mình mới phải. Dù có là sản phẩm thất bại hay không, chỉ cần hắn nếm một ngụm cái thứ đó, chắc chắn một tên cướp sẽ là không đủ để giết hắn ta.”
Dường như đang suy nghĩ gì đấy trong đầu, Szilard khẽ chặc lưỡi.
“Xin thứ lỗi, thưa ngài Szilard... Hắn chỉ là một tên đần độn, không biết gì ngoài pha chế và giả kim thuật. Cho phép hắn trở thành đồng chí của chúng ta thì có hơi...”
Vị quản gia rụt rè lên tiếng.
“Ra vậy... Ngươi nói đúng.”
Mặc dù với ta thì ngươi cũng chẳng khác gì.
Szilard thầm cười mỉa đám đàn ông xung quanh ông ta, nhưng ngoài mặt thì ông ta vẫn đồng tình với họ.
“Chúng ta chỉ việc tìm người khác là được. Vấn đề là sản phẩm hoàn chỉnh kia. Chắc hẳn Barnes vẫn đang đảm bảo an toàn cho chúng chứ?”
“Vâng, chúng tôi được nghe là hiện còn khoảng ba tá chai.”
“Tự thân hắn có ổn không?”
“Trên giấy tờ thì chỗ đó chỉ là kho lúa mì, nên không cần phải lo về kẻ đột nhập nào ngoài bọn chuột đâu ạ. Hơn nữa, nếu chúng ta giao nhiệm vụ canh gác cho một ai đó không phải thành viên và kẻ đó phát hiện ra thứ rượu ấy, thì chuyện sẽ rắc rối lắm...”
Thế thì tự đi mà làm đi. Các ngươi chỉ không muốn chịu trách nhiệm nếu có vấn đề nảy sinh thôi chứ gì.
Ngay cả khi trong lòng Szilard chỉ toàn sự khinh miệt, ông ta vẫn đồng ý với viên quản gia. Ông ta ra lệnh cho người phụ nữ đứng sau mình:
“Ennis. Lái xe đón Barnes với thứ rượu kia về.”
“Rõ, thưa ngài.”
Ennis, người tài xế nữ, kính cẩn cúi chào Szilard và mấy người đàn ông, rồi bắt đầu leo lên cầu thang, trên tay là chiếc chìa khóa. Szilard giao thêm một mệnh lệnh nữa từ phía sau.
“Ngoài ra, nếu Barnes động vào dù chỉ một giọt của thứ đó... Đừng ngần ngại làm gì. Cứ giết hắn. Nếu hắn không bảo quản được rượu cho cẩn thận và làm hỏng nó, giết hắn luôn.”
“...Đã rõ.”
Mồ hôi lạnh chảy dọc sống lưng của mấy người đàn ông kia.
Họ không thể chết vì thương tích hay bệnh tật. Miễn là họ không lão hóa, họ vẫn có thể dựa dẫm vào khả năng hồi phục cho dù có ngã xuống hố dung nham.
Tuy nhiên...họ lại có thể bị giết theo một cách cực kì dễ dàng.
Hai cá thể ở trước mặt họ chính là những sinh vật có khả năng diệt trừ họ tận gốc.
Ngược lại, giết chết hai người đó đối với họ là vô vọng.
Một nỗi sợ tột độ mà họ không thể trốn thoát.
Họ có thể sẽ chinh phục được nỗi sợ tuổi già bằng thứ “sản phẩm hoàn chỉnh” vừa mới được chế tạo xong. Thế nhưng, nỗi sợ ở trước mặt họ vẫn sẽ còn đó.
Trừ khi đủ can đảm để đối mặt với lưỡi kiếm tử thần của hai người kia, lựa chọn duy nhất của họ sẽ chỉ có trung thành tuyệt đối.
Trung thành suốt cuộc đời này. Nói cách khác, là mãi mãi.
Một nỗi sợ mà chỉ cái chết mới có thể giải phóng.
Một vòng xoáy mâu thuẫn đến độ khó tả thành lời.
-----
“Nhìn đi, như tôi đã nói, ông mở lọ dầu ra, và ông bôi nó lên một cái găng len, như thế này này. Rồi ông đốt nó bằng một que diêm, và...”
Trong một con hẻm ở East Village, ngọn lửa nhợt nhạt đang bọc lấy bàn tay của một người đàn ông gầy gò.
“Này, thôi ngay đi! Kẻo lại bỏng tay luôn giờ!”
Trái ngược thay, người đàn ông béo lùn đồng hành cùng ông ta lại đang sợ chết khiếp.
“Đã bảo rồi, không sao đâu. Nhìn đi, ông chỉ cần ấn lòng bàn tay vào tường, như thế này này...”
Người đàn ông gầy gò ấn lòng bàn tay vào tường. Mất đi nguồn oxi, ngọn lửa biến mất ngay lập tức.
“Thấy chưa?”
“Oa... Thật luôn này.”
Hai người họ, Randy “Bóng ma” và Pezzo “Thịt viên”, thành viên của gia tộc Martillo, đang thực thi nhiệm vụ chuẩn bị cho bữa tiệc chào mừng sắp sửa diễn ra vào tối hôm ấy.
Họ đã mua quá nhiều dầu, thế nên họ đã mở một lon ra và tự giải khuây bằng một trò chơi tương đối nguy hiểm.
“Hừm, vẫn còn dư nhiều quá. Đáng lẽ chúng ta không nên mở cái này ra.”
“Cơ mà, sau chỗ này thì chúng ta còn phải mua gì nữa?”
“Để xem nào... Có ít trái cây làm tráng miệng thì tốt.”
Cửa hàng rau quả gần nhất là ở đâu? Trong khi Randy cân nhắc đến chuyện đấy, Pezzo mở thêm một lon dầu.
“Ê, Pezzo, ông định làm gì thế?”
“Tôi muốn thử cái trò đốt lửa trên tay mà ông vừa mới làm ấy mà. Ông biết đấy. Có lẽ chúng ta có thể dùng nó làm một màn ảo thuật cũng nên.”
“Cái đồ ngu này! Sao lại phải mở thêm một lon mới?! Tôi vừa mới bảo là trong đây vẫn còn nhiều lắm cơ mà!”
“Có sao đâu? Đằng nào chúng ta chả có thừa cái thứ đấy.”
Cái túi giấy mà Pezzo cầm đang chứa khoảng một tá lon dầu nhiên liệu. Họ không rõ liệu đây có phải một chương trình khuyến mãi hay không, song ở trong đó còn có cả một tá cái mở nắp lon nữa.
“Trời ạ. Quên chuyện dầu diếc đi, chúng ta nên làm gì với cái đống mở nắp lon này chứ? ...Tại ông cả đấy, Randy. Ông mua nhiều quá thể đáng.”
“Biết làm sao được? Khuyến mãi gia tăng theo số lượng sản phẩm chúng ta mua. Cái cuộc khủng hoảng này đáng sợ lắm, nên là chúng ta phải tích trữ khi còn có thể.”
“Ừ, chuẩn đấy, nhưng mà... Nếu như tôi không can ngăn, thì tiền bạc của chúng ta đã biến hết thành dầu rồi.”
Trong lúc Pezzo cười nói, ông ta đổ dầu lên găng tay.
“Randy, đốt cái này giùm tôi, được chứ? Phải cầm đống này thì tôi không tự làm được.”
“Đành vậy...”
Randy quẹt một que diêm. Bởi dầu có lẽ vẫn còn đọng trên găng tay ông ta, ông ta nhanh chóng hẩy tay ra ngay sau khi diêm được thắp.
“Đây.”
Giữa lúc đưa ngọn lửa lại gần chiếc găng tay của ông bạn kia, Randy đột nhiên nhận ra một điều.
Ơ, găng này làm bằng vải...
Song lúc đấy đã là quá trễ. Đốm lửa nhảy chồm tới chiếc găng tay của Pezzo, và nó bùng cháy dữ dội đến nỗi người ta có thể nghe được cả tiếng tach tách vang lên.
“Uây! Thế này hình như hơi quá thì phải?!”
Hoảng hốt trước ngọn lửa lớn ngoài mong đợi của ông ta, Pezzo vội vã dụi tay vào bức tường.
Tuy nhiên, mặc dù lòng bàn tay ông ta đã được cứu, những phần không tiếp xúc với mặt tường vẫn chìm trong ngọn lửa xanh lè, vui vẻ hệt như mọi khi.
“Ê! Nó vẫn không chịu tắt!”
“Aaaaaah! Cái tên đần này! Ông đổ dầu lên cả lưng bàn tay rồi!”
Khi Pezzo đưa tay ra khỏi bức tường, ngọn lửa liền chiếm lại những chỗ vừa mới được dập trong thoáng chốc.
Ông ta hoảng loạn vung vẩy bàn tay, song ngọn lửa không hề có dấu hiệu nguôi bớt. Một lượng kha khá dầu đã ngấm vào trong sợi vải, và tay phải của Pezzo giờ trông như tim bấc của một cây nến lớn. Ông ta liệng cái túi giấy sang bên, và những thứ bên trong mấy cái lon hở nắp rớt tung tóe lên bức tường gỗ màu trắng.
“Con mẹ nó! Nóng phát chết đi được!”
“Bình tĩnh! Bỏ cái găng ra đi!”
Theo tiếng thét của Randy, Pezzo vội vàng tháo găng ra, rồi ném nó đi thật mạnh, bàn tay khua khoắng y như người mất trí.
Ngoại trừ mấy vết phỏng nhẹ trên lưng bàn tay, thì nó cũng không có vẻ gì là nghiêm trọng lắm.
“Ahh... Cứ tưởng tôi sắp sửa phải chết rồi chứ...”
“Lạy Chúa... Tôi thực sự không muốn phải dùng ông làm món chính đâu.”
“Ông nói chuẩn thật đấy.”
“Ha-ha...”
Miệng thở phào nhẹ nhõm, hai người họ bắt đầu nhặt nhạnh mấy lon dầu nằm lăn lóc khắp nơi...
...và đứng trơ ra đó.
Cái găng ban nãy đã hạ cánh ngay xuống đống dầu bị tràn ra...và ngọn lửa không những chỉ dừng lại trong vũng dầu mà còn lan sang cả tòa nhà gỗ nữa. Nếu cần phải chỉ ra một điểm khác, thì màu sắc của ngọn lửa đã chuyển từ xanh nhạt sang đỏ tươi.
Randy nhanh chóng đảo mắt nhìn quanh, nhằm đảm bảo không có nhân chứng nào hết.
Pezzo nhặt cái túi giấy may mắn không bắt phải lửa, và thu gom mấy lon dầu.
Hoàn thành xong màn phối hợp xuất sắc ấy, hai người họ lặng lẽ nhìn nhau, rồi--
--sau khi trao những cái gật đầu đồng loạt và dứt khoát, họ phóng đi như cơn gió khỏi hiện trường mà tội ác xảy ra.
-----
Cuối cùng, cuối cùng thì, điều ước mà ta ấp ủ từ lâu cũng đã đến lúc thành hiện thực.
Sự sống vĩnh cửu. Hồi mới được nghe kể về nó thông qua các huyền thoại và truyện dân gian, ta đã khịt mũi khinh bỉ ý niệm đó, gọi nó là một giấc mơ viển vông và tầm thường. Thế mà giờ đây, mỗi khi nghĩ về nó, ta lại thấy lời nhạo báng ấy nông cạn quá mức, với mục đích buộc ta phải hiểu rằng khao khát của ta...sẽ không thể trở thành hiện thực.
Ngày hôm nay, với thứ “hiện thực” ấy ở ngay trước mắt, ta thậm chí còn có thể hình dung rằng lời nhạo báng ấy chính là nguồn gốc để niềm hạnh phúc này được lập nên.
Một con chuột trắng đang vùng vẫy. Đây chính là hiện thực ta muốn tìm.
Con chuột này là một sản phẩm được tạo thành từ thuật giả kim của ngài Szilard. Để đổi lấy khả năng nhân giống phi thường, sinh vật đoản mệnh ấy sở hửu một linh hồn chỉ tồn tại trong vòng bảy ngày không hơn.
Tuy nhiên, sinh vật ở trước mặt ta đã tồn tại được mười lăm ngày, và, trái ngược thay, không hề biểu hiện bất kì sự phát triển nào kể từ khi được tiếp nhận “rượu” vào ngày thứ ba. Đối với sản phẩm thất bại, sự phát triển vẫn sẽ xảy ra, đồng nghĩa với việc chúng ta đã không thể ngăn chặn sự lão hóa. Trên cơ sở ấy, chúng ta có thể coi thứ rượu này như một sản phẩm thực sự hoàn chỉnh.
Ta lặng lẽ ngắm nhìn con vật nhỏ bé đó, sinh thể vừa mới chuyển hóa thành một thứ thật gớm guốc. Cho dù ta có quan sát bao nhiêu lần đi chăng nữa, khoảnh khắc ngay trước phép màu vẫn thật dài. Khi một người càng chắc chắn rằng phép màu sắp sửa xảy ra, người đó sẽ lại càng thiếu kiên nhẫn vì nó.
Thực tế mà nói, khoảng lặng ấy chỉ kéo dài được tầm hơn chục giây, song với ta, nó như kéo dài hàng giờ... Không, cứ như hàng thập kỉ mà ta đã dành ra để chờ đợi ngày hôm nay vậy.
Những giọt máu văng tung tóe trên mặt bàn bắt đầu run lên, tưởng như từng giọt đều có một ý chí của riêng mình. Ngay cả những giọt máu đã thấm vào bàn cũng trồi hẳn lên, như một con rắn lục bị thu hút bởi ánh sáng. Còn có thể gọi đây là gì ngoài một phép màu?
Không lâu sau, những giọt máu quay trở lại địa điểm ban đầu: cũng chính là địa điểm mà ta giáng cây búa xuống. Là con chuột trắng vừa mới bị hóa thành một đống thịt nhầy nhụa.
Cảm giác cứ như thể ta đang được thấy thời gian đảo chiều. Không, trên chiếc bàn này, ít nhất là trong phạm vi liên quan đến cái chết của con chuột trắng, thời gian chắc chắn đang đổi chiều.
Nếu như dòng chảy của thời gian thay đổi, thì đó đích xác là một phép màu, một hành động chỉ có thể xảy ra dưới tay Chúa trời hoặc quỷ dữ. Và đây chính là ngày mà ta được thêm vào hệ thống của phép màu ấy.
Đúng thế... Nhân vật tối cao đã đưa ta đến với phép màu này cũng đã từng được trải qua nó từ hơn hai trăm năm trước.
Cách đây hai mươi năm, ngài Szilard đã thêm ta - hồi đó còn là một chuyên viên địa ốc - vào nhóm các “thành viên.” Ở thời điểm ấy, ta đã tương đối nổi danh trên lĩnh vực bất động sản và trở thành một kẻ kiêu căng, nhưng giờ nhìn lại, đó cũng chẳng phải một danh hiệu đáng kể gì. Cái tên tuổi tầm thường ấy chỉ đơn thuần là một công cụ mà ta tận dụng để nhận lấy món quà ngày hôm nay.
Một nghị sĩ Hạ viện có quen biết với ta (dĩ nhiên, cũng là một thành viên) đã giới thiệu ta với ngài Szilard, và ban đầu, ta đã không thể nào tin được ngài ấy... Cho tới khi ngài Szilard chặt đứt ngón tay của chính mình.
Khi nhìn thấy nó khôi phục như cũ, mong ước được bất tử lại trỗi dậy bên trong ta.
Rồi cuối cùng, đến một ngày, ta cũng đã được ban tặng rượu. Ngài Szilard khẳng định nó là sản phẩm thất bại, nhưng nhờ có nó, cơ thể của ta giờ đã không thể bị tổn thương. Tuy nhiên, ngoại lệ duy nhất lại là cái chết vì tuổi già. So sánh với thành phẩm hoàn chỉnh, thứ còn chinh phục cả cột mốc ấy, thì quả nhiên là nó vẫn quá thiếu sót.
Sau khi uống thứ sản phẩm thất bại ấy, ta vinh dự được ban tặng vai trò tuyển mộ và giám sát một người pha chế có nhiệm vụ tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Ta sở hữu rất ít kiến thức chuyên môn, và ta băn khoăn không biết tại sao mình lại được chọn, song ngài Szilard đã nói “Ta không thể tin bất cứ ai biết quá nhiều về giả kim thuật được.” Ta không hiểu rõ lí do đấy lắm, nhưng nếu ngài Szilard đã nói thế, thì chắc chắn không thể nào sai được.
Trong suốt hai mươi năm đợi chờ, ta ra lệnh cho người pha chế và sử dụng thành phẩm lên đám chuột bạch thí nghiệm. Trong hỗn hợp nguyên liệu có chứa các chất kịch độc, thế nên không lí gì phải lo người pha chế uống trộm nó. Thực ra, những con chuột tiếp nhận những thứ rượu khác với thành phẩm đều chết ngay lập tức. Hoặc là thế, hoặc, nhờ sản phẩm thất bại, chúng chết vì tuổi già.
Cú đòn mạnh nhất từng giáng lên ta chính là Đạo luật Cấm rượu. Với ta thì đó là một đạo luật được tạo ra bởi một lũ bất tài, và hệ quả là hàng loạt chướng ngại đã được dựng lên trên hành trình của bọn ta. Đúng như cái tên của nó, thứ bất tử dược này sử dụng rượu làm chất xúc tác, tức là bọn ta không thể sở hữu một nhà máy lớn hoặc mua sắm nguyên liệu thô hàng loạt.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, ngay cả sự khốn khó ấy cũng là một kí ức thật đẹp. Đúng như suy đoán của ta, liên tục thay đổi người pha chế sau một khoảng thời gian nhất định chính là phương pháp hiệu quả nhất. Dĩ nhiên, những kẻ mà ta không còn tin dùng nữa đều gặp phải những tai nạn chết người.
Nghĩ rằng bọn ta có thể tiếp tục sử dụng hắn cho đợt sản xuất quy mô lớn sắp tới, cũng như việc ngài Szilard có thể sẽ tuyển mộ hắn ta, ta đã quyết định tạo ra một ngoại lệ cho người pha chế mới nhất - người đã tạo nên sản phẩm hoàn chỉnh - và ban cho hắn một khoản tiền thưởng.
Tuy nhiên, có vẻ như số tiền ấy đã choán hết tâm trí hắn: Nghe nói hắn đã bị một tên nào đó cướp cả tiền lẫn mạng.
Chà, suy cho cùng thì, giá trị của hắn cũng chỉ đến vậy.
Phép màu đã nằm trong tay bọn ta. Tất cả những gì còn lại chỉ là để cho ngài Szilard tận mắt chứng kiến kết quả ấy.
Con chuột trắng, nay đã lấy lại hình dạng ban đầu, bắt đầu vật lộn vì cơn đau đến từ những cái đinh xuyên qua chân nó. Một sinh vật gặm nhấm may mắn biết bao. Đạt được sự bất tử trước cả ta một bước.
Với nỗi ghen tị mơ hồ trong lòng, ta lại vung cây búa lên.
Ngay trước khi những âm thanh ghê rợn chuẩn bị ập tới, ta nghe thấy tiếng va đập trên trần của tầng hầm... Nói cách khác, là trên sàn nhà của căn phòng trên đầu ta. A, đó là tín hiệu từ các thành viên. Ngay lập tức, ta bật công tắc. Làm vậy sẽ thắp sáng những bóng đèn trên tầng trệt.
Một khoảng lặng ngắn trôi qua, và ta nghe thấy tiếng động thêm lần nữa.
Chẳng lẽ cuối cùng ngài Szilard cũng đã đến? Liệu người đàn ông vĩ đại đó sẽ nói gì khi thấy ba tá chai sản phẩm hoàn chỉnh trong căn hầm này? Rồi sau đó, thời khắc mà ta được giải phóng khỏi nỗi sợ tuổi già sẽ nằm gọn trong tầm tay.
Tim đập rộn ràng vì mong chờ, ta leo lên cầu thang và mở trần ra.
Khi khuôn mặt ta trồi lên khỏi tầng hầm, nó lập tức đón phải một luồng gió nóng nực, ngột ngạt.
Cái gì đây?
Khi phát hiện ra nguồn gốc của tiếng động ban nãy, ta chợt thấy kinh hoàng tột độ.
Những cái giá trên tường đang bốc cháy, và những mảnh vụn gỗ rơi đồm độp xuống sàn nhà, hết mảnh này lại đến mảnh khác.
Màu đỏ rực phủ khắp một bên của căn phòng.
Tại sao? Sao chuyện này lại xảy ra ngay lúc này? Sao lại cháy ngay giữa lúc này, mà không phải bất cứ lúc nào khác?!
Ở đây thậm chí còn chẳng có gì dễ bắt lửa!
Rượu... Ta phải mang rượu ra ngoài... Ngay tức khắc, ta đi xuống cầu thang, bước tới cái thùng đựng sản phẩm hoàn chỉnh và nâng lên... Không được! Nó nặng quá, và ta hoàn toàn không thể nào mang toàn bộ chỗ này được!
Chẳng lẽ ngay cả với một cơ thể bất hoại, sức mạnh của ta vẫn không đổi?
Chỉ một lúc nữa thôi... Chỉ một lúc nữa thôi là ta sẽ tiến hóa thành một thực thể phi thường, vậy mà... Trước khi được tiến hóa, ta chỉ là một sinh vật yếu ớt...một sinh vật không tài nào nhấc nổi đúng ba mươi sáu chai rượu?!
Ah------Ai đó------Ai đó làm ơn hãy------Ai cũng được---!
-----
“Này...Maiza, mau ra đây đi!”
Nghe thấy tiếng Firo gọi từ ngoài đường, Maiza ló đầu ra khỏi tiệm rau quả.
“Có chuyện gì thế? ...A!”
Những cột khói đang cuồn cuộn bốc qua phần mái của một cửa hàng phía trước. Nó không ở xa lắm, có lẽ là cách đây khoảng hai con đường.
“Để em ra xem tình hình thế nào.”
“Khoan, đừng tò mò quá. Nếu cảnh sát đến...”
Firo đang mang bên mình một chai rượu lậu vừa mới mua ở một câu lạc bộ đêm. Dĩ nhiên, nó được giấu trong một cái hộp vốn dùng để đựng một mặt hàng khác, nhưng nếu một viên cảnh sát nào đấy - cụ thể là Edward - tìm thấy nó, thì một chuyện kinh khủng chắc chắn sẽ xảy ra.
“Đừng lo. Em không bao giờ vụng về đến thế đâu.”
Firo không có vẻ gì là lo lắng mấy. Để lại cho Maiza một cái vẫy tay, cậu ta chạy vụt đi.
“Ah... Hi vọng cậu ta biết kiềm chế cái thói đấy sau nghi thức...”
Miệng mỉm cười khổ sở, Maiza cũng bắt đầu hướng tới cảnh tượng kia, có điều là đi bộ.
-----
“Không...”
Ngay khi rời khỏi chiếc xe, Ennis đã ngước mắt nhìn đám khói, tự hỏi liệu mình có rẽ sai đường ở đâu đó hay không. Nói đúng hơn, cô mong là như vậy.
Tuy nhiên, trong lúc cô đứng chôn chân tại chỗ, tấm biển hiệu nhỏ trên tầng hai của tòa nhà đang cháy - với dòng chữ BARNES CO. GRANARY - đã dõng dạc cất lên một hiện thực đầy đau buồn. Biểu cảm điềm nhiên thường thấy ở cô khi đối mặt với mấy người đàn ông lớn tuổi kia đã biến mất hoàn toàn. Tình huống này đơn giản là dị thường đến tận mức đấy.
“Sao lại xảy ra chuyện...? Barnes đâu rồi...?”
Người nữ tài xế trẻ tuổi xông vào giữa đám đông để len lên hàng đầu. Tất cả những người bị cô đẩy sang bên đều nhìn cô bằng ánh mắt gay gắt, song ngọn lửa nhanh chóng choán lấy tâm trí họ, và không một ai cằn nhằn đủ nhiều để làm chậm bước chân của cô.
Cô nhìn thấy phía bên trong tòa nhà đang bắt đầu đổ nát. Mặc dù đứng cách đó một quãng, cô vẫn có thể thấy vài cái lỗ đang mở toác ra trên sàn tầng trệt. Nếu sản phẩm hoàn chỉnh được chứa trong hầm, thì dẫu bây giờ cô có lao vào đi chăng nữa...việc thu hồi có lẽ vẫn là bất khả thi.
Không còn hi vọng nào cả. Cô biết báo cáo chuyện này ra sao cho Szilard, chủ nhân của cô? Bản thân cô không hề có một chút trách nhiệm gì với tình hình hiện tại, nhưng dù thế đi nữa, trái tim cô vẫn quá nặng nề. Nhiều khả năng Szilard sẽ không giận điên lên, nhưng chắc chắn ông ta sẽ tỏ vẻ thất vọng. Nhưng thứ còn đau đớn hơn cả thế chính là việc khuôn mặt của những người đàn ông kia sẽ còn tuyệt vọng hơn cô gấp vạn lần.
“...Này. Này cô ơi.”
Cảm thấy một bàn tay đang đặt lên vai mình, Ennis trở về hiện thực bằng một cú giật về sau.
Một chàng trai đang đứng ở ngay phía trước. Có vẻ như cậu ta ngang tuổi với cô, hoặc trẻ hơn đôi chút.
“Cô ổn chứ? Mặt cô tái xanh luôn rồi kìa...”
Giọng điệu của cậu rất trưởng thành và không hề ăn nhập với ngoại hình, song cô có thể khẳng định rằng cậu dường như đang lo cho cô.
Chẳng lẽ cảm xúc của cô lại lộ liễu đến thế? Vội vã lấy lại vẻ điềm nhiên, cô đưa cho chàng trai một câu trả lời cụt lủn.
“À... Không, không có gì. Cảm ơn vì đã quan tâm.”
Và như thế, cô quay gót chạy xuyên qua đám đông, hướng đến phía bên ngoài của vòng tròn những kẻ hiếu kì tụ tập quanh ngọn lửa.
Barnes có lẽ đã trốn thoát, ít nhất là như vậy. Mang trong mình hi vọng ấy, cô nhanh chóng biến mất vào trong một con hẻm, với ý định tìm kiếm trên những tuyến đường khác.
Đó là một cách đáp trả hết sức hờ hững, song với hoàn cảnh hiện giờ, cô chỉ có thể làm thế.
Khi Firo tới chỗ đám cháy, một chiếc ô tô đen cỡ lớn đã đậu ngay bên nó từ lúc nào.
Ban đầu, cậu không khỏi bất ngờ khi thấy người bước ra từ ghế lái là một phụ nữ trẻ. Điểm tiếp theo ở cô - một người nom già hơn cậu một hai tuổi, nhưng có lẽ cả hai đều xêm xêm tuổi nhau - khiến cho cậu phải chú ý chính là bộ đồ cô mặc. Dù là một phụ nữ, cô lại khoác lên mình một bộ vét hai mảnh màu đen, và đôi giày của cô cực kì bền chắc, y hệt loại giày mà binh lính và cảnh sát hay dùng. Đó là một bồ đồ hết sức thiếu nữ tính, nhưng chắc hẳn chất vải của nó rất mềm... Bởi tuy nó là một bộ vét, song nó không có vẻ gì là thô cứng hết. Ngay cả mái tóc cắt ngắn của cô cũng có thể bị coi là cấm kị với phụ nữ thời bấy giờ, thế nhưng... Theo một cách kì lạ nào đó, nó lại hòa hợp với trang phục của cô và thực sự mang đến cho cô một vẻ quyến rũ đến mê hồn.
Firo đã bị cuốn hút, dù chỉ một chút, bởi dáng vẻ đầy nổi loạn ấy.
Không chỉ vậy, mà vì một lí do nào đó, người phụ nữ nom chừng hoảng hốt hơn hẳn mức cần thiết khi thấy ngọn lửa, và cô đã đột ngột lao vào chen lấn qua đám đông để lại gần nó hơn nữa.
Sau khi đến được một địa điểm có tầm nhìn tốt hơn - nói cách khác, là trước mặt những kẻ tò mò kia - một bầu không khí đầy tuyệt vọng, hay nói cho chuẩn thì, một nỗi sầu không thể đong đếm, len lỏi vào trong biểu cảm của cô, và cô cứ như đang chết trân tại chỗ.
Firo cảm thấy mình không thể chỉ đứng nhìn. Cậu tự mình đi xuyên qua đám đông và nói chuyện với cô gái ấy, song đáp lại những nỗ lực của cậu chỉ có mấy lời vừa rồi. Cậu nhìn cô rời đi, trong lòng đôi chút thất vọng, nhưng...
Ơ? Cô ấy không định tới chỗ cái xe...?
Chiếc xe mà người phụ nữ lái tới hiện đang bị bao vây bởi một đám người mới. Tuy nhiên, cô thậm chí còn chẳng buồn nhìn nó lấy một lần. Thay vào đó, cô lao thẳng vào một con hẻm dẫn tới một hướng hoàn toàn khác.
Chắc chắn là có chuyện gì đó đang xảy ra. Firo thấy rất tò mò, và đồng thời, cậu cũng muốn nói chuyện với cô thêm một chút nữa. Nói thẳng ra thì đó chính là “yêu từ cái nhìn đầu tiên.”
Vào thời điểm mà tâm trí của Firo, nãy giờ đang phân vân giữa đám cháy với cô gái, nghiêng hẳn về vế sau, cậu đã bắt đầu bơi giữa dòng chảy mà đám đông tạo ra rồi.
-----
“Lạ thật đấy... Đáng lẽ mình nên rẽ phải ở đoạn vừa rồi...”
Đường sá ở New York được bố trí như một tấm lưới. Về cấu trúc cơ bản thì không có gì quá khác biệt, song vì quy mô quá lớn, nên hình hài của nó thực chẳng khác gì một mê cung cả.
Cậu nghĩ là mình đang đuổi theo người phụ nữ, nhưng cũng có những lúc cậu thấy như thể mình đang bị mê lộ đánh lừa. Cậu đã sống ở thành phố này từ rất lâu, mọi tuyến đường tới nơi ẩn náu, tới các câu lạc bộ đêm, tới đủ kiểu địa điểm khác nhau đều nằm gọn trong lòng bàn tay cậu. Thế nhưng, nếu mục tiêu là một con người đang di chuyển, thì tất cả đều là vô nghĩa.
Với lại, nếu như cậu không nhầm, thì đây là lãnh địa của nhà Gandor.
Gia tộc Gandor là một trong số nhiều băng đảng Mafia ở New York, và quy mô cũng như diện tích lãnh địa của họ không quá khác biệt so với gia tộc Martillo. Tuy nhiên, những người trực tiếp điều hành tổ chức này, ba anh em nhà Gandor, lại nổi tiếng là vô cùng nhẫn tâm và hiếu chiến, và trên hết, tất cả các thành viên của họ đều là những tên du côn luôn sẵn sàng lao vào ẩu đả mọi lúc.
“Ôi trời... Hi vọng là cô ấy chưa bị bắt cóc.”
Đó là một mối lo nghe chừng khá đáng ngại, song nhất định không chỉ là một lời nói suông. Khả năng ấy cực kì dễ xảy ra ở trên lãnh địa của gia tộc này.
Mấy người nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ba anh em Gandor là một chuyện, nhưng vì cái đám mới gia nhập không được họ kiểm soát tuyệt đối, nên là kiềm hãm chúng chắc sẽ mệt lắm...
Giữa lúc đang tạm dừng để kiểm tra xung quanh, Firo chợt nghe thấy tiếng gì đó mang máng tiếng đàn ông hò hét. Không còn gì khác để lần theo, cậu hướng tới chỗ phát ra âm thanh ấy.
Trong một góc hẻm, cậu thấy một vài bóng người. Bốn gã du côn trẻ tuổi đang bu quanh một ông lão.
Rướn mình lại gần hơn, Firo dần làm rõ được những lời chúng nói. Không một ai tỏ vẻ để ý đến cậu.
“...Tôi bảo là xin lỗi mau, lão già!”
“Đủ lắm rồi đấy...! Chính chúng mày mới là người làm ngã tao!”
Đáp lại câu nói của lão già quái đản, một tên du côn đá mạnh vào bụng ông ta.
Một tiếng rên khe khẽ phát ra từ ông ta, và ông ta gập mình lại.
“Đừng gây sự với bọn tôi chứ. Bọn tôi đã lịch sự hỏi là ‘Cái hộp ông cầm trông nặng thật đấy nhỉ. Có muốn chúng tôi mang hộ không?’ và ông thử nhớ lại những gì ông nói xem nào? Hửm?”
Một tên du côn khác, không phải tên tung ra cú đá, tát nhẹ lên má ông ta.
“‘Cút đi, lũ dòi bọ hạ đẳng,’ ông nói vậy đấy. Một câu trả lời vô cùng tử tế và thân thiện, nhỉ?”
Một cái tát nữa. Lần này hắn chuyển sang bên má còn lại. Mấy cái tát đó không đau lắm, chúng chủ yếu được dùng để gây áp lực tâm lí.
“Nhờ chúng mày mà tao phải dính vào cái trò này...và cũng tại chúng mày ngáng chân tao mà giờ dòi bọ chui hết cả vào chân tao. Ngứa muốn chết đi được. Chúng mày tính làm sao đây hả?”
“Mày tính láo với bọn tao à...?”
“Không ai hỏi ý kiến mày hết.”
Một tên nom như kẻ cầm đầu vung mũi giày thật mạnh vào bụng ông ta.
Phải hứng chịu cơn đau khôn xiết, nạn nhân của nó quyết định rằng xin lỗi và cho chúng tiền là tốt nhất.
Ông ta không có thời gian để dính líu tới bọn rác rưởi này. Ông ta còn phải thực hiện một kế hoạch nữa.
“Đ-được rồi, là lỗi tại tôi. Nếu các cậu muốn tiền thì...”
Một tên du côn uốn cong ngón cái và ngón trỏ như thể đang cầm một quả bóng golf và dúi chúng vào cổ họng của ông già. Ông ta sẽ không thể hét lên dù có muốn đi nữa. Ông ta cũng không thể thở được.
“Không ai. Hỏi mày cả. Mày còn định bắt tao phải nói lại bao nhiêu lần nữa?”
Cơn đau trong họng nhức nhối đến nỗi người đàn ông suýt thì đánh rơi cái hộp đang cầm. Tuy nhiên, ông ta vẫn dồn hết sức vào việc giữ lấy cái hộp ấy.
“...Sao thế, ông già? Cái hộp đấy quan trọng đến vậy ư?”
Một tên du côn vươn tay tới chỗ cái hộp. Ngay lập tức, mặc dù không biết ông già ấy có được sức mạnh từ đâu, ông ta ôm chặt cái hộp vào lòng như đang cố bảo vệ nó, rồi cố gắng chạy đi.
Tuy nhiên, chúng lại ngáng chân ông ta thêm lần nữa, và ông ta ngã nhào xuống mặt đường.
Ông ta nằm úp mặt xuống, và chúng tung một cú đá tàn nhẫn vào mạng sườn ông ta. Bàn chân tương tự cũng được dùng để lật ngửa ông ta dậy.
“Bọn tôi sẽ lấy cái hộp này... Như vậy cũng không có nghĩa là bọn tôi định tha cho ông đâu.”
Vừa đặt một chân lên bụng ông già để ngăn ông ta vùng lên, tên cầm đầu vừa cúi xuống, vươn tay đến chỗ chiếc hộp.
Dẫu thế, người đàn ông vẫn phản kháng đến cùng. Khi ông ta cố gắng mấp máy gì đó, một tên đứng bên cạnh liền đá vào đầu ông ta.
Bị áp đảo trước cảm giác não bộ đang rung lắc trong sọ mình, người đàn ông bất tỉnh ngay lập tức.
“Được rồi... Cái gì đây? Rượu à?”
Lúc mở hộp ra, đám du côn tìm thấy hai cái chai màu xanh đậm. Một thứ chất lỏng không phải nước sóng sánh bên trong khoảng không hình thù kì lạ. Cái cách chất lỏng đó chuyển động là nguyên nhân khiến chúng nghĩ nó không phải là nước. Khi nó lắc lư, người ta có thể thấy chúng có phần hơi đặc.
Nếu như thứ này chỉ là rượu, thì tại sao lão già kia lại phải liều mạng vì nó? Chẳng lẽ nó là rượu thượng hạng? Trong khi tên cầm đầu cân nhắc các khả năng, hắn nhận ra một cậu trai đang quan sát chúng từ cách đó một quãng.
“...Gì thế, thằng kia? Mày nhìn cái gì thế hả?”
Nhận thấy mình đang bị gọi, Firo thoáng chần chừ, không rõ nên làm gì tiếp theo.
Nếu mọi chuyện xảy ra đúng như những gì đám du côn nói, thì cậu cho rằng ông già kia đã nhận lấy những gì đáng phải nhận, thế nên cậu không thể làm gì được. Cậu nghĩ bọn chúng có phần hơi quá đà, song như vậy cũng không khác mấy so với những gì cậu làm với tên cướp ban sáng. Dĩ nhiên, về bản chất, có một sự khác biệt rõ rệt giữa vu khống và giết người, song Firo không quan tâm đến chuyện đó mấy.
“Không có gì... Bất cứ ai cũng sẽ nổi điên nếu một lão già vừa mới gặp bảo họ là ‘dòi bọ hạ đẳng’ thôi. Đó là chuyện hết sức bình thường. Tôi chỉ đang nghĩ là: Nếu như mấy người cướp đồ của ông ta, thì mấy người đã sẵn sàng để bị cảnh sát truy lùng chưa? Hay mấy người tự tin rằng mình có thể xử lí ông ta và xóa sổ mọi dấu vết? ...Đại để là vậy.”
Giọng điệu cậu ta trưởng thành đến lạ lùng, và đám du côn ngờ vực nhìn cậu ta.
Tên cầm đầu cộc cằn giở giọng khiêu khích.
“...Này, thằng kia, nghe đây. Mẹ mày không dạy mày cách ăn nói lịch sự với người khác à? Hay là mẹ mày bận đứng ở góc đường hằng đêm để cho mày bú sữa?”
Hắn nhổ ra một câu châm chọc thô bỉ, song đôi mắt hắn không cười.
Đây là lần thứ hai trong ngày Firo bị người khác phê phán về chuyện lề thói. Nghĩ đến chuyện ấy, cậu ta chán nản thở dài. Cảnh sát là một chuyện, nhưng phải nghe mấy tên này giảng đạo thì...
“...Có thể tôi vẫn chưa được hai mươi tuổi, nhưng còn anh thì sao? Dựa trên lời nói và hành động của anh, thì anh thực sự không lớn hơn tôi mấy.”
Gã du côn chợt im lặng. Có vẻ cậu đã nắm thóp được hắn, song cậu không quan tâm.
“...Mày không phải người ở đây, đúng không?”
“Tôi là một người New York, giống như anh. Firo, thành viên gia tộc Maritillo.”
Cậu giới thiệu ngắn gọn về bản thân, giữ độ lịch sự ở mức tối thiểu.
“Martillo? Chưa nghe thấy bao giờ... Chúng mày thì sao?”
Đám đồng đảng lắc đầu lia lịa, khuôn mặt mỉm cười đầy mỉa mai.
“...Hừ! Chắc là cái bọn đấy phải nhỏ bé lắm... Hay là, nói sao nhỉ, một băng đảng trường học chăng?”
“...Tôi nghĩ quy mô của chúng tôi cũng tương đương với nhà Gandor, những người mà các anh phục vụ.”
Cậu nghĩ nói vậy sẽ chĩa ngược mũi dùi về phía chúng, nhưng cho dù đúng là thế, có vẻ như chúng vẫn không bị kích động.
“Hả? Bọn tao phục vụ cho ai cơ?”
Chẳng phải chúng phục vụ cho nhà Gandor sao? Nếu không phải vậy thì nãy giờ chúng huênh hoang nhiều thật đấy... Vừa nghĩ như thế, Firo vừa đợi chúng đi bước tiếp theo.
“Đừng có mà đồng nhất bọn tao với cái lũ rởm đời rẻ tiền đấy. Bọn tao không phục vụ cho ai cả. Cái trò lập băng lập nhóm của chúng mày chỉ chứng minh cho người khác thấy chúng mày nhu nhược đến cỡ nào thôi, hiểu chưa hả? Nhìn đi, cho dù bọn tao làm loạn cái chỗ này đến cỡ nào, thì bọn Gandors cũng chẳng bao giờ dám phàn nàn hết!”
À, thì ra là thế. Firo đã hiểu ra cơ sự.
Mấy tên này thực sự chỉ là du côn, theo đúng như cái cách mà thế giới định nghĩa. Không phải là chúng chưa gia nhập một băng nào. Với trình độ của chúng, sẽ chẳng ai thèm để ý tới chúng hết.
“Tôi hiểu rồi. Thế thì thôi. Đi đi.”
Trước câu nói ấy, nụ cười của chúng vụt tắt.
“......Mày nói gì cơ?”
“Tôi bảo là các anh đi được rồi đấy. Tôi có chuyện muốn hỏi các anh, nhưng có vẻ như là các anh sẽ không nói cho tôi biết, mà trong trường hợp đấy thì tôi tự đi tìm sẽ tốt hơn. Dĩ nhiên, tôi có hơi bực mình vì đã phí thời gian với mấy người, nhưng mà tôi sẽ để mấy người rời khỏi đây lành lặn, nên là đi đi. Tôi có cần phải đánh vần ra cho các anh không thế?”
Cậu ta đuổi họ đi, chỉ trong một hơi duy nhất.
Trong lúc Firo quay gót rời đi, một tên du côn nhanh chóng lao tới từ đằng sau.
“Cái thằng nhãi ranh này! Mày nghĩ mày có quyền ra lệnh chắc?!”
Hắn nắm lấy cổ áo Firo, lôi cậu ta vào.
Cậu thở dài một cái. Rồi, như thể cái thở dài ấy là một cách báo hiệu, cậu chuyển sang thế phản công.
Ngay lập tức, tay trái cậu nhắm vào cổ họng của tên kia. Tên du côn nắm lấy cổ áo cậu bằng tay phải và không thể phản ứng đủ nhanh để chặn cú đó.
Khi bàn tay đã áp sát cổ hắn, Firo nhấn ngón trỏ và ngón giữa và cuống họng hắn ta, ngay bên dưới yết hầu.
“---------!”
Hắn hét không thành tiếng. Tên du côn bỏ tay ra khỏi cổ áo Firo và vỗ lấy vỗ để cổ họng mình, hai đầu gối khuỵu xuống đất.
“Đây là những gì anh làm với ông già kia, nhớ chứ?”
“Thằng kh--!”
Một tên khác tiếp cận Firo từ đằng bên.
Cậu né đòn, hơi uốn phần thân trên một chút, rồi bắt lấy cánh tay trái đang vươn ra của hắn ta. Thấy thế, tên du côn vội vã tấn công cậu bằng tay còn lại. Tuy nhiên, tư thế của hắn không đủ thăng bằng, và hắn không thể đặt quá nhiều lực vào cú đòn ấy. Firo nắm cả cánh tay đó lại.
Bị vô hiệu cả hai tay, tên du côn vật lộn tìm cách thoát khỏi tình hình hiện tại, nghĩ đến việc tung ra một cú đá...nhưng đã quá muộn.
Chỉ trong một khoảnh khắc, vẫn giữ lấy hai tay của tên du côn, Firo quay lưng về phía hắn. Hai tay hắn bắt chéo ở chỗ khuỷu tay và vòng qua vai của Firo.
Rồi, vừa điều chỉnh trọng tâm của bản thân, Firo vừa vươn mình về trước thật mạnh. Cậu nghĩ mình đã nghe thấy tiếng xương khuỷu tay kêu răng rắc. Không thể chịu đựng nổi cơn đau, tên du côn quên cả việc kháng cự lại chuyển động của đối thủ.
Chân rời khỏi đất, cảm giác thăng bằng trong hắn lộn nhào.
Ngay sau đó, một cơn chấn động lan khắp lưng hắn... Hay nói đúng hơn, lan khắp cơ thể hắn. Cơn tê tái đổ ập lên hắn ta. Cảm giác ấy dần dần chuyển thành sự nhức nhối.
“Oa... Thì ra là như này. Ấn tượng phết đấy.”
Firo - người vừa mới ném tên kia - trông còn ngỡ ngàng hơn cả nạn nhân của cậu, kẻ đang quằn quại vì đau. Đó là một ngón đòn cậu học được từ một người đàn ông Nhật Bản trong tổ chức, và cậu chưa từng ném được ai ra xa đến cỡ này.
“Gakh...ahhh...”
Nhìn thấy đồng đảng của mình, những kẻ đang rên từng tiếng ngắt quãng, hai tên còn lại chợt nuốt nước bọt. Đáng ra tất cả bọn chúng nên tấn công cậu ta cùng một lúc, lấy bốn chọi một, song có vẻ như chúng đã đánh giá chàng trai kia quá thấp và phí thời gian với một lão già.
Đây là một tin rất xấu. Và tên cầm đầu mới chỉ bắt đầu được chứng kiến kĩ năng thực sự của cậu trai ở trước mặt.
Trong khi đó, đồng bọn của hắn đã rút dao ra và chĩa phần mũi nhọn của nó về phía Firo.
“...Aww... Dao ư? Thật đấy á?”
Biểu cảm của cậu nom khá lo lắng, nhưng sâu bên trong, Firo vẫn điềm đạm như mọi khi.
Cậu thư thả bước tới, thu hẹp khoảng cách giữa bản thân với tên du côn, hai tay giơ lên trời:
“Nào, nào. Đâu cần phải mang dao vào một trận đấu như thế này đâu, đúng chứ?”
“Im mồm! Giờ có lẻo mép cũng không ăn thua...”
Giữa lúc đang nói dở câu, một cơn chấn động chạy dọc qua cánh tay cầm dao của hắn. Firo đã tấn công nó bằng một cú đá hết sức chính xác. Lực bất tòng tâm, hắn buông tay khỏi con dao. Miếng kim loại ấy nảy lên một chút khi rơi xuống vệ đường, và Firo đá nó ra khỏi tầm với.
“Ư...”
Theo bản năng, đôi mắt tên kia lập tức dõi theo con dao.
Từ phía bên dưới tầm nhìn của hắn, một thứ gì đó phóng lại gần hắn ta.
Vào khoảnh khắc hắn nhận ra “thứ gì đó” chính là nắm đấm của Firo, tất cả đã quá muộn. Hắn lãnh trọn một đòn đau điếng ngay dưới sống mũi, một cước vào bụng, và cuối cùng là nằm lăn lộn dưới đất.
“Và? Còn gì nữa không?”
Firo cất tiếng hỏi, quay sang đối mặt với tên cầm đầu.
Bàn tay của hắn vẫn nằm gọn trong túi áo khoác.
“Kể từ bây giờ, liệu mà để dành mấy trò trẻ con đấy ở trường đi.”
Firo ném trả lại lời nhục mạ vừa mới phải nhận cách đây một lúc. Nhưng không rõ gã duy nhất còn đứng vững có nghe hay không, khi hắn bước đến chỗ tên đồng bọn nắm cổ áo Firo lúc đầu và bị đánh gục. Tên đó giờ đã ngồi được dậy, song vẫn còn đang xoa xoa cái cổ đau. Sau khi trao đổi với nhau đôi ba lời, chúng hối hả lại gần hai tên đang nằm đó, cho mỗi tên mượn một bờ vai, rồi dìu chúng dậy.
Cùng với một cái trừng mắt sau cuối, đầy hận thù dành cho Firo, cả đám cất bước chạy.
Để lại một mình Firo với lão già bất tỉnh.
“Này, ông ơi! Ông ơi! ...Ông ổn chứ?”
Cảm thấy một bàn tay đang vỗ lên má mình, Barnes chợt bừng tỉnh.
Ông ta vội vã ngồi dậy. Không còn chút đau đớn nào nữa. Có vẻ như các vết nội thương và những cái xương gãy đã hoàn toàn “hồi phục.”
Ở phía trước, ông ta thấy khuôn mặt của một chàng trai nom trẻ hơn nhóm ban nãy. Chàng trai ấy có vẻ đang khuỵu gối xuống, mắt nhìn ông ta. Và...... Barnes vẫn đang giữ cái hộp.
Xác nhận sự thật ấy xong, Barnes thở phào nhẹ nhõm. Rồi ông ta phóng một cái nhìn nghi hoặc về phía Firo.
Chẳng lẽ cậu trai này đã cứu ông ta? Ông ta không thể tưởng tưởng nổi cảnh chàng trai kia một mình xua đuổi cả cái đám đó, nhưng dù sao đi nữa, cái hộp vẫn an toàn. Barnes lo lắng về thứ ở bên trong, nhưng khi ông ta hé mở nó và nhìn vào, thì những cái chai vẫn còn nguyên vẹn, cũng như cái chất lỏng mà chúng chứa.
“Nó quan trọng hơn cả ông ư? Có gì ở trong hộp thế?”
Firo hỏi bằng giọng tò mò cao độ.
Nghe thấy thế, Barnes lập tức đóng hộp lại và thét lên, ôm cái hộp còn chặt hơn cả lúc trước.
“I-im mồm! Không liên quan gì đến hạng vô lại như mày hết! Mày cũng định nhắm đến thứ rượu này ư?! Nếu như mày muốn tiền, thì tao cho mày bao nhiêu cũng được, nên là xéo mau!”
“...Này. Đó là một câu khá tử tế đối với người vừa cứu mạng ông đấy... Tôi nghĩ mình đã hiểu cảm giác của mấy người kia rồi.”
Cậu ta nhăn mặt đáp lời, song có vẻ như cậu ta không phiền lòng đến thế.
“À phải rồi, ông này. Ông có thấy một quý cô mặc áo vét không?”
Barnes thoáng bối rối trước câu hỏi bất chợt khó hiểu ấy. Một người phụ nữ mặc vét! Tất cả những gì hiện ra trong đầu ông ta chỉ có một nhà hát nào đó... Nhưng khi trí tưởng tượng đã đưa ông ta ra xa đến đấy, ông ta chợt nhận ra là nó làm ông ta nhớ đến một người.
Tài xế riêng của ngài Szilard...
Barnes đã từng nói chuyện với Ennis một vài lần, nhằm mục đích liên lạc với sếp của cả hai. Ngoài Szilard ra, cô ta là thực thể duy nhất có thể giết được ông ta.
“Không... Không thấy.”
“Hiểu rồi... Thế thì thôi vậy. Xin lỗi vì đã làm phiền ông.”
Sau mấy lời ngắn ngủi ấy, Firo vội vàng rời đi, quên sạch mọi thứ về người đàn ông đó.
Barnes nhìn cậu ta rời đi, trong đầu thầm tự hỏi: Tại sao cái thằng đấy lại đi tìm tài xế riêng của ngài Szilard? Suy nghĩ ấy đánh lạc hướng ông ta, và sự xao nhãng đó khiến ông ta không thể nào chú ý đến một thứ quan trọng không kém: Tại sao Firo lại không phiền lòng vì cách ăn nói của ông ta?
Chỉ cần Barnes chú ý đến điều đấy thôi, định mệnh của Firo và những người khác có lẽ sẽ thay đổi đáng kể. (riêng ông ta thì không)
Không may thay, Barnes đã không bao giờ chú ý.
Một cách lặng lẽ, con đường định mệnh bắt đầu xoắn lại.
Và giờ đây, Barnes đang đơn độc đi qua những con hẻm.
Nếu ông ta chuyển sang tuyến đường chính, ông ta sẽ thu hút ít kẻ gây rối hơn, song ông ta không có thời gian để làm thế. Ông ta phải tới tòa nhà mà người đàn ông vĩ đại đang ngồi đợi nhanh nhất có thể. Một khi sự bất tử đã thuộc về ông ta, ông ta sẽ nhanh chóng khiến đám lưu manh kia gặp phải một tai nạn chết người.
Hay nói đúng hơn, liệu cuối cùng ta có được hưởng một đời bất tử không? Mặc dù đó là môt tai nạn, song ta đã chỉ có thể bảo vệ được hai chai sản phẩm hoàn chỉnh duy nhất. Để trừng phạt sai lầm ấy, ngài Szilard có lẽ sẽ giết ta. Không, chắc chắn ta sẽ bị giết. Tuy nhiên, không còn lựa chọn nào khác cả. Suy cho cùng, ta đã không thể hoàn thành nhiệm vụ mà con người cao quý ấy giao phó cho ta.
Tuy nhiên, có lẽ......
Niềm tin tuyệt vọng ấy là thứ duy nhất giữ cho đôi chân của Barnes di chuyển.
Ông ta không cần phải nghĩ thêm gì nữa. Ông ta chỉ đơn giản là phải đến được địa điểm đã định.
Nhưng số phận vô tâm đã khoác lên hình dáng của một con người, và nó đang tiến lại gần Barnes từ phía sau.
Nó túm lấy cổ áo ông ta, giật lùi ông ta lại.
Đầu ông ta bị quay ngoặt ra sau, và một giọng nói ngập tràn phẫn nộ vang thẳng tới mặt ông ta.
“Đi một mình cơ à, ông già?”
Đứng ở đó chính là cái đám bốn tên mà ông ta định cho gặp phải tai nạn chết người.
“Chắc hẳn ông muốn chúng tôi uống cái món rượu đấy lắm.”
Gãy cả hai tay lẫn hai chân, bất tỉnh vì cơn đau, Barnes bị ném ra một bãi rác.
Lúc Ennis tìm thấy ông ta, xương ông ta thậm chí vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.
-----
Cách bãi rác đó không xa lắm, có một đại sảnh trình diễn nhạc jazz. Ở chỗ tầng hầm của nó là một văn phòng có thể coi như trụ sở chính của nhà Gandor, những người cầm đầu khu vực này,
Tiếng nhạc jazz từ bên trên réo rắt xuyên qua trần nhà. Lấy đó làm nhạc nền để tận hưởng, một tá đàn ông uống rượu, cười đùa và nổi đóa ầm ĩ.
Những người tham dự cuộc vui chắc chắn không phải là những công dân ngay thẳng, và họ đang làm bất cứ thứ gì mình muốn trong không gian chật chội này.
Tuy nhiên, vẫn còn đúng một nơi mà phép tắc ngự trị.
Bốn người đàn ông ngồi quanh một cái bàn tròn, trong khi mười người đàn ông khác đứng ở chung quanh, quan sát những gì diễn ra trên bàn. Có vẻ như họ đang chơi poker.
Trong số những người đang chơi, có ba người nom như thể đang bình thản tận hưởng bầu không khí, song người thứ tư lại mang một biểu cảm căng thẳng đến lạ lùng.
Bằng giọng hơi run run, người này nói.
“Ừ...ừm... Vụ này, ừm, vụ này hiếm thật đấy, sếp... Cả ba sếp ngồi chơi poker cùng với nhau...”
Jorgi, người có trách nhiệm quản lý chuyện tiền bạc của tổ chức, lên tiếng như thể đang muốn ước chừng tâm trạng của ba anh em ngồi cùng bàn với mình.
“.........”
Ở phía bên trái trước mắt hắn, Keith Gandor - anh cả trong số ba anh em nhà Gandor, những vị thủ lĩnh của băng - không nói gì. Jorgi đã gia nhập băng được năm năm, song anh ta chưa từng thấy người đàn ông này mở miệng lấy một lần.
“Im đi, Jorgi! Khi mày chơi poker, mày phải nói bé thôi chứ!”
Người ngồi ngay chính diện với hắn và đang nói những chuyện bất khả dĩ là anh thứ, Berga Gandor. Mặc dù chỉ là anh thứ, song anh ta lại là người lực lưỡng nhất trong số ba người, và anh ta to gấp đôi so với người anh Keith. Đồng thời anh ta cũng rất hay nổi giận.
“Bình tĩnh đi, Berga... Người ta nói la hét làm giảm vận may đấy. Xin lỗi vì chuyện này nhé, Jorgi.”
Anh chàng điềm đạm ở bên tay phải là Luck Gandor, em út. Tuy mới chỉ hơn hai mươi tuổi, cậu ta đã cáng đáng không ít nhiệm vụ quan trọng nhờ con mắt tinh tường và tài năng giao thiệp của bản thân.
Xét trong đất nước này, Luck quả thực rất lạ lùng: Cậu ta luôn nở một nụ cười nhạt, và cậu ta trò chuyện lịch sự với bất cứ ai lớn tuổi hơn mình, cho dù họ có là thuộc cáp của cậu ta. Tuy nhiên, Jorgi biết một điều: bộ phận duy nhất đang cười trên mặt cậu ta chỉ có khuôn miệng, và vẻ gan góc luôn hiện hữu trong ánh mắt của cậu ta.
“Ừm... Không... Cảm ơn.”
Cổ họng nghẹn cứng, Jorgi lặng lẽ xếp bài.
Hắn sợ rằng một chuyện kinh khủng nào đó sẽ xảy ra nếu hắn ngu ngốc đến nỗi thua ngay tại chỗ này. Như một lẽ dĩ nhiên, hắn quyết định sẽ sử dụng một chút mánh lời.
“À phải rồi! Tao vừa nghĩ ra cái này hay lắm!”
Ngay khi mọi người vừa mới chỉnh lại cỗ bài trên tay xong, Berga, người bảo không được nói lớn, hét ầm lên.
“Sao chúng ta không thử bắt người đứng bét làm cái này, thay vì trả tiền phạt nhỉ?!”
Anh ta thong thả rút một vật màu đen ra và thảy nó lên mặt bàn.
Đó là một khẩu súng ổ quay.
Người anh và người em của anh ta chỉ lặng lẽ nhìn lên tay mình.
“Ờ...ừm...sếp Berga?”
“Cậu biết đấy! Roulette kiểu Nga!”
Jorgi chợt thấy mắt mình tối đi một chút.
“Ừm... Sếp, ờm... Sếp đang đùa phải không? ...Có người sẽ phải chết đấy...”
“Không phải lo! Xui thì cậu cũng đâu có chết!”
“Điên thật đấy...”
Hắn ném cho Luck một cái nhìn cầu cứu, nhưng Luck vẫn cứ hướng mắt vào bài của mình. Cậu ta không hề phản ứng.
“Được rồi... Tất cả cùng nhau cho xem bài nhé.”
Cường độ run rẩy của Jorgi tăng vọt. Nếu hắn để lộ cỗ bài hiện giờ, chắc chắn hắn sẽ phải dí cái họng súng kia vào thái dương.
Hắn phải đánh tráo bài. Jorgi khá tự tin vào khả năng gian lận của bản thân. Để phòng hờ, hắn đã giấu sẵn vài lá bài trong tay áo. Nếu hắn sử dụng chúng, thì ít nhất hắn cũng phải có được một sám cô.
Hắn không thoải mái lắm với việc gian lận trước chính thủ lĩnh của mình, song như vậy vẫn còn tốt chán so với dính vào một ván Roulette kiểu Nga.
Jorgi ngước mặt lên, định bụng quan sát đối phương...và ngay lập tức chết điếng.
Mắt.
Hơn chục cặp mắt đang lạnh lùng chĩa thẳng vào bàn tay hắn.
Keith, Berga, Luck, những khán giả đứng xung quanh bàn, thậm chỉ cả những người không hề lại gần bàn cho tới thời điểm ấy: Tất cả đều ngừng chuyện đang làm lại và quay sang nhìn Jorgi.
Bởi tất cả mọi người đều đang nhìn, tầng hầm gần như bị sự im lặng thống trị tuyệt đối. Thứ duy nhất dám đi ngược lại là tiếng nhạc jazz yếu ớt vọng xuống từ trần nhà. Thế nhưng, âm thanh lãnh đạm ấy chỉ khiến nỗi sợ trong Jorgi dâng cao hơn.
Cơn khiếp hãi của hắn to lớn đến nỗi hắn muốn run cũng không nổi. Đến cả dòng chảy thời gian dường như cũng bị bóp méo đi. Vẫn cố gắng bấu víu lấy ý chí của bản thân để băng qua cơn điên loạn đang tiến tới, hắn vắt kiệt ra từng từ một.
“...Cái...? À... Không... C... C-c...có...c-có chuyện gì với...tất cả mọi người vậy? Có c-c-c-c-cái gì d-d-d-d-dính v-v-v-v-vào t-t-t-t-tay tôi à?”
Cơn run rẩy bị kìm nén nãy giờ cứ như đang được giải phóng ra ngoài thông qua giọng nói của hắn. Vừa quan sát phiên bản ngớ ngẩn này của Jorgi, Berga, bất ngờ thay, vừa trả lời một cách rất điềm tĩnh.
“...Hửm? À... Mọi người chỉ đang đảm bảo là cậu không gian lận thôi. Đừng để ý làm gì.”
Tim của Jorgi suýt chút nữa là đã ngừng đập.
Không thể nào... Đáng ra họ không thể... Chẳng lẽ họ lại biết? Không, họ không thể, không thể như vậy được.
Dẫu đang tuyệt vọng đến cùng cực, hắn vẫn cố ra vẻ tự nhiên. Nếu hắn hoảng loạn ngay bây giờ, họ có thể sẽ nghi ngờ cả những thứ mà họ chưa nhận ra.
“Ha...ha-ha... Thôi nào, sếp Berga... Tôi mà lại gian lận ư? Tôi chưa bao giờ... Đúng không, sếp Luck?”
“À, nếu chỉ là gian lận thôi, thì tôi nghĩ anh có thể làm tốt đấy chứ.”
Khóe môi Luck hơi cong lên. Như mọi khi, đôi mắt cậu ta không cười.
“Dù sao đi nữa, anh cũng đã biến thủ tiền của tổ chức suốt hai năm liền rồi còn gì.”
Lần này, Jorgi không sao cử động nổi.
Bọn chúng biết. Bọn chúng biết. Bọn chúng biết-biết-biết chuyện đấy-biết chuyện đấy-g-g-g-giết, bọn chúng sẽ giết mình, bọn chúng sẽ giết------
Hắn cố gắng nói gì đó, song hai hàm răng của hắn chỉ biết va lập cập vào nhau, và hắn thậm chí còn không thể điều hòa được nhịp thở. Chỉ có chỗ mồ hôi chảy trên lưng là phản ánh chính xác nỗi sợ của hắn ta.
“Anh nghĩ là chúng tôi không biết gì ư? Chà, chúng tôi đã không hề để ý chuyện đó suốt hai năm trời, nên là giả định như vậy cũng đúng...”
Hướng mắt về phía Jorgi, người mà môi đang run bần bật, Luck thản nhiên nói tiếp.
“...Chúng tôi nghe nói gần đây có một tên nghiện ma túy lởn vởn quanh khu vực này, cậu cũng biết rồi đấy... Chúng tôi lo rằng ai đó trong gia đình cậu có thể dính dáng đến hắn ta, nên là chúng tôi đã điều tra một chút.”
Nếu một băng đảng nhỏ như nhà Gandor hay nhà Martillo lấn sân sang buôn bán ma túy, điều đó có thể sẽ khiến các tổ chức lân cận quay lưng với họ một cách không cần thiết. Dĩ nhiên, việc họ không buôn ma túy cũng giúp gây dựng một hình ảnh trong sạch với những người trả cho họ tiền bảo kê.
“...Tuy nhiên, trong quá trình ấy, chúng tôi lại phát hiện ra một thứ hoàn toàn không liên quan. Jorgi... Sổ sách của anh... Dòng tiền lưu thông một cách quá mức bình thường. Rất thiếu tự nhiên. Nên là anh thấy đấy, chúng tôi đem chỗ sổ sách đấy đi dò la đôi điều, và... Anh biết phần còn lại rồi, đúng chứ, Jorgi? Anh thông minh mà...”
Jorgi đã không còn nghe nữa. Ánh mắt trống rỗng của hắn lưu lạc trong hư vô.
“...Cuối cùng thì, tên nghiện đó bị cảnh sát bắt vào sáng nay, và chúng tôi được biết là hắn không liên quan gì đến địa bàn của băng hết, nhưng... Anh còn nghe không thế, Jorgi?”
Đôi tai Jorgi không thể tiếp nhận lấy một lời. Chỗ mồ hôi túa ra từ hắn đã phơi bày rõ tâm trạng hiện giờ của hắn ta.
Quyết định rằng tiếp tục nói sẽ chỉ tổ tốn thời gian, Luck đặt cỗ bài của mình lên bàn.
“Át, năm con.”
Rồi Berga cũng đập bài xuống.
“Arrrgh! Tao thua, tao thua! Năm K!”
Cuối cùng, Keith lặng lẽ giơ bài ra.
“.....................”
Năm lá joker, trên cùng một cỗ bài.
“Anh tính ăn hết đấy à, Keith?”
“Quả nhiên là không thể nào ăn lại Keith được.”
Trước pha gian lận trắng trợn kia, đám người đứng xung quanh cười phá lên đầy thích thú. Người duy nhất không cười là Jorgi.
Có tổng cộng bảy lá joker trên bàn. Jorgi cảm thấy như thể những tên thần chết trên chúng đang cười mỉa hắn ta.
Và rồi, khi tiếng cười đã tắt, Luck lặng lẽ lên tiếng.
“Nhanh cho chúng tôi xem bài đi nào, Jorgi.”
Như thể giật mình trước lời nói của Luck, từng lá bài rơi lả tả khỏi đôi tay bất động của Jorgi, nằm ngổn ngang trên mặt bàn. Hai lá nằm úp mặt xuống; Luck lật chúng lên... Khi cả năm lá đã lộ diện, tất cả đều hiểu ngay rằng chúng tệ như rác.
“Được rồi... Còn nhớ cái luật mà tao vừa mới bảo mày không, Jorgi? Nhớ chứ?”
Berga ném khẩu súng từ chính giữa bàn sang ngay trước mặt Jorgi. Đạn... Có sau viên. Tất cả các ổ đạn đều được nạp.
"Đây: Roulette kiểu Nga. Phiên bản không may rủi, một viên một mạng. Làm cho tốt vào nhé.”
Giờ đây, khi tình hình nom như hắn thực sự sắp phải chết, Jorgi lại bình tĩnh đến đáng sợ.
Tại sao tao lại phải chết cơ chứ? Cuối cùng thì tiền cũng chỉ chui vào túi mấy thằng mất não chỉ biết đánh nhau; tất cả những gì tao làm là sử dụng nó thay chúng. Nếu chúng mày chịu nghĩ như vậy, thì tao đã đóng góp được khá nhiều cho thế giới này rồi đấy. Và giờ tao lại sắp sửa bị trừ khử bởi bọn chúng mày...? Bởi lũ đầu đất không biết cả cách để làm ra tiền? Tao không bao giờ chấp nhận chuyện đấy. Phải có một cách để toàn mạng thoát khỏi đây.
Những gì hiện hữu trong tâm trí hắn không phải sự hối hận hay ăn năn, mà là sự thù ghét dành cho cái số phận hắn chọn.
Hắn nhìn khẩu súng ổ quay nằm trước mắt. Rồi hắn nhìn đám người đang đứng xung quanh hắn ta. Không một ai đặt tay lên súng hay dao hết.
Đấy, thấy chưa? Bảo sao chúng mày chỉ là một lũ đầu đất.
Từ từ và chậm rãi, Jorgi cầm khẩu súng lên, dí nó vào trán, rồi...
“_________!”
Đột nhiên, hắn hướng khẩu súng về phía trước và bóp cò. Thẳng về phía ba anh em, sếp của chính hắn, những người đang ngồi đối diện với hắn ta.
Hắn bóp cò súng một phát...hai phát...ba phát, bốn, năm, sáu......
Cách.
Cách cách
Cách-cách-cách.
Không có tiếng nổ nào cả.
Tất cả những gì vang vọng trong căn hầm im ắng là tiếng đập của cần bẩy. Nó hòa quyện với tiếng nhạc jazz len lỏi xuống từ tầng trên, tạo thành một hợp âm kì quái kéo dài qua màng nhĩ của Jorgi.
“...Xui cho anh thật đấy, Jorgi.”
Luck buồn bã lên tiếng. Khác hẳn với mọi khi, đôi mắt cậu ta thực sự có vẻ buồn rầu.
“Nhìn kĩ lại đi... Tất cả đều trống mà.”
Berga thờ ơ đáp, khuôn mặt không biểu lộ một tí gì.
Jorgi hoàn toàn choáng váng; hắn không tài nào hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Luck đưa ra lời phán quyết sau cuối:
“...Nghe này, Jorgi. Cả ba chúng tôi đều rất biết ơn vì những gì anh đã làm cho chúng tôi. Chúng tôi đã bàn luận và đi đến một quyết định. Nếu như anh đủ can đảm và tự tay bóp cò, chúng tôi sẽ để anh rời băng mà không nói thêm gì nữa. Nếu anh khóc lóc cầu xin được tha, chúng tôi sẽ đánh anh nửa sống nửa chết rồi để anh rời đi. Nếu anh quyết chối bỏ đến cùng, chúng tôi sẽ cắt lưỡi anh rồi để anh rời đi. Và...anh lại chọn ngay cái kết tồi tệ nhất. Tôi thực không biết phải nói mình đang thất vọng đến cỡ nào nữa.”
Nói xong, Luck khẽ lắc đầu và im lặng.
Lần này, Jorgi thực sự tuyệt vọng và hối hận vì hành động của mình. Nếu ít ra hắn chịu cầu xin cho cái mạng hắn...
Có lẽ bây giờ vẫn chưa phải là quá muộn. Đúng lúc hắn mở miệng ra để nói......
Một bàn chân to tướng liền tông thẳng vào mặt hắn ta.
Berga đột ngột nhảy lên mặt bàn và đá vào mặt Jorgi như một đứa trẻ đá một quả bóng.
“...Đừng có làm cho em trai tao buồn thêm nữa.”
Đôi lông mày cau có xô vào nhau, hắn nhìn xuống tên bỉ ổi nằm vật trên nền sàn. Cái chao đèn treo ngay trên đầu Berga rung lắc như điên.
Một vài cái răng của Jorgi đã rụng khỏi mồm, và đôi mắt trắng dã của hắn hơi lộ ra bên dưới cặp mí chưa khép hết. Có vẻ như cú đòn kia đã hạ đo ván hắn ta.
Thấy thế, một vài khán giả bắt đầu rời khỏi bàn poker. Họ nhấc cái thân mình của Jorgi lên và nhồi nó vào trong một cái bao bố. Rồi họ vác cái bao lên vai...và lên cầu thang dẫn tới tầng trệt.
Sau đó, cái bao sẽ bị đưa ra khỏi thành phố và mang đến một nơi với tầm nhìn hướng ra biển.
Jorgi giờ mới chỉ đang bất tỉnh, nhưng nhiều khả năng hắn sẽ không bao giờ thức dậy nữa.
“......Thằng ngu...”
Người duy nhất nghe thấy tiếng thì thầm của Keith là hai cậu em của anh ta.
Vài phút sau khi cái bao bố rời khỏi tầng hầm, một thành viên ở trên sảnh nhạc jazz bước xuống.
“Luck... Đám Dallas bảo chúng nó muốn gặp cậu.”
Dallas? Đấy là ai? Một vài khuôn mặt và cái tên xoẹt qua tâm trí Luck.
Rồi cậu ta nhớ lại khuôn mặt của đám vô lại đang làm loạn quanh đây.
“Được thôi. Tịch thu đống ‘đồ chơi’ của chúng trước.”
Một lúc sau, bốn tên du côn uể oải bước vào.
Ngay khi nhìn vào chúng, Luck đã mơ hồ linh cảm được rằng mấy tên hề kia vừa thua một trận ẩu đả. Cậu ta có thể dễ dàng đoán được lí do tại sao chúng đến đây.
Và nhìn chung thì, suy đoán của anh ta hoàn toàn chính xác.
“...Vậy, cái thằng Firo đấy ấy: Các anh có thể làm gì...?”
“Không, thưa các cậu.”
Luck cương quyết lên tiếng trước khi bọn chúng kịp kết thúc câu chuyện. Mấy tên kia dường như cũng trạc tuổi cậu ta, song cậu ta vẫn quyết định trả lời một cách lịch sự.
“Chúng tôi có nghĩa vụ gì mà phải giúp các cậu trả thù cơ chứ?”
“Chà... Không... Ý tôi là... Một thằng ất ơ từ đâu đó đang mặc sức lộng hành quanh đây đấy!”
“Các cậu không phải thành viên của tổ chức chúng tôi. Thế nên các cậu không cần phải lo cho ‘công chuyện’ của chúng tôi làm gì. Dĩ nhiên, nếu những người có cống hiến cho chúng tôi đến đây vì vấn đề ấy, thì chúng tôi luôn sẵn sàng làm rõ ngọn ngành...”
Đó là sự thật. Nhìn chung, những tổ chức nhỏ như họ được xây dựng dựa trên niềm tin (hoặc đôi khi là nỗi sợ) của những công dân trả tiền bảo kê cho họ.
“...Này, bọn tôi cũng quyên tiền cho hộp đêm của các anh đấy chứ.”
“Và đổi lại thì các cậu nhận được rượu, đúng không? Tôi nghĩ như vậy là có qua có lại rồi mà.”
“Vậy thì làm như thế này đi, anh Luck. Nếu anh giúp bọn tôi, bọn tôi sẽ thề trung thành với tổ chức của các anh. Một thương vụ khá là lời, nhỉ?”
Gần như toàn bộ sức lực đã trôi tuột khỏi cơ thể của Luck. Làm sao bọn chúng lại có thể ngạo mạn được đến cỡ này? Đã thế còn ngay sau khi bị một tên quần cho thê thảm nữa!
Cảm thấy tiếp tục cuộc hội thoại này cũng không có ý nghĩa gì, Luck quyết định thành thật tóm lược mọi thứ muốn nói.
"Nghe này, Dallas... Cậu có biết tại sao chúng tôi không bao giờ liên hệ các cậu không? Chắc là các cậu không thể nào nghĩ đến chuyện chúng tôi làm lơ mấy trò hống hách của các cậu vì chúng tôi e sợ các cậu đâu nhỉ? Thành thực mà nói, chúng tôi không mời các cậu gia nhập tổ chức là vì các cậu không có vẻ gì là sẽ giúp ích cho chúng tôi cả. Nếu như chúng tôi phải đấu súng với bọn cảnh sát, thì tôi nghĩ chúng tôi có thể dùng các cậu làm khiên chống đạn, nhưng mà chúng tôi không muốn phải trả lương cho một cái khiên. Và chúng tôi không can thiệp vào chuyện của các cậu...”
Cậu ta ngừng một lát.
“...là để hướng sự chú ý của cảnh sát sang một chỗ khác. Nếu các cậu tiếp tục chơi trò du côn, thì họ sẽ không phải để mắt đến chúng tôi làm gì.”
Cậu ta chưa từng nghĩ về bất cứ chuyện gì trong số đó, song có lẽ nói vậy vẫn sẽ tốt hơn. Nếu như họ tuyển mộ mấy tên hề kia làm thành viên, họ sẽ chỉ bị cảnh sát nhắm đến nhiều hơn nữa, và đám Dallas chắc chắn sẽ cản đường họ.
Khi cậu ta ngẩng đầu lên, cả bốn tên, mặt đỏ phừng phừng, đều đang nhìn chằm chằm vào cậu. Cậu ta không nghĩ là chúng sẽ dốt nát đến độ gây rối trong căn cứ của một băng Mafia, song cậu ta không thể mất cảnh giác được.
“...Này... Nãy giờ anh lải nhải hơi bị nhiều rồi đấy. Anh thì biết cái thá gì về bọn tôi, hả?”
“Ít nhất thì tôi biết là một cậu trai rõ ràng nom trẻ hơn cả các cậu đã đánh cho các cậu thân tàn ma dại. Bởi chính miệng cậu vừa mới bảo tôi như thế, nên là tôi không nghĩ mình nói sai đâu.”
“Con mẹ m--!”
Dallas, tên cầm đầu, hoàn toàn không có ý định ngăn cản tên đồng bọn nóng tính của hắn. Có lẽ họ đang muốn phô bày lòng dũng cảm và kĩ năng của bản thân, song phương pháp ấy lại chỉ hữu dụng ở những nơi không có kỉ cương phép tắc.
“Fugwahah!”
Kẻ lao lên đầu tiên ngã rầm một cái xuống sàn nhà. Khi hắn ngước nhìn lên, Berga đã đứng ngay cạnh hắn, hai bàn tay nắm chặt.
“Berga.”
“Luck... Cái lũ rác rưởi mất nết này là sao?”
Sau một hồi suy nghĩ, người em út trả lời:
“Em không biết.”
“Hiểu rồi. Mày không biết bọn nó à? Vậy tức là bọn nó đã xâm phạm lãnh thổ của ta, đúng chứ?”
“Em còn suýt bị giết nữa.”
“Vậy à? Thế thì đây là tự vệ chính đáng nhỉ?”
Đối mặt với Berga đang lên gân lên cốt, ba tên còn lại thoáng cứng đờ người.
“Tôi có một ý như này, Dallas. Nếu các cậu đánh bại được Berga, chúng tôi sẽ công nhận thực lực của các cậu.”
Tâm trạng Berga hiện đang không tốt, và khác với Firo, anh ta không hề có ý định buông tha cho dù chúng có gục xuống. Bàn chân to bè, nặng trịch của anh ta dẫm đạp lên khuôn mặt của tên kia, hết lần này đến lần khác.
Ba phút sau... Bốn tên trai tráng trong trạng thái còn mệt mỏi hơn - hay nói cho đúng thì, tơi tả hơn - cả khi tới đây cuống cuồng chạy khỏi căn cứ.
Sau khi cả bốn tên đã chạy ra ngoài tầng hầm, Luck chợt phát hiện ra một thứ chúng quên mang theo.
“Hộp gì đây... Rượu à?”
Có hai chai rượu nằm gọn bên trong hộp. Liệu có phải chúng thuộc về mấy tên vừa mới bỏ đi không? Nếu thế, họ có thể vứt chúng đi hoặc uống chúng, nhưng nếu họ sai, thì vấn đề có thể sẽ trở nên rất nghiêm trọng.
Mình sẽ hỏi xem cái này là của ai khi mọi người đến đông đủ vào hôm sau.
Luck để cái hộp trên nóc cái tủ sắt, rồi tất tả chuẩn bị đi ra ngoài cùng với hai người anh.
Một cách chậm rãi, vóng xoáy vận mệnh bắt đầu xoay vần.
-----
Lúc ta tỉnh giấc, người đàn ông vĩ đại ấy đã đứng ngay trước mặt ta.
Ngài Szilard. Vị Chúa trong lòng ta, và cũng là người mà ta kính trọng nhất.
Ta nhìn một vòng, và thấy bối cảnh xung quanh quen thuộc quá đỗi. Phải rồi: Đây là nơi gặp mặt của các thành viên...gần Grand Central.
“Ennis... Sao ngươi không giết hắn ta?”
Ngài ấy không nhìn ta. Có vẻ như ngài ấy đang khiển trách tài xế riêng của mình, người đang đứng cạnh lối vào.
“Thưa ngài. Tôi nghĩ là chúng ta có thể làm thế sau khi tìm ra chân tướng sự việc.”
Những thành viên lớn tuổi đang xếp thành hàng phía sau ngài Szilard. Mọi khuôn mặt đều mang nặng vẻ tuyệt vọng. Mặc dù họ đã trưởng thành, song một số người vẫn bật khóc. Những người khác thì nhìn ta bằng ánh mắt đầy hận thù. Những cảm xúc ấy, cả tuyệt vọng lẫn thù ghét, dường như càng dữ dội hơn ở các bậc lão thành.
À, ta hiểu rồi. Bọn họ đang đau khổ vì ta đã không thể bảo vệ sản phẩm hoàn chỉnh. Một chính trị gia dường như không đủ khả năng trụ thêm một năm nữa thậm chí còn đang khóc oang oang.
“Hừm... Bớt ngụy biện đi. Ngươi có thể giết những kẻ lạ mặt mà không hề ngần ngừ, vậy nhưng khi đối tượng là kẻ mà ngươi quen biết dù chỉ một chút, thì ngươi lại nương tay. ‘Tìm ra’ ư...?”
Bàn tay của ngài Szilard đang tiến lại gần mặt ta.
Ồ. Vậy tức là ta sắp sửa bị giết.
Tuy nhiên, ta cũng không thể làm gì khác. Suy cho cùng, chính ta đã không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình.
Thật không ngờ là ta lại có thể để hi vọng cuối cùng ấy - hai chai sản phẩm hoàn chỉnh kia - bị đánh cắp, lại còn bởi cái lũ vô lại như bọn chúng. Ta phải thấy vinh dự vì được chết dưới tay ngài Szilard mới phải.
“Tất cả những gì ta cần làm để tìm ra...là thế này.”
Ngài Szilard đặt lòng bàn tay lên đầu ta.
Ngay lập tức, “nó” bị rút ra từ bên trong ta. Nếu được hỏi “nó” là cái gì, thì câu trả lời duy nhất ta có thể đưa ra là “mọi thứ.” Ta có thể cảm thấy toàn bộ máu hội tụ tại đầu mình. Tuy nhiên, trong đó không chỉ có máu. Ta có thể cảm thấy cơ bắp ta co rút và queo quắt dần đi, bắt đầu từ ngón chân. Ta cảm thấy xác thịt khô khốc của mình kêu lạo xạo, và bị hút vào trong cơ thể ta. A, đôi chân ta đã biến mất rồi.
Kí ức của ta... Ta có thể cảm thấy kí ức của ta đang dần biến mất... Ô... Giờ nghĩ lại thì, tất cả những gì thuộc về ta giờ sẽ trở thành một phần của ngài Szilard. Theo một cách nào đó, như vậy chẳng đồng nghĩa với việc có được sự bất tử ư? Nhưng tại sao ta lại muốn được bất tử nhỉ?
A, ta đã tan biến tới tận phần bụng rồi. Mau lên, ta phải mau lên và nhớ lại thôi. Nhưng tại sao bụng ta lại biến mất? À, người đàn ông đang ở trước mặt ta là ngài Szilard. Đúng thế, ngài Szilard đang trừng phạt ta. Nhưng ta tự hỏi tại sao ta lại bị trừng phạt... À, PHẢI RỒI, TA ĐÃ KHÔNG HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO. NHƯNG NHIỆM VỤ ĐÓ LÀ GÌ? TA KHÔNG TÀI NÀO NHỚ NỔI. ĐÚNG THẾ, CÓ GÌ ĐÓ TA CẦN PHẢI NHỚ.
À, DĨ NHIÊN. TA VẪN NHỚ, TA VẪN NHỚ MỌI THỨ.
TA MUỐN ĐƯỢC BẤT TỬ VÌ TA NGHĨ...
...MÌNH CÓ THỂ TRỞ THÀNH MỘT ANH HÙNG, GIỐNG NHƯ TRONG THẦN THOẠI VÀ CỔ TÍCH...
...VÀ BẢO VỆ VÙNG ĐẤT NÀY.
KHÔNG, KHÔNG PHẢI, KHÔNG PHẢI VÙNG ĐẤT NÀO CẢ.
LÀ MẸ. TẤT CẢ LÀ ĐỂ CỨU MẸ. KHỎI GÃ ĐÀN ÔNG ẤY, KẺ MÀ NGÀY NÀO CŨNG ĐÁNH ĐẬP MẸ.
GÃ TA LÀ AI? MÌNH KHÔNG TÀI NÀO NHỚ NỔI. MÌNH NHỚ LÀ HẮN CHẾT TRONG MỘT VỤ TAI NẠN NÀO ĐÓ.
HẮN CHẾT TRONG MỘT VỤ TAI NẠN. CÙNG VỚI MẸ.
MẸ LÀ GÌ? TA KHÔNG NHỚ NỔI.
NHỚ LÀ GÌ?
A...
A...
Một cảnh tượng kinh khủng quá đỗi.
Vào khoảnh khắc Szilard đặt tay lên đầu Barnes, Barnes bắt đầu teo tóp.
Không, “teo tóp” trong hoàn cảnh này là không đúng. Ở những nơi mà độ ẩm dường như đã biến mất, da thịt hắn tan nát, và thứ da thịt nát như bột ấy bị hút vào trong phần bề mặt còn lại... Nói cách khác:
Hắn đã bị ăn bởi tay phải của Szilard.
Đó là cách hoàn hảo nhất để diễn tả sự việc.
Bắt đầu từ những cái móng chân, cơ thể của Barnes dần bị xóa sổ khỏi thế giới.
Cuối cùng, đầu của hắn - bộ phận duy nhất còn lại - tan vỡ, nát bấy, và biến mất vào trong tay phải của Szilard như thể bị hút vào trong một cái máy hút bụi.
Khuôn mặt của những ông già trong phòng chợt tái xanh. Đến cả một tiếng nức nở cũng không còn nữa. Nếu như bọn họ dám rời khỏi căn phòng này... Bọn họ có chức vụ và quyền lực đáng kể, song giờ họ chẳng là gì ngoài một nhóm người già cả bị chi phối bởi cơn ác mộng vừa mới diễn ra ngay trước mắt.
“Được rồi, thưa các quý ông.”
Người phá vỡ sự im lặng ấy chính là tác giả của cơn ác mộng kia, Szilard.
“Ta đã nhìn vào kí ức của hắn, và cho đến tận thời khắc cuối cùng... Đúng thế, ngay cả khi ta giết hắn, hắn vẫn dành cho ta lòng kính trọng và trung thành tuyệt đối... Thực sự quá tuyệt vời! Ta khuyến khích những quý ông như các ngươi đi theo gương hắn ta!”
Kết quả sau cùng chỉ là một đống quần áo trên sàn nhà, đi kèm với một đôi giày.
Câu nói vừa rồi nghe không khác gì một trò đùa thất bại, nhưng ông ta lại nói bằng tất cả sự trịnh trọng đang có, và dĩ nhiên không một ai bật cười cả.
“...Và may thay: Có vẻ như hắn đã cứu được hai chai sản phẩm hoàn chỉnh khỏi đám cháy.”
Sau một khoảng lặng ngắn, tiếng náo động chợt rộ lên. Căn phòng vừa mới bị bao trùm trong nỗi sợ và sự tuyệt vọng sắp sửa quay ngoắt sang hạnh phúc.
“Mặc dù có vẻ như chúng đã bị đánh cắp.”
Niềm hạnh phúc lập tức mờ đi.
“Tuy nhiên, ta biết nơi mà chúng bị đánh cắp, và khuôn mặt của những kẻ đã đánh cắp chúng. Nếu may mắn, chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại chúng về.”
Một lần nữa, tiếng náo động lại vang lên. Đối với họ, để lỡ cơ hội này cũng đồng nghĩa với bị ép phải chấp nhận cái chết. Đối với Szilard, người đã ngừng lão hóa, điều đó chỉ có nghĩa là quá trình sản xuất bất tử dược sẽ bị kéo dài thêm, nhưng với những người bị tuổi già săn đuổi và không còn trẻ trung gì nữa, thì đây thực sự là một vấn đề sinh tử.
Trước mặt những ông già với đôi mắt lấp lánh đầy thèm thuồng, Szilard ngẫm nghĩ về những chuyện khác.
Kể cả khi sản phẩm hoàn chỉnh có được tạo ra, thì trao nó cho mấy tên vô dụng kia cũng chẳng được gì. Đối với những kẻ có một trái tim trung thành như Barnes, thì ta còn có thể cân nhắc, nhưng cuối cùng thì hắn cũng chết rồi... Chà, chính ta đã giết hắn, nhưng sự thật là vậy.
Thứ ta muốn không phải là quyền lực hay tiền bạc. Mà là lòng trung thành tuyệt đối...cũng như những tri thức hoàn hảo. Chỉ thế thôi. Ngay khi nó được hoàn thành... ta sẽ không còn cần gì bọn kia nữa. Chúng có thể biến mất, nuôi dưỡng cho tri thức của ta... Hừm. Dẫu vậy, ta cũng không nghĩ là kiến thức của chúng ngon lành gì, và ta sợ chúng sẽ trở thành gánh nặng trong đầu ta.
Trong khi nhờ cậy những “công cụ” trung thành của mình chế tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, Szilard cũng tự mình nghiên cứu riêng. Đối tượng thí nghiệm bao gồm cả cơ thể của ông ta, và qua đó, ông ta đã biết được một vài chi tiết rất quan trọng. Tuy nhiên, ông ta vẫn chưa thể xác thực chúng, thế nên chúng hiện mới chỉ là những phỏng đoán đơn thuần.
Thứ nhất, là về lí do tại sao cơ thể ta tái tạo được. Có vẻ như chúng ta đã chết vào thời điểm uống thứ rượu ấy. À, không, không phải chết... Nói cho chính xác hơn thì chúng ta đã tái sinh.
Sau một loạt những thí nghiệm lặp đi lặp lại, ông ta đã luận ra rằng cơ thể bất tử của mình cũng tương đồng với một quần thể sinh vật. Kể cả khi ông ta bị chém thành từng miếng, từng cá thể riêng biệt vẫn cố gắng tái tạo lại hình dạng ban đầu, tất cả tổng hợp lại thành một.
Còn hơn cả cấp độ tế bào... Cứ như thể từng phân tử riêng biệt - không, từng nguyên tử - đều đã được chuyển hóa thành một sinh vật sống.
Ông ta đã từng hỏa thiêu một nhà giả kim tìm cách ăn mình, song khói từ đám cháy lại không bị gió cuốn đi. Thay vào đó, nó tiếp tục bao quanh người đàn ông đó, rồi biến mất khi ngọn lửa tàn lụi và người đó lại tái phục hồi. Tính đến việc quá trình phuc hồi diễn ra ngay từ tro bụi, có thể hình dung rằng hiện tượng này nằm ngoài cả cấp độ phân tử.
Năm 1897, nhà khoa học người Anh Thomson phát hiện ra electron; năm 1911, học trò Rutherford của ông phát hiện ra nguyên tử hạt nhân, và kiến thức về sự tồn tại của những hạt hạ nguyên tử bắt đầu lan truyền khắp thế giới.
Cứ đà này, chắc hẳn tầm hai đến ba năm nữa thì con người sẽ phát hiện ra một loại hạt mới. Liệu quá trình chuyển hóa thành sinh vật sống này còn có thể sâu xa và tinh vi đến mức nào nữa? ...Thế nhưng, cho dù có là một trăm năm nữa, đám khoa học gia duy lý ấy vẫn sẽ không thể nào hiểu được cái sự bất tử này. Ta có thể cảm nhận được những nguyên tắc nằm ngoài tư duy khoa học của thế giới này... Với lại, ta cũng thực sự không nghĩ là có thể áp dụng nguyên lí khoa học lên một thứ sức mạnh đến từ việc triệu hồi quỷ.
Trong trường hợp đó, thay vì kết luận nó là một phản ứng khoa học, tại sao lại không coi thứ rượu ấy như một phương tiện để triệu hồi những luật lệ từ một thế giới khác sang thế giới này? Ông ta đã hoàn thiện cách thức chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh dựa trên “kiến thức” của một bằng hữu từng nghiên cứu theo góc độ trên... Vì quy trình chưng cất đã thành công, suy luận kia dường như đã chính xác.
Và còn một điều nữa: Bản thân quần thể chính là lí do đằng sau việc “ăn” và “không thể sử dụng tên giả.” Những sinh vật siêu vi hội tụ quanh “tri thức” của một người bất tử có khuynh hướng hấp dẫn nhau rất mạnh mẽ. Nói cách khác, hành động ăn có lẽ là một cách để hợp nhất hai quần thể, dựa trên một nguồn tri thức và diễn ra thông qua tay phải. Một quần thể ong không có chỗ cho hai ong chúa. Thế nên mới chỉ có một tri thức còn sót lại.
Rồi còn vấn đề tên giả. Ông ta đã có thể sử dụng tên giả đối với tất cả mọi người bình thường. Tuy nhiên, mỗi khi ông ta cố gắng làm thế đối với người bất tử, hoặc khi viết tên mình lên các tài liệu...
Không cần biết ta có làm gì, ta cũng không thể sử dụng tên giả. Con quỷ gọi đó là một ràng buộc được áp chế lên linh hồn, nhưng...ta lại thấy như thể toàn bộ tế bào trong cơ thể mình, từ đầu đến chân, đều đang ra lệnh cho ta. Ta cảm thấy chấn động, một cơn “run rẩy,” không phải từ đầu ta, mà là từ chính cơ thể ta... Nhiều khả năng, từng cá thể trong quần thể tế bào này đều muốn hòa làm một với những cá thể cùng loại khác... Chẳng lẽ đó là lí do chúng không cho phép ta che giấu thân phận hoàn toàn?
Tuy nhiên, ông ta lại có thể sử dụng tên giả đối với những người bất tử tạm thời nhờ được ban cho sản phẩm thất bại.
Có vẻ như chúng biết rằng bọn kia không phải là chủng loài để dung hợp, mà chỉ đơn thuần là “thức ăn” ...Khư-khư-khư... Quả đúng là một hệ thống tuyệt vời.
Thế nhưng, vẫn còn nhiều điều chưa được giải thích, chẳng hạn như chuyện khối lượng của những kẻ bị “ăn” đi về đâu. Szilard cực kì khó chịu vì những khoảng trống về mặt tri thức ấy.
Nếu như ông ta biết cách pha chế sản phẩm hoàn chỉnh, thì ít ra ông ta cũng có thể đến gần tri thức hoàn hảo hơn một chút, nhưng...
Em trai của người đàn ông kia lại chỉ biết một nửa phương pháp pha chế.
Ông ta đến New York này là để ăn người đàn ông đã khám phá ra phương pháp kia, nhưng cuối cùng lại chẳng thu được lợi lộc gì. Thế nhưng, một khi đã có được sản phẩm hoàn chỉnh thực sự, chắc chắn ông ta sẽ xây dựng được phương pháp pha chế riêng. Ông ta không quan tâm đến chuyện thứ tự mấy, miễn là cuối cùng vẫn thu về tri thức với sản phẩm hoàn chỉnh.
Suy cho cùng thì, nếu như ta có được một vốn tri thức đầy đủ, của cải và lòng trung thành cũng sẽ tới theo. Vì lí do ấy, trước tiên ta phải có sản phẩm hoàn chỉnh...
Cách thức để triệu hồi một con quỷ, và phương pháp cụ thể để pha chế nên thuốc trường sinh.
Lũ nhãi ranh khốn kiếp. Những kẻ biết được cả hai điều – đều là những thông tin ta không hề biết – cùng một lúc...
Các ngươi đang ở đâu?
“...À phải rồi, Ennis. Hình như có một tên nào đó đang tìm ngươi.”
Ennis cảm thấy đôi chút hoang mang trước những lời của ông chủ. Cô hoàn toàn không biết người đấy có thể là ai.
“Để xem nào... Ta có thể chia sẻ thông tin ngược về phía ngươi. Ta sẽ cho ngươi thấy ngay bây giờ.”
Nói xong, Szilard lập tức đặt tay trái lên đầu Ennis. Đôi mắt của đám khán giả chợt mở toang, song Ennis lặng lẽ chấp nhận nó. Một khoảng lặng ngắn tiếp diễn, và rồi hàng loạt khuôn mặt ùa vào tâm trí cô.
Một nhóm gồm bốn tên du côn. Cô đồng thời còn biết chúng là những kẻ đã đánh cắp sản phẩm hoàn chỉnh. Khuôn mặt xuất hiện kế tiếp thuộc về người đàn ông đang tìm cô. Người đó là ai? Cô cảm thấy như thể mình đã từng gặp người này ở đâu đó, song cô không thể nhớ được nơi đó là đâu.
“...Bằng mọi giá, phải mang được bốn tên đấy về đây.”
“Rõ, thưa ngài.”
Ennis rời khỏi phòng một lần nữa. Vừa dõi theo cô ta, Szilard vừa mông lung suy nghĩ.
Ông ta không nghĩ chuyện đó là khả dĩ, nhưng liệu người đàn ông đang tìm cô ta có phải một đồng chí cũ của ông ta không?
Không, không thể như vậy được. Không ai biết về Ennis cả. Ta đã ăn hết những kẻ biết cô ta thực sự là gì rồi. Không còn một nhà giả kim nào biết về Ennis nữa, và nếu như chúng có tấn công cô ta, thì ta cũng chẳng bị ảnh hưởng gì hết. Trước kia thậm chí còn có một tên nghĩ cô ta chỉ là người phàm, rồi bất cẩn và bị ăn mất.
...Giờ nghĩ lại thì, đấy cũng là lúc chuyện bắt đầu. Lúc mà Ennis tỏ ra lưỡng lự khi thủ tiêu bọn chúng. Có lẽ cô ta đã học phải vài thứ tri thức thừa thãi rồi.
Mà thôi, cũng không sao. Nếu như cô ta trở thành vật cản, thì ta sẽ xóa sổ cô ta.
Giết chết cô ta dễ hơn nhiều so với “ăn” cô ta.
Ennis biến mất qua cái lỗ trên trần nhà.
Szilard nhắm hai mắt. Khóe môi ông ta cong thành một nụ cười.
-----
“Vâng... Tôi là Trợ lí thanh tra Edward Noah.”
Lời chào hỏi mà Edward đưa ra tràn đầy tinh thần hơn hẳn những lời chào anh ta thường dùng với cấp trên.
Bộ đôi trước mặt anh ta là những đặc vụ đến từ Cục Điều tra. Họ cũng không hẳn là quá quyền cao chức trọng hay gì. Chỉ là Edward sẽ bắt đầu thực tập cùng với họ từ tuần sau, và họ sẽ là những bậc tiền bối trong bộ phận mới. Chuyện đó, cộng với chuyện anh ta đã mong chờ chức vụ này từ lâu, khiến cho hai người đàn ông kia nom còn chói lóa hơn sếp của anh ta gấp vạn lần.
“Ừm... Cảm ơn lòng nhiệt thành của cậu. Ờm... Tôi là Bill Sullivan, còn đây là...”
“Donald Brown.”
Brown, người đứng bên cạnh anh chàng Sullivan gầy gò, ngắt lời đồng nghiệp của mình và tự giới thiệu bản thân. Anh ta có vóc dáng lực lưỡng, và bàn tay đang nắm hờ lấy tay của Edward nhìn to gấp đôi bàn tay kia.
Cấp trên của anh ta đã dặn trước anh ta đôi điều. Có vẻ như hai người này đang truy lùng những nghi phạm tham gia vào một loạt những vụ trộm cắp xuyên suốt các bang. Edward được lệnh phối hợp điều tra cùng họ với tư cách thành viên của lực lượng cảnh sát địa phương.
“Vậy thì... Tôi nghĩ là cậu có lẽ cũng được nghe rồi, nhưng tôi vẫn sẽ tóm tắt lại một chút. Ừm... Nhìn vào bức ảnh này đi...”
Như một lẽ dĩ nhiên, tất cả những gì Edward được bảo chỉ là hiện đang có một loạt những vụ trộm cắp, đồng nghĩa với việc đây sẽ là lần đầu tiên anh ta được nghe thông tin chi tiết.
Bức ảnh trong tay anh ta chụp lại một đôi nam nữ quấn băng kín từ đầu đến chân. Anh ta biết một trong số họ là phụ nữ, bởi cô ta đang mặc trùm một chiếc váy cưới qua lớp băng kia. Về phía người có lẽ là đàn ông, anh ta chẳng mặc gì ngoài lớp băng gạc trên người cả. Anh ta quấn băng khéo đến nỗi những thứ duy nhất lộ ra chỉ có miệng và mắt, nên cũng có thể nói là không sao cả, thế nhưng...
“............”
Suốt mấy giây tiếp theo, Edward chỉ biết im lặng.
Chẳng lẽ đây là một trò đùa của Cục Điều tra?
Thấy anh ta băn khoăn không biết trả lời gì, Bill cười nhăn nhở và bắt đầu giải thích.
“Ừm... Tôi biết nói sao đây nhỉ? Hừm... Hai bọn họ thực sự là nghi phạm đấy. Bức ảnh này được chụp bởi một nhà báo, vì tò mò đơn thuần thôi. Có vẻ như bọn họ cũng khá thích được chụp ảnh nữa. Ừm... Và rồi, cậu biết đấy. Tôi cũng chả biết phải diễn đạt kiểu gì...”
Donald, với bộ dạng cứ như không thể nào chịu đựng nổi cái giọng ậm ừ của người đồng nghiệp, tiếp tục giải thích phần còn lại:
“Ngay sau đó, hai bọn họ tiến hành một vụ trộm. Khi cảnh sát truy đuổi theo, tất cả những gì họ thấy là đống băng gạc và cái váy cưới bị bỏ lại ở vệ đường. Thứ duy nhất mà các nhân chứng kể lại chỉ có mỗi “băng gạc,” hiểu chứ? Họ chẳng có đầu mối chắc chắn nào hết.”
Ra là vậy. Như thế cũng khá là hợp lí; nếu ban đầu họ xuất hiện trong một bộ đồ phô trương rồi lại giả trnag thêm lần nữa, tỉ lệ đào thoát thành công của họ sẽ tăng lên đáng kể... Miễn là bọn họ có chuẩn bị trước một chút.
“Bọn họ cũng đã từng mặc áo choàng với đeo mặt nạ đen, đội mũ chóp và cầm gậy – Nói chung là đủ thứ trang phục dở hơi. Tính đến nay, họ đã thực hiện hơn tám mươi vụ trộm cắp.”
“Thế thì...tại sao vẫn chưa có ai bắt được đám hề đấy thế?”
Anh ta nghĩ đó là một câu hỏi thô lỗ, song anh ta vẫn phải hỏi.
“Ừm... Biết nói làm sao nhỉ...? Bởi vì thiệt hại họ gây ra, ừm...là không đủ để lọt vào tầm ngắm của Cục Điều tra cho tới bây giờ. Ừm... Vụ đầu tiên là trộm đồng hồ, nhớ không nhầm là vậy. Rồi là trộm kẹo với sô cô la... Cũng có lần bọn họ trộm cửa vào của một bảo tàng nữa. Chỉ mỗi cánh cửa thôi.”
Edward thở dài trong lòng. Chẳng lẽ đặc vụ của Cục Điều tra lại phải chạy khắp đất nước chỉ để bắt mấy tên điên này ư?
“Tuy nhiên, như cậu đã biết đấy, vụ trộm diễn ra ở New Jersey hồi tháng trước lại là một vấn đề lớn. Bọn họ trộm toàn bộ tài sản của ngài triệu phú Genoard, cho tới tận xu cuối cùng.”
Edward chưa từng nghe gì về vụ đó.
“...Nhưng mà vụ đấy không có trên báo, phải không?”
“Người thân của ngài Genoard không muốn công khai vụ đó. Họ bảo là nó sẽ phương hại đến danh dự của cả gia tộc.”
Một lũ ích kỷ hết chỗ nói. Tội phạm được thế hoành hành trên khắp thế giới này đều là do những kẻ như chúng mà ra. Edward gần như đã giận điên người, nhưng khi nhận thấy giữ cho bên báo giới im lặng cũng chẳng thay đổi được gì mấy, anh ta đành kiềm chế lại.
“Cơ mà, chẳng nhẽ lại không có vụ nào trước đấy được đăng lên báo ư? Phải công nhận là thiệt hại không quá... Nhưng mà vẫn lạ thật.”
“Ừ, dạo gần đây người ta chỉ chú ý đến 'Mặt sẹo' với Luciano thôi.”
Mặt sẹo. Biệt danh lừng lẫy một thời của Alphonso Capone.
“À... Mặt sẹo, hừm...? Vào cái hồi hắn chuyển đến Chicago, và ai ai cũng nghĩ hắn sẽ leo lên đỉnh cao ấy... Hắn thậm chí còn chưa được ba mươi tuổi. Giờ hắn cũng mới có ba mốt thôi. Một đứa trẻ quê ở Brooklyn trở thành một ông trùm lớn, Kẻ thù số một của xã hội, trước cả khi ai đó kịp nhận ra... Tôi nói thật nhé, lịch sử nước Mĩ không có nhiều bậc kì tài như hắn đâu.”
“Làm ơn đừng nhắc đến thằng cặn bã đấy.”
Đúng là Capone đã phóng vun vút trên hệ thống phân cấp của thế giới ngầm từ khi còn rất trẻ. Nhìn theo khía cạnh đó, có thể thấy hắn có tài năng bẩm sinh, và cũng đáng được coi là một kẻ chăm chỉ. Tuy nhiên, Edward không bao giờ công nhận tài năng hay nỗ lực của đám tội phạm.
“Mm... Dù sao đi nữa, có vẻ như lập trường của mấy ông cậy quyền cậy thế với mấy ông chính phủ vẫn chỉ là 'Mafia không tồn tại' thôi... Bọn họ còn bảo ngay cả Capone cũng chỉ là “một tên du côn” nữa...Lúc nào đám thấp cổ bé họng chúng ta cũng phải xử lí mấy cái vấn đề thực sự tồn tại. Aa... Mệt thật đấy.”
Trong khi Bill chỉ trích cấp trên với một nụ cười nhăn nhó, Bill nhẹ nhàng nhắc nhở anh ta.
“Bill này... Cẩn thận những gì cậu nói đấy. Nếu mấy ông 'cậy quyền cậy thế' kia quyết định là họ không còn ưa cậu nữa, thể nào họ cũng sẽ hủy hoại đời cậu ngay.”
“Ôi... Sợ quá, sợ quá. Tôi không nghĩ làm việc cho mấy ông sếp đáng sợ hơn cả Capone là ý hay đâu...”
Donald bật cười, dù chỉ một chút. Rồi anh ta lấy lại vẻ nghiêm túc và nói chuyện với Edward.
“Chà, chúng tôi cũng không phải kẻ thù duy nhất của Capone. Tôi không nghĩ là đám mafia New York nghĩ tốt về hắn lắm... Tại hắn giết nhiều quá mà.”
Đó là sự thật. Không ít tổ chức Mafia cầm đầu New York đã từng tỏ ý không hài lòng trước những phương pháp tàn nhẫn của Capone. Họ thậm chí đã bắt đầu bàn đến chuyện đưa Johnny Torrio thuộc phe ôn hòa lên làm người lãnh đạo thế giới ngầm. Capone đã khiêu chiến với cả mặt sáng và mặt tối của nước Mĩ cùng một lúc.
Đột nhiên, khuôn mặt Firo hiện lên trong tâm trí Edward. Cậu ta cũng sắp sửa trở thành một ủy viên ở độ tuổi vô cùng trẻ. Liệu cậu ta có đi theo con đường ấy? Liệu cậu ta có phải kiểu người sẽ leo lên đỉnh cao thông qua thế giới ngầm, giống như Capone?
Không, mình sẽ không để nó làm thế. Mình sẽ tống nó vào tù trước khi chuyện đó xảy ra; cứ chờ đấy. Mình cũng sẽ quét tan cả cái gia tộc Martillo nữa. Phải, nó còn trẻ, và đấy là sự thật... Chính vì thế, nếu hành động ngay bây giờ, có lẽ chúng ta vẫn còn có thể uốn nắn được nó.
Khi thời khắc ấy đến, mình nguyện cống hiến toàn bộ sức lực.
“--Ừm... Nhân tiện thì, quay trở lại mấy tên trộm cắp...”
Anh ta bị lôi tuột về hiện thực. Đối thủ của anh ta không phải một ông trùm như Capone, hay một tổ chức nhỏ như nhà Martillo. Mà là một cặp đôi quấn băng kín người.
Edward lại thở dài. Tâm trạng anh ta tụt dốc không phanh.
-----
“Phù. Cuối cùng cũng hết đau.”
Vừa xoa xoa cánh tay sưng tấy của mình, Isaac vừa thở dài nhẹ nhõm.
“Cuối cùng cũng hết, nhỉ.”
Cũng không hẳn là cô cảm nhận được cơn đau của Isaac hay gì, song Miria vẫn đồng ý với cậu ta.
Bộ đôi trộm cắp, những người vừa mới bị ô tô tông phải, đang dạo bộ dọc Broadway với đống mũ và mặt nạ mà, thần kì thay, không hề bị trầy xước. Ngay cả khi có người để mắt đến cặp đôi, họ cũng chỉ nghĩ là hai người này có liên quan đến một vở nhạc kịch nào đó, thế nên không một ai quá chú ý đến họ cả.
“Cơ mà, cái hộp thiếc ồn ào dám làm quả hit-and-run ấy—Lần sau mà thấy nó, chắc chắn anh sẽ làm cho nó xấu xí đến khủng khiếp!”
“Xấu xí!”
“Anh sẽ đánh nó!”
“Như vậy thì gãy tay mất.”
Miria đôi lúc cũng tung ra những câu đáp trả đầy thuyết phục. Tuy nhiên, Isaac vẫn không chịu thua.
“Thế thì... Anh sẽ đánh bất cứ ai cầm lái nó!”
“Anh định lôi hắn ra kiểu gì?”
“Thế thì...Anh sẽ nhổ lên nó!”
“Ồ, tuyệt thật đấy!”
Không lâu sau, hai người họ đã bước vào trong một con hẻm vắng người và bắt đầu thảo luận về phi vụ kế tiếp.
“Được rồi... Hành trình của chúng ta đã chạm đến mốc cao trào.”
“Đúng thế!”
“Đó là một hành trình dài, và giờ nghĩ lại thì... Phải. Đầu tiên, chúng ta là kẻ trộm thời gian!”
“Là cái lần chúng ta ăn trộm đồng hồ, nhỉ?”
“Rồi sau đó là một phi vụ lớn... Phi vụ mà chúng ta cố ăn trộm cả một viện bảo tàng.”
“Dù cuối cùng thì chúng ta nhận ra điều đó là không thể.”
“Đúng vậy, thế nên, để ít ra những người khác cũng không thể vào trong...chúng ta đã ăn trộm cửa vào!”
“Mấy cánh cửa đấy là giải thưởng nặng nhất của chúng ta!”
Không một ai có thể cản lại cặp đôi kia. Thật khó để có thể khẳng định rằng cuộc trò chuyện này đang diễn ra hoàn toàn tự nhiên, hay đây thực chất là một kiểu tự thôi miên để trốn tránh hiện thực nữa.
“Có một lần, để trở thành ác nhân, chúng ta đã ăn trộm nguồn lương thực của một đám trẻ!”
“Đúng thế, chúng ta ăn trộm sô cô la. Dám cá là bọn trẻ con ở thị trấn đấy chết hết rồi! Tội nghiệp!”
Mấy người này thậm chí còn đáng để “tội nghiệp” hơn. Chẳng lẽ hồi nhỏ họ chỉ ăn mỗi sô cô la thôi ư? ...Đó có thể sẽ là những gì người khác nghĩ khi nhìn vào họ.
“Chúng ta đã biết hối lỗi, quyết định chỉ làm việc tốt kể từ thời điểm ấy...và rồi, chúng ta thực hiện một phi vụ.”
“Phải, là vụ đó!”
“Chúng ta ăn trộm tài sản của một nhà giàu!”
“Giờ thì sẽ không còn cuộc chiến giành quyền thừa kế nào nữa!”
“Chúng ta đã bảo vệ hạnh phúc của một gia đình.”
“Dám cá là giờ họ đang hạnh phúc lắm.”
Họ hoàn toàn không hề biết rằng, chính vì phi vụ đó, Cục Điều tra đã bắt đầu hành động. Thế nhưng, chuyện họ có biết đến sự tồn tại của một tổ chức mang tên Cục Điều tra hay không lại cũng là một chuyện đáng để bàn cãi.
“Thế nên! Bởi vì làm việc tốt khiến cho chúng ta thấy hạnh phúc, hãy tiến hành một phi vụ tốt làm phi vụ cuối cùng!”
“Phi vụ kiểu gì cơ?”
“Chúng ta sẽ ăn trộm tiền bẩn của Mafia!”
Cậu ta đề cập đến một chuyện không hề đáng cười, cho dù chỉ để đùa đi chăng nữa, nhưng may thay, quanh đó không còn ai nữa cả.
“Tuyệt quá đi! Isaac này, anh cứ như là Momotarou ấy!”
“Mo-Mo-Ta-Row?”
“Đó là một câu chuyện cổ tích ở Trung Quốc hay là đâu đó ấy! Một anh chàng cùng với thanh katana và tùy tùng của mình đột kích vào hang ổ của một con chằn tinh, đánh nhau, rồi ăn cắp toàn bộ chỗ tiền vàng mà con chằn tinh thu thập được!”
Cô có kể sai một vài chỗ, nhưng Isaac lại không biết được sự thật, và cậu ta lập tức tin theo nó.
“Hiểu rồi, hiểu rồi! Tức là một phản anh hùng chứ gì!”
“Isaac ngầu quá!”
“Hãy để cho linh hồn của những đứa trẻ đã khuất sống mãi trong tim chúng ta.”
Có vẻ như, đối với họ, vụ trộm sô cô la đơn thuần đã biến thành một thứ gì đó tương đối khủng khiếp.
“Ngầu thật đấy!”
Trong lúc họ đang tiếp tục cuộc trò chuyện ngốc nghếch ấy, một nhóm bốn người bước về phía họ.
Isaac và Miria đã né sang một bên, song bọn họ lại quá ngạo mạn, và bọn họ không hề nhường đường gì hết. Kết quả là... Cánh tay của một trong số họ đã va phải Miria, và cô chợt loạng choạng, dù chỉ một chút.
“Này, cẩn thận chứ!”
“Cẩn thận chứ!”
...Và vòng xoáy định mệnh lại tiếp tục xoay vần.
Dallas Genoard hiện đang vô cùng cáu kỉnh.
Tất cả đều bắt nguồn từ tháng trước, khi mà tài sản của gia đình hắn ở New Jersey bị trộm sạch.
Ông nội hắn vừa mới chết, và một khoản thừa kế khổng lồ đã ở rất gần với hắn ta.
Mẹ của hắn vốn đã qua đời từ trước, và hắn chỉ còn lại đúng ba người thân trong gia đình: anh trai hắn, em gái hắn, và cha hắn.
Hắn định sẽ giết chết cha mình, rồi đổ hết tội lên đầu ông anh trai.
Nếu mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, đại đa số phần thừa kế của cha hắn sẽ rơi vào tay hắn ta. Sau đó thì hắn sẽ bịa ra một lí do nào đấy với em gái mình và gom nốt phần còn lại.
Một kế hoạch vô cùng hoàn hảo. Hắn không hề có ý định xem xét lại nội dung của nó, nhất là giữa lúc gấp rút ấy, nhưng nếu hắn biến nó thành hiện thực thì nó có lẽ sẽ là một tội ác không tì vết... Thế nhưng.
Vào cái đêm hắn về nhà để thực hiện kế hoạch đó, ngôi nhà đã bị trộm đột nhập.
Rất nhanh chóng, hắn thấy một vài gia nhân đang bị trói gô lại, và toàn bộ những tài sản bên trong két – tiền mặt, chứng thư, trang sức – đều đã biến đi đâu mất. Không một tay bảo vệ nào nhận ra sự việc cả.
Hắn nghĩ rằng đây chắc hẳn là tác phẩm của một ai đó cực kì sắc bén... Mặc dù hắn vẫn còn hơi băn khoăn ở chỗ, theo lời khai của gia nhân trong nhà, thủ phạm là “thổ dân da trắng,” cũng như việc chúng để lại một mẩu giấy có ghi “Bọn ta đã lấy đi nguồn cơn bất hạnh của các ngươi” bên trong két.
Cuối cùng, không một đồng thừa kế nào rơi vào tay hắn cả, và hắn buộc phải rời đi mà không thể thực hiện kế hoạch đã đề ra từ trước.
Sẽ tốn kha khá thời gian để bán đất, và bởi nó chỉ là bất động sản rẻ tiền ở nông thôn, nó cũng sẽ không thu lợi được nhiều... Thế nên, nếu hung thủ vẫn chưa bị bắt, thì liệu hắn có nên tiếp tục canh bạc liều lĩnh ấy, dù chỉ vì lợi nhuận từ việc bán đất hay không?
Hắn đã quay lại với quả táo lớn này ngay giữa lúc ngẫm nghĩ về mấy chuyện kiểu vậy, và hiện giờ, hắn đang làm những gì hắn muốn. Hắn cùng đồng bọn hình thành thói quen dọa dẫm người qua đường rồi moi tiền từ những người đó.
Ngay khi hắn bắt đầu thấy khó chịu với cái thói quen ấy, lão già kia – cùng với Firo – xuất hiện.
Cái thằng nhãi lắm mồm đấy!
Cậu ta rõ ràng là nom trẻ hơn Dallas tới tận mấy tuổi. Vừa nhớ lại khuôn mặt của cậu trai ấy, hắn vừa nghiến răng kèn kẹt.
Làm như tao sẽ để cho cái thằng khốn nạn đấy lấy tao ra làm trò đùa rồi an nhàn bỏ đi ấy!
Nhưng chính cậu ta đã một mình xử gọn cả bốn bọn chúng.
Nếu như tao có nhiều đồng bọn hơn... Hoặc là, không, nếu như tao có một khẩu súng...
Dallas không có cả hai, thế nên hắn đã đi đến một nơi sở hữu hai thứ đó. Hắn nghĩ rằng nếu một thành viên của một tổ chức khác hành xử như thể mình cầm đầu cả chỗ này, thì những kẻ cầm đầu thực sự chắc chắn sẽ ra tay. Nhưng hắn đã cực kì nhầm.
Kết quả là, bọn chúng phải lãnh thêm đủ loại vết bầm nữa và lại tiếp tục lẩn lút quanh thành phố này.
Chết tiệt. Nhất định tao sẽ giết chết cả thằng kia lẫn đám Gandor đấy.
Vừa đi vừa tức tối, hắn mất đi khả năng chú ý đến xung quanh... Dù sao đi nữa, cũng không phải là hắn thường xuyên chú ý đến xung quanh trong lúc đi hay gì.
Cánh tay hắn va phải một thứ gì đó.
Hắn quyết định làm ngơ nó và tiếp tục đi.
Ai đó ở phía sau đang la hét gì đó.
Khi hắn quay đầu lại, một cặp đôi ăn mặc kì quái đang càu nhàu với hắn ta.
Ác ý nổi lên, Dallas quyết định hành hung chàng trai và cưỡng hiếp cô gái.
Hắn không hề cảm thấy dù chỉ một chút tội lỗi.
Ennis đã tìm thấy những kẻ mà cô đang truy lùng, song cô không chắc là mình có nên tấn công hay không.
Nếu như chỉ có mỗi bốn tên kia thì không thành vấn đề, nhưng ở đó lại còn có hai người không phải mục tiêu nữa.
Không những vậy, cô còn nghĩ là mình đã gặp hai người này ở đâu đó rồi.
Khi cô để mắt đến cái nón sắt kiểu Nhật trên tay chàng trai, cô chợt nhớ lại mọi sự.
Đó là cặp đôi mà cô va phải trong lúc đang lái xe vào sáng hôm ấy.
Và hai người họ đang đi cùng với bốn tên mà cô đang nhắm vào...
“Con mẹ mày!”
Một trong số bốn tên đấy vung nắm đấm về phía chàng trai. Anh chàng cao lêu nghêu ấy không tài nào chống trả nổi: Cậu ta ăn phải một đấm vào bụng và ngã cái phịch xuống đất. Lấy đó làm phát súng mở màn, ba trong số chúng bắt đầu đá và đá và đá cậu ta...
“Eeeeeek, Isaaaaac!”
Tên còn lại thì đang kẹp chặt lấy hai vai của cô gái bằng khuỷu tay.
Chắc chắn họ không phải bạn bè với bốn tên này. Ngược lại, nếu tình hình không có gì thay đổi, nhiều khả năng họ sẽ bị giết.
Ngay lập tức, Ennis đảo mắt khắp xung quanh. Có vẻ như không một ai định đến đây cả. Dĩ nhiên, nếu bốn tên kia bị cảnh sát phát hiện và bắt giữ, cô sẽ lại phải gánh vác thêm một vấn đề.
Thế nhưng, nếu cô đi ra ngoài đó, chàng trai và cô gái kia sẽ nhận ra khuôn mặt của cô.
Sau một thoáng chần chừ, cô bước vào trong con hẻm.
Khi cô đến đủ gần để chạm vào hắn, tên đang khóa vai cô gái kia nhận ra cô.
“...Sao thế, cục cưng? Bộ đồ lạ đ--”
Hắn bị cắt ngang giữa chừng.
Vẽ một đường cong mượt mà trên không trung, một cú đá vòng tiếp nối thẳng với thái dương hắn.
Lúc Szilard ban tặng cho cô hàng loạt những “tri thức” khác nhau, ông ta đồng thời cũng ban cho cô những kĩ thuật cận chiến đặc thù. Và trên hết, cô không chỉ đơn thuần là thấu hiểu chúng bằng bộ não. Cô thấu hiểu chúng bằng cả cơ thể.
Cô đã tung ra thành công cú đá ấy với sự thăng bằng tuyệt đối, như thể đã luyện tập nó hàng nghìn lần. Nếu như được Szilard ban kiến thức, chắc chắn cô cũng sẽ có thể cưỡi ngựa hoặc khiêu vũ thuần thục ngay lần thử đâu tiên.
“...Cái quái gì đây?”
Ba tên còn lại ngừng vung cước và quay sang nhìn cô. Còn tên vừa mới phải chịu đòn thì nằm bẹp dưới đất, toàn thân bất động. Được giải thoát, cô gái chạy một mạch đến chỗ bạn trai (?) của mình.
Không nói không rằng, Ennis lại gần Dallas và mấy tên kia, rồi tung một đấm vào cái bụng gần nhất. Cô hơi cong mình về phía trước, nhắm thẳng vào trung tâm của mục tiêu.
Tên đó gập đôi người, ngả mình về phía cô. Rất nhanh chóng, Ennis né sang bên rồi vụt tới tên tiếp theo với một tốc độ kinh hoàng đến nỗi khó có thể tin cô là một phụ nữ. Hạ thấp trọng tâm, như thể đang trượt trên mặt đường, cô quét một nhát vào chân hắn từ bến dưới.
Ennis thu hẹp khoảng cách giữa hai bên chỉ trong một thoáng, và số phận của tên thứ hai đã nằm gọn trong tay cô. Trước cơn sốc chạy dọc khắp đôi chân, trọng tâm của hắn chao đảo dữ dội. Cân nặng của hắn là quá lớn để cái trọng tâm ấy có thể giữ vững, và cuối cùng, hắn ngã sụp xuống.
Giữa lúc hắn đang vật lộn để đứng lên, Ennis vung mũi giày vào cằm hắn. Đầu hắn ngả oặt về sau, và hắn phải vất vả lắm mới ngăn được nó chạm đất. Rồi bàn chân cô lại tấn công. Lượng động năng cộng thêm này khiến cho xương sọ hắn đập cái bịch xuống đất.
Dallas chỉ còn biết đứng nhìn. Kí ức về trận đòn chúng mới lĩnh phải chiều nay chợt trỗi dậy sống động hơn bao giờ hết.
Chỉ trong vòng hơn mười giây, toàn bộ ba tên đồng đảng của hắn đã bị đánh gục.
“...Lần này... Lần này, còn là một con đàn bà nữa?!”
Hôm nay không phải ngày may mắn của hắn ta. Kể cả khi suy nghĩ ấy xuyên qua tâm trí hắn, hắn vẵn tin chắc rằng mình không thể đánh lại người phụ nữ kia. Con dao của hắn đã bị tước mất từ lúc hắn vào trong căn cứ của nhà Gandor... Cũng không phải là hắn nghĩ mình có thể đánh lại bằng nó hay gì.
“Đ...Được rồi! Bọn tôi sẽ thả chúng đi. Chỉ cần để bọn tôi nghỉ chút thôi, được chứ?”
Hắn đã ném đi cả danh dự lẫn niềm kiêu hãnh với câu nói ấy, song người phụ nữ vẫn không buông tha.
“Không, tôi có chuyện với mấy người.”
“Hử...? Ư... Hự...!”
Người phụ nữ đấm mạnh vào bụng Dallas. Khi cô lao mình tới, Dallas cảm thấy như thể cô đã tan vào hư vô. Đòn đánh của cô chỉ đơn thuần là nhanh đến nhường đấy, và nó dễ dàng tước đoạt sự tỉnh táo của hắn ta.
“.........”
Vẫn không nói một lời, cô nhìn sang xung quanh. Cả bốn tên đều đã nằm bẹp dí, và đôi nam nữ kia thì đã...
“Wow! Cô ấy một mình xử hết bọn chúng luôn kìa!”
“Tuyệt thật đấy!”
...không chạy đi. Họ vẫn còn đó.
“Cảm ơn nhé, chị gái! Chúng ta chẳng quen biết gì, vậy mà chị vẫn cứu bọn tôi!”
“Cảm ơn!”
Hai người họ ném lia lịa những lời cảm ơn về phía cô, và Ennis chợt thấy đôi chút tội lỗi. Giờ đã là quá muộn để đề cập đến chuyện cô cứu họ là bởi muốn bù đắp cho vụ đụng xe.
“Chị giống hệt như cái người mà, gì ấy nhỉ... Một anh hùng!”
“Ngoại trừ việc chị ấy là phụ nữ.”
“À, phải, dĩ nhiên... Một nữ anh hùng!”
Một cuộc trò chuyện kì lạ, song họ thực sự nom rất hạnh phúc. Điều ấy làm Ennis bối rối. Giờ nghĩ lại thì, suốt từ khi Szilard tạo ra cô, vẫn chưa từng có một ai cảm ơn cô cả,.
“Chúng tôi nợ chị cái mạng này! Cứ nhờ vả thoải mái!”
“Bọn tôi sẽ làm tất cả!”
Lời đề nghị đó thực sự khiến Ennis băn khoăn. Ở thời điểm này, liệu cô có nên từ chối họ hay không? Nếu như cô nhờ vả một cái gì đó, thì cô nên đòi hỏi đến cỡ nào? Đó là “tri thức” mà Ennis không hề có.
Sau một hồi suy nghĩ, cô cẩn thận đưa ra một yêu cầu:
“Ừm... Tôi muốn đưa bốn người kia lên xe... Cô cậu giúp tôi được chứ?”
Họ đặt một tên lên ghế hành khách, rồi nhét ba tên còn lại vào ghế sau, và đóng cửa lại.
“Phù. Thế là xong rồi nhỉ.”
“Phải, xong rồi đó!”
“Ừm... Cảm ơn hai người rất nhiều.”
“Chị đang nói cái gì thế?! Bọn tôi còn chưa làm được cái gì để đền ơn chị cơ mà!”
“Nhờ thêm gì đó đi, gì cũng được! Isaac tuyệt lắm đấy!”
Sau khi đưa đám người bất tỉnh nhân sự lên xe, ba người họ nghỉ ngơi một chút. Ennis nghĩ rằng nhiều khả năng mình sẽ phải “tiêu hủy” bọn chúng sau này. Trong khi đó, cặp đôi kia mải mê bàn chuyện trộm tiền của Mafia. Tuy nhiên, vì không một bên nào biết được hoàn cảnh cụ thể của bên kia, cuộc trò chuyện vẫn cứ tiếp tục.
“Đúng thế... Nó trông rất giống cái xe này. Cái xe dám tông vào chúng ta.”
“Tông vào ta, nhỉ?”
“Cái xe thối tha đấy! Lần sau gặp lại nó, anh sẽ cào xước nó bằng tiền xu!”
“Thế còn khạc nhổ thì sao?”
“Anh cũng sẽ nhổ lên nữa!”
Nếu cô có thể bù đắp cho vụ đụng xe bằng cách đấy, thì cô rất sẵn lòng để họ làm vậy cả ngày, Ennis nghĩ. Những dĩ nhiên là cô không nói thẳng ra.
“Mà này, chị gái, chị định làm gì với bốn tên kia vậy?”
“Hả...?”
Cô chắc chắn không thể kể cho họ sự thật. Giữa tình thế rối ren ấy, Ennis nghĩ đại ra một câu.
“Ừm... Tôi định sẽ giao nộp chúng cho cảnh sát.”
Chết!
Cô nghĩ thế ngay sau khi nói xong. Nơi đây nằm rất gần với đồn cảnh sát. Hai người kia về cơ bản là nạn nhân, và họ có thể nói là họ sẽ đi theo cô tới đó.
“Hiểu rồi... Thế thì xui quá, chúng ta phải chia tay nhau tại đây thôi.”
“Đây chính là nơi tạm biệt!”
“?”
“Giữ bí mật chuyện này nhé... Cảnh sát luôn là những người cuối cùng mà bọn tôi muốn gặp.”
“Không bao giờ muốn.”
Ennis nhìn lướt qua hai người họ. Cô thực sự không thể nào tưởng tượng đến chuyện họ là tội phạm. Có lẽ họ chỉ đang chạy trốn thôi.
“Ừm... Hai người đã làm gì vậy?”
“Để xem nào... Em nghĩ vụ nào là tồi tệ nhất?”
“Ừm... Chắc là giết chết đám trẻ con đấy.”
Ennis nghĩ rằng họ đang đùa. Dĩ nhiên, hai người họ đã vô cớ thuyết phục bản thân rằng bọn trẻ đã chết đói chỉ vì bị ăn cắp mất sô cô la, thế nên nó thực sự giống một trò đùa hơn mọi thứ khác. Một khi đã biết điều đó, người ta thậm chí còn có thể nghĩ rằng chính sự tồn tại của họ đã là một trò đùa.
“Thế nên tôi nghĩ là chúng tôi đang trên đường đi tìm sự chuộc tội.”
Isaac nhại lại một câu thoại mà cậu ta từng thấy trong một cuốn tiểu thuyết... Thế nhưng, khi được thốt ra từ miệng một kẻ ăn cắp sô cô la “vì muốn được trở thành ác nhân,” thì nó lại trở thành một thứ rất đáng để nhướn lông mày.
“Chúng tôi đã làm nhiều chuyện xấu, vậy nên chúng tôi sẽ làm nhiều điều tốt tương đương!”
Trong khi đó, Miria lại tỏ ra cực kì nghiêm túc. Trong trường hợp này, “điều tốt” nhiều khả năng chính là trộm của thừa kế và đánh cắp tiền của Mafia, có nghĩa là, cuối cùng thì chúng cũng không khác biệt gì mấy so với “chuyện xấu.”
“...Thật... Thật vậy ư... Hai người chắc phải mạnh mẽ lắm...”
“Hả? À, phải, tôi mạnh mẽ lắm!”
“Mạnh mẽ lắm!”
“So với hai người...tôi quá là vô vọng. Tôi sợ phải đối mặt với tội lỗi của chính tôi...”
Tại sao cô lại nói về một chuyện như thế với những người mà cô chỉ vừa mới gặp? À... Có lẽ là bởi...nếu cô để vụt mất cơ hội này, cô sẽ không bao giờ còn cơ hội nào để nói cho bất cứ ai nữa.
Ennis cố gắng tự thuyết phục bản thân tin vào điều ấy, nhưng dù thế, cô vẫn không nói cụ thể ra là mình đã làm những gì. Nếu cô để lộ ra chuyện đó, bọn họ sẽ phải vướng vào định mệnh của riêng cô. Và viễn cảnh ấy cũng đồng nghĩa với cái chết.
“Cái gì, chị cũng đã từng làm gì đó rồi sao?”
“Thế thì tất cả chúng ta đều là người xấu cùng với nhau rồi!”
Cùng với nhau. Ôi, sẽ tuyệt biết bao nếu điều ấy thành sự thực... Nhưng đã quá muộn rồi. Mình đã gây quá nhiều tội lỗi. Ennis bị áp chế nặng nề.
Khi Szilard tạo ra cô, ông ta đã ban cho cô một lượng tri thức và lương tri ở mức tối thiểu, không nhiều hơn những gì cô cần để chăm sóc cho ông ta: tất cả những ngoại ngữ mà Szilard biết, kiến thức liên quan đến chiến đấu, cách để nấu ăn và lái xe, cùng với những thứ tương tự. Ngoài ra, cô còn được biết cả khuôn mặt và danh tính của những kẻ mà cô phải tìm kiếm. Đó là những nhà giả kim từng chung chí hướng với Szilard, và một người đàn ông mang tên Maiza Avaro luôn đứng đầu danh sánh này.
Ông ta không dạy cô bất cứ thứ gì về đạo đức hay tôn giáo. Ngay cả về mảng pháp luật, ông ta cũng chỉ ban cho cô những thông tin liên quan đến giao dịch tiền tệ hay sử dụng xe ô tô.
Cuối cùng, cô được dạy một điều vô cùng quan trọng: đó là Szilard có thể giết cô dễ như trở bàn tay. Cũng tại thời điểm ấy, ông ta dạy cô sợ hãi cái chết.
Sách vở hoàn toàn bị nghiêm cấm, và Ennis chưa từng được phép nghe radio (thứ được phát minh sau khi cô ra đời).
Bước ngoặt trong cuộc đời cô diễn ra khi cô “ăn” một người đàn ông tìm cách đoạt mạng Szilard. Với tư cách giải pháp cuối cùng khi tấn công các nhà giả kim – nói cách khác, là những người cũng sở hữu năng lực bất tử như cô và Szilard – cô đã được ban kiến thức về việc “ăn.” Bằng cách sử dụng tay phải để hấp thụ mọi thứ mà đối phương có.
Vào lần đầu hấp thụ tri thức của một người khác, cô đã học được rất nhiều điều. Những kiến thức mà trước đây cô từng thiếu lũ lượt tràn vào tâm trí cô. Cứ như thể thế giới quan của cô đột nhiên mở rộng ra vậy.
Cô suy nghĩ về nội dung của những tri thức mới ấy một hồi, rồi bắt đầu hiểu được tội lỗi của những gì mình đã gây ra...và sự đáng sợ của người đàn ông mang tên Szilard.
...Nhưng giờ cô còn có thể làm gì nữa? Chỉ nhận thức được tội lỗi của mình thôi thì cũng chẳng thể hồi sinh được những người mà cô đã giết.
Hơn nữa... Nếu biết cô đang mang những suy nghĩ đó, chắc chắn Szilard sẽ tiêu hủy cô.
Cô đã biết, biết rất rõ, rằng ông ta là kiểu người như vậy.
Ăn được ông ta trước khi bị ông ta ăn là điều bất khả thi. Ennis hiểu điều ấy hơn bất cứ ai khác. Người đàn ông đó sẽ chấm dứt cuộc đời cô trước cả khi cô có thể hấp thụ hoàn toàn ông ta.
Lúc hay tin rằng cô đã ăn một nhà giả kim, Szilard đã hỏi cô một câu.
“Ra là vậy... Ngươi nghĩ sao khi tiếp thu được tri thức mới?”
“Thưa ngài. Chúng đều là những ý nghĩ mà tôi không thể hiểu được.”
Đó là câu trả lời duy nhất mà cô có thể đưa ra.
“...Này, chị ơi!”
“Chị ơi!”
Cô chợt giật nảy mình và lấy lại tỉnh táo. Chàng trai và cô gái kia đang lo lắng nhìn cô.
“...Ồ...”
“Chị ổn chứ? Trông chị bơ phờ quá.”
“Đúng đấy.”
“Không sao... Tôi xin lỗi. Tôi ổn.”
“Chà, nghe này, tôi không biết chị đã từng làm chuyện gì, nhưng mà chị đã cứu chúng tôi, đúng chứ? Vậy tức là hòa rồi. Cứ coi là hòa đi.”
“Đúng rồi đó. Không cần biết một kẻ xấu trước kia đã từng làm những chuyện tồi tệ đến cỡ nào, thì chị biết sao không? Chỉ cần kẻ đó làm một điều tốt, thì ai cũng sẽ nghĩ rằng 'Có thể hắn thực sự là một người tốt.' Thế giới vận hành kiểu như vậy đó! Ngay cả Capone... Nghe nói hắn đã từng giết rất nhiều người, hắn làm rượu lậu, và hắn thậm chí còn trốn thuế, nhưng vì hắn cũng làm điều tốt, nên hắn vẫn nổi tiếng. Hắn có một ngôi nhà ở Miami. Hắn là bạn của Dempsey. Hắn còn có một cô vợ đẹp nữa!”
Ngoài ra, họ cũng nói rằng nếu một vị thánh gây ra đúng một sai lầm, thì vị thánh đó sẽ bị khinh bỉ nhiều hơn cả khi một con quỷ làm điều tương tự. Nếu như chiếu theo ý kiến của số đông, thì khẳng định của cô có lẽ là chính xác... Thế nhưng, cuối cùng thì Capone vẫn phải tới Alcatraz.
“Chuyện là vậy đấy, chị hiểu chưa? Chị cứu chúng tôi, và đó là một điều vô cùng tốt, thế nên rồi chị sẽ trở nên nổi tiếng, sống ở một nơi ấm áp, kết bạn với một tay đấm boxing, và kết hôn với một người đàn ông danh giá!”
“Đúng thế, chị hòa rồi, hòa chằn chặn luôn. Nếu như chừng đó vẫn chưa là đủ với chị, thì cứ làm thêm nhiều điều tốt nữa đi! Rồi chị sẽ thực sự hòa!”
Những lời họ nói nghe rất điên rồ, nhưng theo một cách nào đó, họ dường như đang cố an ủi ân nhân của mình. Biết được điều đấy chỉ làm cho Ennis thấy khổ sở hơn.
“Cảm ơn... Vậy thì, tôi đi nhé.”
Vẫn gắng gượng nở một nụ cười, cô ngồi lên trên ghế lái.
“À, ra là vậy... Ừ, đúng là thế... Ờm... Nghe này, tôi là Isaac Dian.”
“Ừm, tôi là Miria Harvent!”
Trong một thoáng, cô không tài nào hiểu nổi họ đang nói gì. Khi nhận ra là họ đang cho cô biết tên, cô vội vàng khắc ghi những từ ấy vào trong não mình: Isaac và Miria.
“Tôi... tôi là... Ennis. Tôi không có họ... Chỉ là Ennis thôi.”
“Hiểu rồi, không có họ à? Lạ thật đấy.”
“Tôi nhớ rồi. Ennis. Ennis. Ennis, phải không.”
Hai người họ mỉm cười như một lũ trẻ. Ennis vẫy tay chào, rồi bắt đầu lái xe đi.
Nhìn lên gương, cô thấy bóng họ nhỏ dần và nhỏ dần.
Họ đang hò hét cái gì đó. Ennis căng tai ra nghe.
“Hẹn gặp lại nhé!”
“Nhớ là phải gặp nhau nha!”
Nghe được những lời ấy, Ennis chợt nghĩ một điều:
Cô cũng muốn gặp họ thêm lần nữa. Có lẽ cô sẽ không thể làm được vậy, nhưng nếu có thể, thì cho dù chỉ là một lần đi nữa, cô cũng vẫn muốn được gặp.
Cuộc gặp gỡ tuy ngắn ngủi, song hai bọn họ là những người mà cô muốn được gặp càng nhiều lần càng tốt.
Khi nghĩ về chuyện đó, cô thực sự...cười, dù chỉ một chút. Một nụ cười hoàn toàn tự nhiên, không chút gượng gạo.
Đó là lần đầu tiên cô nở một nụ cười vui.
Khi nhận ra điều ấy, cô khóc. Chỉ một chút.
-----
Hai mươi phút sau... Bốn tên thanh niên đã nằm thành hàng trong một căn hầm cùng Szilard và những người khác.
Tay của cả bốn đều bị trói ngoặt ra sau, còn chân thì bị còng vào nhau như thể sắp tham gia một cuộc thi chạy ba chân.
Bọn chúng dần tỉnh dậy, tên này nối tiếp tên kia, và bắt đầu chửi rủa mấy lão già đang vây quanh chúng. Khi Dallas, tên cuối cùng, tỉnh dậy, ba tên kia đột nhiên ngừng la hét một chốc.
“...Cái quái gì thế này? Có chuyện gì à?”
“À, ừm... Chỉ là... Dallas này, mấy lão kia chả chịu nói gì sất.”
Nghe thế, Dallas vội nhìn quanh. Những người đàn ông lớn tuổi mặc những bộ vét đắt tiền đang ngồi ở gần cuối phòng, như thể đang quan sát từ xa. Căn phòng nom hết sức ảm đạm, và ngoại trừ chiếc bàn tròn nằm chính giữa nhóm đàn ông kia, thì trong phòng cũng không có gì quá bắt mắt.
“À phải rồi, Dallas... Trong lúc chúng ta bất tỉnh, con đàn bà kia hình như có tiêm vào chúng ta cái gì đấy.”
Một trong số chúng tần ngần lên tiếng. Cảm giác bị kim tiêm đâm vào đã đánh thức hắn dậy, và hắn cũng thấy ba tên kia bị tiêm. Nghe thấy từ 'tiêm,' một cơn hoang mang dữ dội đột ngột trồi lên từ tận đáy lòng Dallas. Rốt cuộc bọn họ đã truyền thứ quái gở gì vào trong hắn ta?
“Các ngươi thấy sao rồi...? ...À, xin lỗi. Ta cũng có cần phải hỏi đâu.”
Giữa lúc Dallas và đồng bọn đang đổ mồ hôi lạnh trước tình cảnh kì lạ ấy, một giọng nói đột ngột vang lên từ phía sau. Khi quay đầu nhìn lại, chúng thấy một ông già mặc bộ vét màu xanh hải quân đang đứng đó. Điệu bộ của ông ta cho thấy ông ta nhiều khả năng chính là kẻ cầm đầu của cái đám bắt cóc chúng.
“Dựa theo cử chỉ của ba tên kia, ta cho rằng ngươi là thủ lĩnh.”
“...Lão là ai thế hả, lão già? Ông định làm gì với bọn tôi?”
“Hửm? Ta là Szilard. Ta có chuyện muốn hỏi các ngươi, và rồi ta định là sẽ giết các ngươi. Như vậy đã vừa ý ngươi chưa?”
Ngay cả khi đang nói, ông ta vẫn đặt một bàn tay lên đầu của một tên đồng bọn cạnh Dallas.
“Cái thá gì cơ?! Giết bọn tao á?! Ờ, có ngon thì giết đi, cái đồ--”
Tên đồng bọn hẩm hiu mà bàn tay ấy lựa chọn có thể thấy người đàn ông kia từ phía sau vai; hắn bắt đầu mắng chửi ông ta...rồi chợt ngừng cử động.
“Được thôi.”
Sau câu trả lời thong thả đó, Szilard bắt đầu “ăn.”
Từ duy nhất có thể diễn tả cảnh tượng đó là “ác mộng.”
Một trong số những tên đồng bọn của Dallas từ từ tan biến, ngay trước mắt hắn ta. Bắt đầu từ ngón chân, cứ như thể thân xác hắn đang co cụm lại. Trước tiên là giày hắn rơi ra. Sau đó đến lượt cái còng tiếp nối với cái trên chân Dallas rơi leng keng xuống. Cái quần màu nâu của hắn xẹp lép, bắt đầu từ chỗ mắt cá rồi đi dần lên trên, như một quả bóng bay bị rò khí.
“Này... James...”
Tên của thằng đấy là James thì phải? Khoan đã... hử? Mình với chúng nó thậm chí còn chả biết tên nhau ư? Chẳng lẽ mình với chúng nó chỉ đến vậy?
Cảnh tượng quái đản kia dường như đã ảnh hưởng đến trí nhớ của Dallas đôi chút.
“Khoan, đợi đã... Này! Tao bảo đợi cơ mà! Ê! Thằng James đang biến mất kìa!”
Hắn cố gắng dùng lời lẽ để can ngăn, song cơ thể hắn lại bị giữ chặt tại chỗ.
Trước cả khi hắn ngừng nói, bốn tên bọn chúng đã bị thu nhỏ xuống còn ba. Dallas cảm thấy khí lạnh len lỏi vào trong khoảng không vừa mới mở ra bên mình.
“...Hừm. Ta sẽ không gọi đó là 'sống đàng hoàng'...”
Sau khi kết thúc bữa ăn, Szilard chậm rãi tận hưởng những “tri thức.”
“Ô hô... Thứ rượu đó... Các ngươi không biết là nó còn an toàn hay không.”
Trước những lời đó, tiếng lao xao chợt khuấy đảo khắp đám đàn ông ngồi cuối phòng.
“Nếu thế thì, tại sao ta lại không cử ngươi đi xác nhận xem...Dallas Genoard.”
Dallas hoàn toàn choáng váng. Szilard quỳ xuống và thì thầm vào tai hắn ta.
“Ngươi muốn làm một giao kèo chứ?”
Hắn không thể hiểu nổi.
“Vẫn còn đang sốc à. Chúng ta sẽ nói chuyện sau.”
Khẽ lắc đầu, Szilard đứng dậy, quay lưng khỏi Dallas.
“Và nhân tiện, tên hắn không phải James.”
Nói xong, ông ta cùng những người đàn ông khác biến mất vào phòng kế bên.
Chỉ còn mỗi ba tên bọn chúng bị bỏ lại. Một tên chợt lầm bầm, mắt hướng về nơi xa xăm:
“Dallas... Cái thằng vừa mới biến mất là Scott... James...là tao.”
Không ai đáp lại những lời đó. Chúng chỉ văng vẳng một cách vô nghĩa trong tai cả ba.
“Ennis... Có vẻ như còn có những kẻ khác thấy ngươi ra tay.”
Szilard chất vấn cô. Dựa trên những kiến thức vừa mới hấp thụ từ Scott, Ennis đã xuất hiện giữa lúc bốn tên kia đang hành hung một cặp đôi.
“Vâng. Tôi nghĩ sẽ có nhiều người tụ tập lại nếu tôi chỉ đứng nhìn mà không làm gì.”
Ennis nói dối không chớp mắt.
“Thế còn cặp đôi kia thì sao?”
“Có vẻ như họ đã bỏ đi ngay lập tức. Tôi đã kiểm tra, và không nhận thấy bản thân bị bám theo.”
“Ta hiểu rồi... Vậy tức là không còn vấn đề gì nữa.”
“Không, thưa ngài.”
Vẫn vô cảm như thường, Szilard ban phát mệnh lệnh tiếp theo:
“Chà, thế thì... Sản phẩm hoàn chỉnh đang ở trong căn cứ của một băng Mafia tên là Gandors. Sẽ rất là không hay nếu chúng ta thương lượng với chúng và để lộ thông tin về chúng ta ra. Đe dọa ba tên đó... Hoặc là, không, bảo chúng là chúng ta sẽ trao một phần thưởng nào đó, và lệnh cho chúng lấy sản phẩm về. Rõ chưa?”
“Rõ, thưa ngài. Chỉ là, đồng bọn của chúng vừa mới bị giết... Ngài có nghĩ là chúng sẽ nghe lời không?”
“Không cần phải lo về chuyện đó. Theo như những kí ức mà ta 'ăn; được, thì bọn chúng đặt nặng lợi ích cá nhân hơn là tình bạn với mấy thứ tương tự. Nếu chúng ta bảo là chúng ta sẽ tha cho chúng và thưởng chúng tiền, ta nghĩ là chúng sẽ làm được đến một mức nào đó thôi.”
Gõ nhẹ lên thái dương bằng một ngón tay, Szilard khẽ nhếch mép.
“Dù sao đi nữa, một khi chúng biết cơ thể của bọn chúng đã được bất tử hóa – ngay cả khi đó chỉ là dạng bất tử chưa hoàn chỉnh – chúng sẽ bất ngờ đến độ lãng quên bạn bè ngay. Nói cách khác, chúng là loại người như vậy. Sẽ chẳng có vấn đề nào hết.”
“...Không hề, thưa ngài.”
Cúi đầu một cách máy móc, Ennis hối hả rời khỏi phòng.
Đám đàn ông lớn tuổi – những kẻ quan sát suốt nãy giờ – thét toáng lên.
“Ngài Szilard!”
“M-mấy mũi tiêm đó thực sự là...sản phẩm chưa hoàn chỉnh ư...”
“Sao ngài lại ban tặng chúng cho cái đám lưu manh vô lại đấy...?”
“Trật tự.”
“............”
Szilard nhìn một cái, và cả căn phòng im lặng như có phép thuật.
“Không cần phải sợ hãi. Vụ này có thể sẽ hóa thành một trận chiến với đám Mafia, tất cả chỉ có vậy. Ta chỉ tạo thêm công cụ để sử dụng trong trường hợp cần thiết thôi. Một khi vụ này kết thúc, ta sẽ 'ăn' chúng ngay... Hay các ngươi nghĩ mình có đủ sức để chiến thắng một trận chiến toàn lực với một băng đảng? Nếu thế thì ta sẽ để các ngươi làm ngay.”
Đám đàn ông kia không dám nói gì nữa.
Tham gia Hako Discord tại
Ủng hộ bản dịch tại
Quả táo lớn: biệt danh của thành phố New York