Vì một tương lai được gặp lại em

Truyện tương tự

Người bạn cùng lớp mà tôi thầm thích đã trở thành hầu nữ và đang làm điều gì đó mờ ám trong phòng của tôi ?

(Đang ra)

Người bạn cùng lớp mà tôi thầm thích đã trở thành hầu nữ và đang làm điều gì đó mờ ám trong phòng của tôi ?

Kagami Yuu 鏡遊

Keiji đứa con ngoài giá thú của một gia đình giàu có, hiện đang sống trong một căn biệt thự biệt lập. Những tưởng cuộc sống bình yên ấy sẽ tiếp tục mãi cho đến một ngày nọ, Sayaka, cô bạn cùng lớp xin

3 10

魔術師クノンは見えている

(Đang ra)

魔術師クノンは見えている

南野海風

Trên đời này có thực sự tồn tại việc nhân sinh của 1 ai đó thay đổi hoàn toàn chỉ vì 1 câu nói.Kunon grion , kẻ mang trong mình lời nguyền khiến cậu bị cướp đi thị lực từ lúc được sinh ra với 1 cái tê

149 3814

Ẩm Thực Dã Ngoại Tại Dị Giới Với Kỹ Năng Không Tưởng

(Đang ra)

Ẩm Thực Dã Ngoại Tại Dị Giới Với Kỹ Năng Không Tưởng

Ren Eguchi

Mukouda Tsuyomi, một chàng trai Nhật Bản hiện đại được triệu hồi sang thế giới của kiếm và ma thuật... Cứ tưởng sẽ có những chuyến phiêu lưu vĩ đại đang chờ đợi mình nhưng thực ra Makouda chỉ là một t

33 76

Mở đầu - Chương 01: Bộ Ba Lạc Điệu Và Người Nghệ Sĩ Dương Cầm

Chương 1: Bộ ba lạc điệu và người nghệ sĩ dương cầm

Sau năm 2020, một năm với nhiều sự kiện tiêu biểu như Olympic Tokyo, tôi đã thuận lợi đỗ vào Trường Đại học Sendai và bắt đầu dốc sức tìm kiếm việc làm thêm.

Tôi không tham gia câu lạc bộ nào, bạn bè cũng chẳng có mấy, nên tôi chẳng ngại việc làm thêm nhiều giờ. Làm đêm cũng chẳng thành vấn đề, miễn lương cao tương xứng là được. Tôi muốn tự mình thuê phòng riêng trong năm nay, để dành được một triệu yên trước khi tốt nghiệp.

Sau khi cân nhắc đến những điều kiện trên và tìm kiếm khắp nơi, nào là trang tuyển dụng, nào là lời giới thiệu của người quen,… Cuối cùng tôi đã tìm đến “Alphard”, một câu lạc bộ cao cấp nằm ở khu phố ăn chơi nức tiếng vùng Tohoku, Kokubuncho của thành phố Sendai.

“Hasekura… Em cùng họ với Hasekura Tsunegana ư? Chà, nghe oách thật. Anh là Ozaki Mikiya, từ nay mong được em giúp đỡ.”

Một ngày sau khi phỏng vấn với mama kiêm chủ quán, tôi may mắn nhận được điện thoại thông báo trúng tuyển. Và thế là tôi có buổi làm việc đầu tiên vào đêm thứ sáu tại Kokubuncho, nơi sáng rực như ban ngày dưới vô số ánh đèn neon. Người đã đón tiếp tôi bằng một nụ cười đầy sức hút chính là anh Ozaki, một đàn anh cũng đang làm thêm ở đây.

Alphard là quán lớn chiếm trọn một tầng trong một tòa nhà tám tầng. Mở cánh cửa gỗ có màu của rượu whisky, đập vào mắt là vẻ lấp lánh của chiếc đèn chùm màu sâm-panh cùng những bộ bàn ghế sô-pha êm ái được bài trí rộng rãi, tạo cảm giác như hút người ta vào một không gian kỳ ảo. Phía trong cùng được dựng một sân khấu hơi cao, nơi nghệ sĩ dương cầm đang đánh những bản ballad chanson hay jazz.

“Quán mình là quán theo chế độ hội viên, khách hành đều là những quý ông quý bà lịch thiệp nên không có gì phải sợ đâu. Những nhân vật tai to mặt lớn thưòng rất đường hoàng, họ hiếm khi trêu chọc hay kiếm chuyện với nhân viên lắm. Thậm chí còn có người nhờ bà chủ mai mối, làm quen với nữ khách hàng của tiệm. Cho nên, việc đầu tiên cần làm là phải nhớ mặt và tên của khách quen nhanh nhất có thể. Những thông tin khác thì phải vừa làm vừa nghe họ nói chuyện để ghi nhớ. Nhưng giai đoạn đầu thì cứ phải nở nụ cười tươi và trả lời dứt khoát, trong đầu luôn phải suy tính bước tiếp theo mình nên làm gì. Trước mắt cứ tàm tạm như thế.”

Anh Ozaki hơn tôi một tuổi, một người xuất sắc trong công việc và là người trẻ thứ ba ở Alphard, anh ấy được giao nhiệm vụ đào tạo tôi. Theo lời anh Ozaki, khách hàng là nhân vật chính, tiếp đón họ trên sân khấu là các cô chị hostess. Đám boy như chúng tôi sẽ hoàn toàn ở phía sau hậu trường, công việc là vận hết sức lực lẫn trí óc để phục vụ khách hàng và các cô chị.

Alphard mở cửa từ tám giờ tối cho đến hai giờ sáng. Công việc của tôi là lau dọn tiệm trước giờ mở cửa. Tiếp đến để cung cấp thông tin, tôi phải photo danh thiếp của các khách hàng đã đặt bàn trước cho các chị hostess. Khi khách đến thì tôi sẽ mang rượu, ly, đá ra bàn và pha đồ uống. Ngoài ra, tôi cần phải liên tục kiểm tra xem có cần thay gạt tàn, kiểm tra xem nhà vệ sinh có trống khi được các chị ra hiệu, đưa khăn lau cho khách ngay khi họ quay trở lại. Nếu được nhờ mua bao thuốc, dù có trời mưa tôi cũng phải phi ngay ra ngoài, hay lỡ có ai nói rằng “Tự nhiên muốn ăn takoyaki trước ga”, tôi cũng phải dốc hết sức mua cho bằng được. Nói chung, công việc của boy là làm mọi thứ.

Vốn trước đây tôi chỉ toàn làm mấy việc giao báo, cũng chẳng được lanh lợi cho lắm, nên hồi đầu tôi luôn thất bại để rồi đâm ra chán nản. Nào là làm vỡ ly trước mặt khách, mua nhầm hãng thuốc lá mà khách dặn. Mỗi lần thấy tôi suy sụp như thế, anh Ozaki thường dắt tôi đến một nhà hàng gia đình mở 24/24 để lắng nghe tôi tâm sự.

“Em chưa quen với công việc nên mắc lỗi cũng là điều đương nhiên. Ngay cả dân lành nghề cũng có lúc trượt tay mà. Điều cần khắc cốt ghi tâm là phải làm gì sau khi mắc lỗi. Thành tâm thành ý xin lỗi khách, sau đó phân tích xem sao mình lại thất bại, rồi nghĩ cách để không lặp lại sai lầm đó nữa.”

“… Vâng…”

“Ai cũng biết là em đang rất cố gắng, nên đừng suy sụp quá mức. Dù mới vào làm nhưng em đã nhớ được kha khá tên và mặt của khách quen, sau khi hết ca lại còn ghi chép thông tin về khách hàng vào sổ tay, em đang tự mình nỗ lực còn gì. Mọi người đều thấy điều đó và khách hàng ai cũng cảm nhận được. Hasekura, thực ra em rất được lòng những vị khách lớn tuổi đó, kiểu như cháu cưng vậy.”

“Ch… cháu cưng…?

“Chắc là vì dáng vẻ nỗ lực hết mình của em trông rất cưng chăng? Kiểu như khiến người ta muốn cổ vũ ấy. Không chỉ riêng ở Alphard đâu, có thể tạo được thiện cảm như vậy với người khác là một lợi thế và là một điều rất quan trọng đấy. Về khoản đó thì anh tệ lắm."

“Anh Ozaki mà tệ á?”

Bất giác, tôi vặn giọng hỏi lại với giọng đầy hàm ý “Anh nói giỡn à?”, bởi anh Ozaki là người rất nổi tiếng ở Alphard. Tôi đã từng thấy một phú bà mời gọi anh ấy về làm rể nhà mình. Và mới hôm trước, anh còn được một doanh nhân ngỏ lời mời “Tốt nghiệp xong cậu về công ty của tôi làm đi”. Tôi đã luôn nhìn anh Ozaki với ánh mắt như ngước nhìn đỉnh Everest.

“Giờ thì có lẽ khá hơn rồi, nhưng hồi mới vào làm anh gần như không cứu nổi đấy. Nói ra cũng hơi ngại, nhưng em thấy anh đầu óc cũng không tệ, nhớ nhen cũng gọi là có khiếu, lanh lợi tháo vát mà đúng không?”

“Em thích cái kiểu anh nói thẳng ra như vậy đấy.”

“Cảm ơn em, thú thật thì anh không ghét cái tính đó của mình. Công việc anh làm vài lần là nhớ, cũng hầu như không mắc lỗi, vậy mà chẳng được lòng mọi người. Với một công việc đòi hỏi sự tiếp xúc với người khác, đó có khác gì điểm yếu chí tử. Ban đầu anh không biết lý do là gì, rõ ràng mình đã làm những điều cần thiết, vậy mà khách hàng lại tỏ vẻ không hài lòng. Có lúc anh nghĩ rằng là do họ xấu tính, nhưng hóa ra không phải vậy. Vấn đề nằm ở anh, anh đã không tôn trọng khách hàng, không quan tâm đến họ, thiếu đi suy nghĩ rằng “Mình có thể làm gì cho người này?”. Vì thế mà anh đã không thể nào hòa hợp được với khách hàng trong ngày đầu tiên gặp mặt, những người chẳng có lý do nào phải kiêng nể anh cả. Rồi anh nhận ra rằng mình là một thằng khá khó ưa, sở sĩ trước giờ mọi thứ vẫn đâu vào đó là vì những người xung quanh đã luôn bao dung trước khuyết điểm của anh.”

 Anh Ozaki đang theo học tại một trường đại học quốc gia danh tiếng và khó vào bậc nhất vùng Tohoku, cũng nằm trong thành phố Sendai. Đã thế lại còn học khoa luật, trong mắt tôi anh cứ như một thiên tài ở đẳng cấp khác.

Nghe nói lý do anh bắt đầu làm thêm ở Alphard cũng giống tôi, là vì mức lương theo giờ cao ngất ngưởng, nhưng chỉ mới năm thứ hai mà anh đã nhận được sự tin tưởng sâu sắc từ cả khách hàng lẫn nhân viên. Thêm vào đó, anh vừa cao ráo đẹp trai, lại cực kỳ hợp với bộ đồng phục gile đen và nơ bướm, có thể khui sâm-panh một cách điệu nghệ hơn bất kỳ ai trong quán. Nói tóm lại, lý lịch của anh ấy quá khủng, đối với tôi cứ như một người đến từ thế giới khác.

Kể từ đêm được nghe câu chuyện trên, anh Ozaki đã trở thành vị sư phụ mà tôi hết lòng kính trọng. Sau khi làm thêm được một tháng, tôi đã bắt đầu thạo việc. Tôi cũng dần trở nên thân thiết hơn với bà chủ, các cô chị, các boy tiền bối. Lịch làm việc của tôi gồm bốn buổi một tuần, từ sáu giờ tối đến mười một giờ đêm. Dù đi học vào hôm sau khá buồn ngủ, nhưng tôi cũng đã quen.

Khoảng thời gian tôi biết về người bạn “sống chung” của anh Ozaki, là vào khi đó.

“Nghe nói đó là bạn đại học của em ấy, sống chung với nhau từ lúc nhập học đến giờ. Hình như cũng được hai năm rồi thì phải?”

“Mùa đông năm ngoái, Ozaki có đột ngột xin đổi ca nghỉ để chăm sóc cho người bạn bị viêm dạ dày nữa. Chu đáo ghê nhỉ?”

“Những lúc Mama phát bánh kẹo, em ấy lúc nào cũng phải mang thêm phần của người bạn đó về cho bằng được.”

Khi tôi phát bản sao danh thiếp của khách hàng cho các chị hostess luôn vận trên mình những bộ đầm rực rỡ sắc màu như một vườn hoa, họ đã kể câu chuyện đó cho tôi. Khi vào ca, các cô chị sẽ tiếp đãi khách bằng nụ cười tao nhã và lối nói chuyện đầy duyên dáng, nhưng khi ở sau cánh gà, họ cũng chỉ là những cô gái hết sức bình thường. Cái tính mê đồ ngọt và thích buôn chuyện yêu đương của họ giống hệt bà chị Madoka đang ở chung với tôi.

“Bữa tiệc năm ngoái, Ozaki có dắt em ấy đi cùng nhỉ?”

“Đúng rồi, Ozaki hát, còn em ấy đệm đàn piano. Cả giọng hát của Ozaki lẫn tiếng đàn của em ấy đều đỉnh của chóp.”

“Với lại, em ấy còn dễ thương cực kỳ!”

Vừa gật gù phụ họa cho màn nói chuyện rôm rả của các cô chị, tôi nhớ lại chuyện Alphard đã từng tổ chức một bữa tiệc vào mùa thu năm ngoái nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập. Anh Ozaki lúc đó vẫn là nhân viên hạng bét, đã được giao nhiệm vụ “mua vui”, và thế là anh ấy đã hát bài dân ca mà bà chủ thích với phần đệm đàn của người bạn sống chung trong lời đồn ấy.

Hồi mới vào làm ở Alphard, tôi đã được các boy tiền bối bao gồm anh Ozaki tổ chức một buổi tiệc chào mừng ở quán karaoke. Phải công nhận là giọng ca của anh Ozaki tuyệt vời đến mức đáng kinh ngạc.

Nọ, sau khi nghe lắng nghe câu chuyện về người bạn sống chung và đang thầm khen ngợi sư phụ trong lòng, một cô chị đã ghé sát mặt tôi, nở một nụ cười tinh quái trên đôi môi đỏ mọng.

“Souta này, em thân với Ozaki mà nhỉ? Thử hỏi khéo xem em ấy có cặp kê gì với người sống chung hay không giúp chị nhen. Chị để ý Ozaki mãi mà chẳng cưa cẩm được. Dù có ra chiêu gì thì em ấy cũng chỉ mỉm cười rồi lơ đi.”

“Ơ, mấy chuyện này thì em…”

“Chị cũng muốn biết nữa! Chỉ cần đánh vòng hỏi là được.”

“Mấy đứa kia, ép người quá đáng đấy.”

Trong lúc đang khó xử vì bị các cô chị vây lấy, bà chủ đã ra tay giải cứu với khuôn mặt ngán ngẩm. Bà chủ trạc năm mươi, một mỹ nhân đằm thắm rất hợp với mái tóc đen và trang phục truyền thống.

“Đừng có trêu Souta nữa, lại còn nói năng gây hiểu lầm như thế. Người sống cùng với Mikiya là con trai con gì.”

“Nhưng giới tính đâu có quan trọng~”

“Việc Ozaki cưng chiều em ấy quá mức là thật mà~”

Bị can lại, các cô chị cười tủm tỉm rồi tản đi khắp nơi như đàn bướm, bỏ lại tôi trơ trọi một mình. Nói thêm, chuyện tôi bị các cô chị chọc để giải khuây cũng là chuyện thường ngày. Hôm đó anh Ozaki nghỉ làm, phải hai ngày sau tôi mới gặp lại anh ấy.

Ngày hôm đó khi đang từ trường đại học hướng thẳng đến khu Kokubuncho, tôi đã gặp anh Ozaki cũng đang trên đường. Trong lúc ở trong phòng thay đồ, tôi chợt nhớ ra chuyện hai hôm trước nên đã đem ra hỏi thử. Ngay lập tức, vẻ mặt của anh Ozaki trở nên khó chịu.

“Lại chuyện đó nữa…”

Ở Alphard anh Ozaki vốn nổi tiếng là một người hòa nhã, nhưng khi anh nhăn mặt lại như vậy, tôi lại thấy điều trên có đôi phần mỉa mai.

“Không phải là sống chung, mà là ở chung. Chỉ là ở chung một căn hộ thôi. Hồi thi đỗ đại học, anh muốn tìm một chỗ nào đó có mạng mẽo và an ninh tốt, còn người bạn ở chung đó lại có thính giác quá nhạy nên không thích nghe thấy tiếng ồn từ phòng bên cạnh. Nhưng tìm phòng đơn cho một người thì chẳng có căn nào ra hồn cả. Rồi hai đứa nhận ra nếu gộp tiền lại với nhau thì sẽ thuê được một căn khá chất lượng, thế là dọn vào ở chung. Thoải mái lắm đấy, đi bộ đến trường mất có mười phút, Wi-Fi đầy đủ, nhà vệ sinh và phòng tắm riêng, tường dày, đúng chuẩn một căn 2LDK.”

“Ra là vậy… Nhưng anh không thấy bất tiện khi share nhà sao? Em nghe nói nếu không hợp tính nhau thì dễ stress lắm.”

Vì đằng nào sau này tôi cũng mình tự thuê cho mình một căn, nên khi nghe việc share chung cũng là một lựa chọn, tôi bỗng muốn nghe chuyện của anh nhiều hơn. Anh Ozaki khẽ nghiêng đầu như đang suy nghĩ.

“Chắc cũng tuỳ trường hợp thôi, hơn nữa đây cũng không phải là lần đầu bọn anh ở chung với nhau. Bọn anh đã từng ở chung ký túc xá trên một hòn đảo xa lắc xa lơ hồi cấp ba rồi cơ.”

“Hòn đảo… xa lắc xa lơ?”

“Ừm. Một hòn đảo rất nhỏ đến cửa hàng tiện lợi còn không có. Nơi đó đẹp lắm, trường học cũng toàn mấy đứa thú vị nên rất vui. Chắc cả đời này anh cũng không quên được. Người ở chung với anh bây giờ cũng là người đã ở chung ký túc xá với anh ba năm liền, hơn nữa lại còn quen biết nhau từ hồi lớp sáu, nên cũng không có gì bất tiện hay không hợp ý nhau cả.”

Tôi nghe nói anh Ozaki đến từ Yokohama, nên cũng hơi ngạc nhiên khi biết một người như thế từng sống ba năm trên một hòn đảo nhỏ. Và tôi cũng biết được việc anh và người bạn đó đã ở cùng nhau trong một khoảng thời gian khá dài.

Nhưng khi đến ca làm việc, tôi bẵng quên mất đi chuyện về người bạn đó.

Chuyện xảy ra vào cuối tháng Năm.

Hôm ấy tôi cũng làm chung ca với anh Ozaki. Sau khi thay đồng phục, chúng tôi cùng nhau dọn dẹp quán trước giờ mở cửa. Lau sàn đá cẩm thạch cho đến khi không còn một hạt bụi, cắm những bông hoa lộng lẫy vừa được giao tới vào trong bình. Khi mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng, bà chủ bất ngờ đến gần và gọi anh Mikiya.

“Cho ta nhờ chút nhé.”

Nghe bà chủ nói vậy khi kéo vai anh Ozaki đi, tôi vội vàng lùi ra xa. Hôm đó trời cứ mưa rồi tạnh liên tục, nên tôi sẵn lau cả hành lang bên ngoài.

Sau khi cẩn thận lau sàn nhà ướt sũng bằng cây lau, nghĩ rằng chắc đã có thể quay lại được rồi, khi tôi mở cửa ra thì nghe thấy tiếng “Không ạ” của anh Ozaki. Đối với một người hoà nhã như anh Ozaki, thì giọng điệu đó quả có phần gay gắt. Thấy bà chủ và anh Ozaki vẫn còn đang đứng đối diện nhau, tôi bất động tại chỗ, nghĩ rằng “Chết dở”.

“Cậu ấy vốn không thích biểu diễn trước người khác đâu ạ. Bữa tiệc năm ngoái là do em ép nên cậu ấy mới đi cùng. Với lại, dù có biết chơi thì cậu ấy cũng không phải dân chuyên.”

“Thằng bé đó đánh vậy là ổn rồi. Chẳng phải đã từng có khoảng thời gian nó muốn vào trường đại học âm nhạc đấy sao? Tóm lại em cứ thử nói chuyện với nó giúp ta đi.”

“Nhưng mà…”

“Xin em, tình hình khẩn cấp lắm.”

Bình thường bà chủ là một người vô cùng thanh lịch, nhưng khi cần thì bà ấy sẽ toát ra khí chất khiến cho bất kỳ ai cũng không thể nói lời từ chối. Ngay cả anh Ozaki cũng phải im lặng, gật đầu với vẻ đắng ngắt rồi quay người về phòng thay đồ. Tôi hiểu rằng đã có chuyện không hay xảy ra, nhưng không biết là chuyện gì. Vừa cất cây lau nhà, tôi liếc mắc về phía phòng đồ thì đã thấy anh Ozaki quay trở lại sau vài phút.

“Có chuyện gì vậy ạ?”

“Người chơi piano của quán đột ngột nghỉ việc rồi.”

Trên sân khấu ở phía trong sảnh của Alphard có đặt một cây đại dương cầm rất hoành tráng. Ở đó từng có một cô gái trẻ học chuyên ngành piano ở trường âm nhạc Tokyo vẫn thường chơi những bản ballad tao nhã phù hợp với không khí của Alphard. Tuy nhiên, tôi không hay nói chuyện với cô ấy. Cô ấy cũng có chào hỏi, nhưng nếu bắt chuyện thêm thì cô ấy sẽ lườm về phía này với vẻ phiền phức. Không chỉ với tôi mà với toàn bộ nhân viên ở đây, trừ bà chủ.

“Nghỉ việc… Hả!? Là nghỉ luôn ấy ạ!? Tại sao!?”

“Cô ta bảo là ‘Tôi đã tìm được một công việc biểu diễn khác đàng hoàng hơn’. Có lẽ đối với cô ta, việc chơi nhạc ở một câu lạc bộ vào buổi tối là một công việc không đàng hoàng cũng nên. Mà thôi, cái kiểu đã đặt bút nhận tiền mà đột nhiên bỏ giữa chừng như thế sẽ chẳng trụ được ở mấy chỗ khác.”

Sư phụ của tôi đang bực mình nên ánh mắt lạnh tanh, trông có hơi đáng sợ.

“Vậy giờ sao ạ? Quán sắp mở cửa rồi…”

“Bạn ở chung với anh được chỉ định làm thay. Anh vừa liên lạc rồi, trong vòng một tiếng nữa sẽ tới.”

Tôi nhớ lại, nghe nói vào buổi tiệc kỷ niệm mười năm thành lập Alphard năm ngoái, anh Ozaki đã lên hát góp vui. Khi đó, người đệm đàn cho anh cũng là người bạn ở chung. Vậy là nhờ vụ đó mà bà chủ mới nhờ anh Ozaki gọi người bạn ở chung đến đánh thay. Mặc dù đã nắm được ngọn ngành, nhưng mà…

“Bạn ở chung với anh chơi được thật ạ? Đột nhiên bị kêu lên đánh trước mặt nhiều người như thế cũng hơi…”

“Tài nghệ thì anh đảm bảo, với lại tính cậu ấy cũng cứng cỏi lắm, anh nghĩ sẽ không có vấn đề gì đâu...”

 Với một người luôn nói chuyện rõ ràng như anh Ozkai, câu trả lời lần này của anh ấy có chút không chắc chắn. Dường như anh ấy không mấy vui vẻ khi để cho người bạn ở chung đứng trên sân khấu. Vì chính anh ấy nói rằng người bạn đó không thích biểu diễn trước mặt người khác, nên có lẽ anh cảm thấy mình là người đã lôi người bạn đó vào chuyện này.

Do đang là lúc bận rộn trước giờ mở cửa, nên tôi và anh Ozaki đã quay về với công việc của mình.

Đồng điểm tám giờ, dù là đêm mưa nhưng khách vẫn kéo Alphard đến nườm nượp như thường lệ. Khi tôi ra ngoài để đón một vị khách chống gậy, vô số ánh đèn neon của khu Kakubuncho chiếu xuống mặt đường đen nhánh ướt mưa đem lại cho tôi cảm giác như đang ở trong một cung thiên văn.

Có lẽ là khoảng ba mươi phút sau khi mở cửa, vì trời mưa nên sàn nhà gần lối ra vào bị ướt và trở nên trơn trượt, nhân lúc rảnh tay tôi đã lấy cây lau nhà và dọn qua một lượt. Bỗng, cánh cửa màu rượu whisky được đẩy ra. Theo phản xạ, tôi quay lại với nụ cười tươi tắn nhất.

“Xin chào q…”

Giọng tôi nhỏ dần đi khi thấy người đó trông không giống với khách của một câu lạc bộ cao cấp. Dường như vì bị ướt mưa, mái tóc sáng màu của người đó lấm tấm những giọt nước như thể được phủ một lớp sương. Đó là một người đàn ông trạc tuổi tôi và anh Ozaki. Anh ta mặc một chiếc áo hoodie với quần chinos, một bộ trang phục giản dị thường thấy của một sinh viên.

Là đàn ông nhưng anh ta có dáng người mảnh khảnh, gương mặt thì thanh tú tựa như hoàng tử của một vương quốc xa xôi nào đó.

Trong lúc tôi còn đang ngạc nhiên, anh ta ngước nhìn chiếc đèn chùm ở sanh, rồi cảm thán một tiếng “Đẹp quá nhỉ”. Phải một lúc sau, anh ta mới nhận ra tôi rồi “A” lên một tiếng.

“Có thể gọi Ozaki Mikiya giúp tôi không?”

“Dạ… Anh là người được anh Ozaki bảo đến đây để đánh thay piano nhỉ…? Xin hãy đợi em một chút.”

Vừa nói, tôi nhận lấy cây dù của anh ta, rồi vội vàng dùng bộ đàm để liên lạc với anh Ozaki. Ngay lập tức, anh Ozaki trong bộ đồ đen bước ra từ phía sảnh trong.

“Kazuki.”

Trong khi ngước nhìn đèn chùm lần nữa, anh ta quay mặt về phía anh Ozaki khi được gọi.

“Xin lỗi vì đã đột ngột gọi cậu đến.”

“Không sao.”

“… Mà cậu vừa dậy hả? Tóc còn rối bời kìa.”

“Ơ...”

“Mà thôi không sao, ở đây có sáp nên không lo. Trước mắt cứ lại đây với tớ.”

Anh Ozaki kéo tay người tên Kazuki đang đưa tay vuốt sau tóc, vội vã đi thẳng vào trong. Giữa chừng bà chủ cũng ước ra, khẽ ghé tai để các vị khách không nghe thấy.

“Thực sự xin lỗi em vì đã nhờ vả một chuyện gấp rút như thế này. Áo khoác… Không, áo gile sẽ hợp với em hơn. Mikiya, mau lấy cho em ấy đi.”

Trông anh ta bơ phờ như thế liệu có ổn không… Vừa thầm lo lắng, tôi quay trở lại đón tiếp một nhóm khách quen vừa đến. Trong lúc tôi đang dẫn khách vào chỗ ngồi và pha đồ uống, anh Kazuki đã bước lên sân khấu. Anh mặc một chiếc áo trắng, khoác bên ngoài là chiếc gile màu đen cùng và vạt xanh đậm. Sau khi sửa sang lại tóc tai và trang phục, anh Kazuki trông hợp với sân khấu một cách đáng ngạc nhiên.

“Ồ, thay người đánh piano rồi sao? Cậu này trông trẻ quá nhỉ.”

Khi tôi đưa đồ uống cho vị khách lớn tuổi vẫn mặc trang phục truyền thống tao nhã như mọi khi, ông cất tiếng hỏi. Tôi mỉm cười đáp lại “Vâng ạ” ngay lập tức. Nhưng thật lòng thì tôi không khỏi lo lắng. Tôi lén liếc nhìn về phía sân khấu, anh Kazuki đã ngồi trên chiếc ghế không tựa lưng, tay lật nhạc phổ trên bệ đàn. Nhìn vẻ mặt và dáng vẻ ấy, tôi biết anh không hề có chút hồi hộp.

Bà chủ đã khẳng định rằng không cần phải lo về tài nghệ của anh ấy, nên có lẽ là sẽ ổn. Tuy nhiên, đa phần khách quen của Alphard đều là những người sành sỏi, có gu thưởng thức rất cao. Liệu anh trai ngơ ngác bị gọi đến một cách bất chợt kia có thể biểu diễn một bản nhạc xứng tầm với không gian này?

Vậy nhưng đó chỉ là mối lo hão. Anh Kazuki thanh thoát đặt ngón tay lên những phím đàn, bắt đầu đánh những nốt nhạc đầy tự nhiên. Khi âm sắc trong vắt tựa như những hạt pha lê cất lên thành một giai điệu du dương, tiếng trò chuyện ở các bàn dần lắng xuống, các vị khách đều ngước nhìn về phía dương cầm.

“A, là bản Moon River.”

Vị khách lớn tuổi thì thầm một cách hoài niệm. Thấy tôi ngơ ngác, ông cười nhẹ, bảo:

“Cũng phải thôi, cháu sinh ra ở thế kỷ 21 mà.”

Ông giải thích, đây là ca khúc chủ đề của một bộ phim ra mắt cách đây vài chúc năm, tên là “Bữa ở Tiffany’s”. Tên phim thì tôi cũng đã từng nghe qua.

“Ta đã từng xem qua bộ phim vào hồi cấp hai, khung cảnh nàng Hepburn vừa đàn ghi-ta vừa cất tiếng hát thật đẹp đẽ làm sao. Ta đã đòi ba mua cho bằng được đĩa nhạc đấy. Ta đã nghe đi nghe lại biết bao nhiêu lần mà vẫn không thấy chán.”

Nói rồi, vị khách thả hồn vào giai điệu như trở về thời niên thiếu. Ở những bàn khác, rất nhiều người quên cả trò chuyện, quên cả rượu trên tay mà đăm đăm nhìn lên sân khấu. Đó là một màn trình diễn trong trẻo đến tận cùng, làm lay động cả con tim.

Dù chẳng biết nội dung phim hay cả lời bài hát, tôi vẫn bất giác tưởng tượng nên cảnh một vầng trăng tròn trôi thơ thẫn giữa trời đêm, ánh trăng soi rọi xuống mặt sông, lung linh, dập dền, toả sáng một cách mơ màng. Đêm đó, anh Kazuki đã chơi hơn mười bản ballad nổi tiếng.

“Anh đã vất vả rồi. Màn trình diễn của anh, thực sự rất tuyệt vời ạ.”

Đến mười hai giờ đêm, tôi và anh Ozaki là sinh viên nên được cho tan ca sớm. Sau khi thay đồ và chào mọi người trong quán và đi ra lối phụ, tôi thấy anh Kazuki đang uể oải dựa vào bức tường cạnh cửa. Tôi đã cố gắng diễn tả sự xúc động của mình khi thưởng thức màn trình diễn, nhưng cuối cùng lại chỉ thốt ra được những lời nhạt tuếch. Anh Kazuki hơi tròn mắt, rồi mỉm cười nhẹ nhàng.

“Cảm ơn, em cũng vất vả rồi, làm việc đến tận đêm khuya cơ mà. Ừm… Hasekura?”

“Ơ… Anh biết em ư?”

“Mikiya thỉnh thoảng có kể về em, cậu ta rất vui vì kết thân được với đàn em lắm. Mà cậu ta cũng hay tỏ vẻ, thấy chướng mắt thì cứ bỏ qua nhé.”

“Này, nói vậy người khác buồn đó. Thôi Hasekura, bọn anh về trước.”

Anh Ozaki khoác túi xách lên vai, đẩy lưng anh Ozaki rồi nhanh chóng ra khỏi quán. Phía bên kia cánh cửa dần khép lại, anh Kazuki khẽ vẫy tay, tôi cũng cúi đầu đáp lại.

Sau này tôi mới biết, anh Kazuki đã được bà chủ hết lời mọi gọi về đánh piano cho quán, nhưng anh đã từ chối với lý do “Cứ đến mười giờ tối là mắt em mở hết lên rồi”. Tôi rất muốn thưởng thức thêm tiếng đàn của anh Kazuki, nên sau khi biết chuyện tôi đã rất thất vọng, nhưng rồi cũng quên bẵng đi.

Lần tiếp theo tôi gặp anh Kazuki là hơn một tháng sau đó.

2

“Đừng đi mà”!

Khoảnh khắc cô ấy hét lên câu đó trong nước mắt, tôi choàng mình tỉnh giấc.

Căn phòng lúc rạng đông không một tiếng động, xanh thẳm như đáy biển. Tôi nín thở, dán chặt người trên giường như một con sao biển. Ánh đèn neon từ một quán rượu gần đây hắt lên tường, nhấp nháy chập chờn.

Dù biết rằng những gì vừa xảy ra chỉ là mơ, còn đây mới là thực tại, thế nhưng trái tim của tôi vẫn không thể theo kịp. Nỗi cô đơn khốn cùng cào cấu lồng ngực, tôi vùi mình vào chiếc chăn mỏng. Tôi úp mặt vào gối, nghiến chặt răng, cố hết sức chờ cho nỗi sầu buồn thảm đi qua.

Khi cơn bão cảm xúc cuối cùng cũng lắng xuống và cơ thể của đã kiệt quệ tới mức đến ngón tay còn không di nổi, trời bên ngoài đã bừng sáng. Mặt trời ló dạng ở phía bên kia tấm rèm mỏng, tựa như quả cầu thuỷ tinh vừa được lấy ra từ lò luyện. Hôm nay trời cũng trong xanh, sáng chói đến mức khiến tôi phải nheo mắt lại. Một buổi sáng đẹp đến mức khiến tôi muốn nguyền rủa.

Rất lâu về trước, tôi đã đánh mất một điều vô cùng quý giá. Kể từ đó, tôi có cảm giác như trái tim mình đã bị khuyết đi một nửa. Vậy mà ngày qua ngày trong suốt mười năm qua, tôi vẫn cố gắng vật lộn với những buổi sáng luôn đến một cách đều đặn. Dù tâm trạng có nát bươm thế này, thì tí nữa tôi vẫn sẽ ăn cơm, lên trường, học hành, rồi lại làm thêm ở Alphard. Tôi cứ nhìn vào khoảng không, tay vò đầu bứt tóc khoảng ba mươi phút cho đến khi cảm giác buông xuôi ập đến.

Tôi lề mề thay áo thun và quần jeans. Khi chỉ định mang theo điện thoại, ví và chìa khoá để ra khỏi nhà, ánh nhìn của tôi dừng lại ở hộp đàn vĩ cầm hình chữ nhật được dựng bên cạnh bàn.

Tôi nhấc chiếc hộp lên, nhẹ nhàng đặt nó nằm ngang trên bàn như thể đang đối đãi với một quý cô. Mở chiếc hộp ra, cây vĩ cầm mang màu sắc như được ngâm trong si-rô lá phong, nó say ngủ trong lớp đệm được tuốt tát vừa vặn theo hình dáng của nó. Chợt nhớ ra phải thay dây đàn, tôi dùng đầu ngón tay gả nhẹ dây E, một tiếng “ping” yếu ớt vang lên.

Cây vĩ cầm mà Itsuzu đã chơi cho tôi nghe năm tôi chín tuổi, âm thanh của nó toả sáng lấp lánh giữa không trung. Cô ấy đã dạy cho tôi mọi thứ, từ cách cầm vĩ, cho đến khi đánh lên được âm vĩ trong trẻo thay vì tiếng keng két. Khi đó, tôi đã thực sự hạnh phúc biết bao.

Từng có giai đoạn chỉ cần chơi violin là tôi sẽ có cảm giác được kết ối đôi chút với Itsuzu. Thế nhưng đã mười năm trôi qua kể từ khoảng thời gian ấy, cảm giác đó giờ đã phai tàn.

Khi tôi từ cửa hàng tiện lợi trở về, Madoka, người thường ngủ đến sát giờ làm, đang ngồi trên sofa nghịch điện thoại. Chị ấy mặc một chiếc áo ba lỗ với quần nỉ, tóc tai bù xù như vừa bước ra khỏi giường, chân dang rộng, một bộ dạng tuyệt đối không thể để cho người ngoài trông thấy.

“Chào buổi sáng. Chị dậy sớm nhỉ.”

“Chào, cậu mới sớm ấy. Này Sota, coi thử xem cái nào hay hơn?”

Chị ấy xoay chiếc điện thoại về phía tôi. Tò mò lại gần xem đó là cái gì, tôi hít một hơi lạnh tanh.

“Mới sáng sớm mà chị tra cái gì thế!”

“Cái ‘Búp bê rơm nguyền rủa siêu linh nghiệm’ này nhìn hợp ví, nhưng xét về độ chắc ăn thì ‘Búp bê rơm nguyền rủa tối thượng’ này sẽ ngon hơn nhỉ. Cái lão trưởng phòng ngốc đó, tài năng thì không có, chỉ có sống dai là giỏi.”

“Làm ơn, tắt đi.”

“A, cái này trông cũng được này. ‘Chỉ cần gửi cho người bạn ghét! Búp bê Ichimatsu nguyền rủa tất sát (chú ý hàng thật)’. Hừm hừm, xài con này thì khỏi cần phải lặn lội đến đền thờ để đóng đinh vào con búp bê nhỉ. Cứ vứt nó lên bàn làm việc của ông trưởng phòng ngốc đó là xong. Được, ta chọn mi.”

“Đã bảo tắt đi mà!”

Tôi giật lấy chiếc điện thoại khỏi tay ngay khi chị ấy định ấn nút mua hàng, Madoka sau đó phụng phịu lẩm bẩm đầy quan ngại: “Giá mà lão ta thăng thiên thì thế giới này đã hoà bình…” rồi biến mất vào phòng tắm. Tôi thở dài, đóng trang web có thiết kế máu me cùng những quả cầu lửa bay loạn xạ.

Madoka năm nay hai mươi bảy, hơn tôi tám tuổi, hiện đang làm việc cho một công ty IT trong thành phố Sendai. Tôi không biết công việc chi tiết công việc, nhưng ngày nào ngày nấy trông chị ấy cũng đều bận rộn. Hơn nữa, có vẻ như chị ấy không hợp với tên trưởng phòng vừa mới chuyển đến vào mùa xuân. Chị thường tu chai rượu shochu khoai lang, vừa lăng xả mấy câu kiểu: “Đồ hèn nhát chỉ biết kính trên nạt dưới!”, “Hỏi người ta có bạn trai chưa là quấy rối tình dục đấy!”. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy chị có ý định nguyền rủa người ta thật.

Tôi kiểm tra đồng hồ trên điện thoại, đã hơn sáu giờ sáng. Tôi lấy lại tâm trạng và bắt tay vào chuẩn bị bữa sáng. Tôi vo mẻ gạo được gửi lên từ nhà rồi cho vào nồi cơm điện, sau đó đổ gói súp miso ăn liền vào nồi nước đang sôi. Giữa chừng, tôi sực nhớ rồi lấy bột nêm từ trong tủ lạnh và cho vào một lượng theo lời tổ tiên mách bảo. Tiếp theo, tôi nếm thử phần canh vừa hoà tan có hạn sử dụng hơi đáng ngờ.

Ngay khi nồi cơm phát ra một tiếng nhạc “Piro piron” vui tai, tôi trộn sốt mayo vào hộp cá ngừ một cách ngẫu hứng. Tôi bới cơm vừa chín vào đĩa đựng cà ri thay cho bát, rắc lên phần salad hỗn hợp cũng vừa mua ở cửa hàng tiện lợi. Ngay khi vừa cho cá ngừ sốt mayo và lòng đỏ trứng lên, sau đó rắc thêm một chút bột dashi, tôi nghe thấy tiếng cửa phòng tắm mở.

Madoka với chiếc khăn còn quấn trên đầu “A” lên một tiếng khi thấy đĩa cơm cá ngừ sốt mayo.

“Nay ăn sang ghê nhỉ.”

“Hôm nay em có thời gian. Chị muốn uống sữa hay cà phê gì đó thì tự lấy giùm.”

Tôi múc súp miso vào những chiếc bát mua ở cửa hàng 100 yên, rồi bê chúng với hai phần cơm cá ngừ ra chiếc bàn thấp ở phòng khách. Madoka đã chuẩn bị sẵn thìa và đũa, chị ấy cũng rót hai ly nước ép rau xanh để bù cho phần chất xơ bị thiếu hụt. Chúng tôi bật tivi, sau đó cùng chắp tay và mời ăn.

“Từ hồi ở chung với cậu, đời sống ăn uống của chị trở nên phong phú hẳn ra.”

Madoka vừa nói với vẻ mặt sâu sắc, vừa dùng thìa làm vỡ lòng đỏ trứng trên đĩa cơm, còn tôi thì chỉ biết cười trừ. Hồi mới chuyển đến Sendai vào mùa xuân, tôi cứ nghĩ rằng mấy việc bếp núc hay làm việc nhà sẽ do Madoka lo liệu. Chắc trong tôi vẫn còn tồn tại suy nghĩ rằng vì tôi là con trai, vì Madoka là con gái.

Nhưng xét trên thực tế, Madoka ngày nào làm về cũng mệt lử nên chẳng có tâm sức đâu mà nấu nướng, quần áo thì chất đống, còn lần dọn dẹp nhà cuối cùng là khi nào thì chị ấy cũng chẳng nhớ nổi. Chưa hết, ngày nghỉ cô chỉ toàn lăn ra ngủ vì quá mệt. Tôi đã sốc khi nhận ra rằng những công việc hằng ngày trong cuộc sống mà tôi cứ ngỡ là Madoka sẽ làm, cuối cùng lại rơi vào tay tôi.

Hồi còn ở quê tại thị trấn Kuratsu, mọi việc đều do người lớn làm cho, nên kỹ năng nội trợ của tôi phải nói là hết cứu. Nhưng rồi tôi cũng xoay sở được bằng cách xem hướng dẫn trên mạng rồi bắt chước theo. Mấy món tôi hay nấu chỉ toàn những món đơn giản đến mức còn chẳng thể gọi là nấu ăn, đồ bẩn thì hay chất đống, bàn ủi thì không biết dùng, còn dọn dẹp thì hai tuần một lần. Mà chắc thế cũng được rồi.

“Sota, dạo này việc học hành thế nào?”

“Thế nào ư… Bình thường.”

“Này, chị đang hỏi cậu đấy. Trả lời sao cho có chút tình thương mến thương xem nào. Kiểu đó thì không kiếm nổi bạn gái đâu.”

“Này nhé, chị đừng nghĩ mọi nam sinh viên trên đời này đều muốn có bạn gái. Còn chị thì sao, người bạn trai không tăm hơi của chị đâu rồi ấy nhỉ.”

“Ê? Mới sáng ra mà muốn tỷ đệ tương tàn rồi hả?”

Chúng tôi vừa ăn cơm cá ngừ sốt mayo vừa đấu khẩu với tiếng chương trình tin tức buổi sáng làm nhạc nền. Bất chợt, một cảm giác kỳ lạ ấp đến. Giống như khi nhớ ra đoá hoa trong bình làm bừng sáng căn phòng thực chất chỉ là một bông hoa giả được làm công phu và rồi nhiệt độ trong tâm trí lặng lẽ hạ xuống.

Hồi còn ở chung tại Kuratsu, chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện thân thiết với nhau như thế này. Vì vậy lúc lên đường đến điểm hẹn sau khi quyết định sẽ ở chung với Madoka, trong lòng tôi đã rất căng thẳng. Tôi không biết phải bắt chuyện với Madoka như thế nào khi chị ấy đã đến và đợi trước, cảm giác như đổ chì vào dạ dày vậy.

“Yo, đã lâu không gặp. Vẫn khoẻ chứ?”

Vậy mà chị Madoka lại cười tươi như thể vừa gặp lại đứa em thân thiết lâu ngày. Từ đó đến nay vẫn như vậy, thế nên tôi cũng đối xử với Madoka như một người chị thân thiết. Chắc như vậy cũng ổn, chẳng có vấn đề nào phát sinh, ngược lại chúng tôi còn khá hoà hợp. Nếu vậy, dù đó đó là hoa giả đi chăng nữa, chỉ cần mỗi ngày đều trôi qua như vầy thì tôi cũng đã đủ mãn nguyện.

“Hừm, nạp protein vào có sức ra hẳn. Chị thấy thay vì trừ khử lão trưởng phòng ngốc đó, thì mình nên giật dây điều khiển ổng như một quân cờ thì sẽ khôn ngoan hơn. Chị tin rằng mình có năng lực để làm điều đó.”

“Tích cực là tốt.”

“Được, chuẩn bị tác chiến thôi.”

Madoka ăn xong thì đi về phòng mình, còn tôi thì mang chén đĩa vào bếp. Căn hộ này có hành lang nối từ cửa ra vào, đi ngang qua sẽ thấy phòng tắm và nhà vệ sinh, kế đến là phòng khách rộng mười chiếu tatami gồm bếp và ban công.

Phía đông phòng khách là hai phòng ngủ kiểu Tây, một phòng rộng tám chiếu, một phòng rộng sáu chiếu. Căn phòng tám chiếu có ban công là của Madoka, phòng sáu chiếu bên cạnh là của tôi. Toàn bộ tiền thuê nhà, điện nước ga và tiền ăn đều do Madoka chi trả nên tôi rất biết ơn chị ấy. Nhờ vậy mà ngoài học phí đại học, tôi không phải tạo thêm gánh nặng nào cho cha mẹ.

Sau khi phân loại đống chén đĩa, tôi bắt đầu phân loại đống thư bị vứt ngổn ngang trên bàn. Nói là phân loại chứ hầu như một trăm phần trăm chúng là thư được gửi cho Madoka. Vừa xem tivi, tôi vừa xếp qua loa lên bàn nào là phong bì của toà thị chính có điền “Gửi cô Nishijo Madoka”, nào là thư từ thẩm mỹ viện,… Nhưng đến cuối, một phong bì với tiêu đề “Gửi Hasekura Souta” hiện ra khiến tôi giật mình. Tôi lật mặt sau xem người gửi là ai thì nhận ra đó là thư của mẹ tôi được gửi từ thị trấn Karatsu, điều đó càng khiến tôi thêm kinh ngạc.

Khi xem bên trong, đó chỉ là thư thông báo tình hình dạo này lẫn hỏi thăm sức khoẻ của tôi và Madoka. Trong phong bì có tờ mười nghìn yên kèm theo dòng ghi chú viết tay “Dùng tiền ăn cái gì đó ngon ngon với Madoka nhé”. Mà khoan, thông thường thì không được gửi tiền qua dường bưu điện thì phải? Mẹ tôi là người có chút vô tư, nên mấy kiểu này cũng ra dáng của bà ấy.

Tôi cho lại lá thư vào phong bì trong cảm giác áy náy. Kể từ khi đến Sendai, tôi hầu như không gọi điện hay nhắn tin gì cho gia đình ở Karatsu… Ngay cả khi có nhận được liên lạc, tôi cũng thường viện cớ bận bịu với bản thân để không gọi lại hay trả lời.

Đang phân vân không biết có nên gọi điện thoại hay không, Madoka đã bước ra khỏi phòng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Madoka đã trang điểm đầy đủ, khoác trên mình chiếc đầm liền thân có thắt lưng sành điệu cùng chiếc áo khoác trắng không cổ, chị trông giống như một doanh nhân thành đạt, như thể bộ dạng lôi thôi khi nãy chỉ là giả dối.

Khi tôi kể chuyện lá thư cho chị ấy, Madoka “A” một tiếng rồi đưa tay sờ gáy.

“Dạo này không có thời gian nên cũng lười liên lạc.”

“Vậy còn số tiền này thì…”

“Chị không cần. Chị đã quá tuổi nhận tiền tiêu vặt từ người lớn rồi. Cậu cầm lấy mà đi chơi với bạn bè, hay đi ăn bò chẳng hạn? Lưỡi bò ở Sendai ngon nhất là phần gốc lưỡi đấy.”

“Em còn phải đi làm thêm, cũng không thích đi ăn uống này nọ. Thôi trước mắt chị cứ…”

“Souta. Khoảng thời gian mà cậu đang trải qua là khoảng thời gian rực rỡ, tự tại và quý giá nhất cuộc đời đó. Nhưng nếu cứ như vầy, khoảng thời gian ấy của cậu sẽ chỉ kết thúc trong học hành và làm thêm. Đừng có ngại ngùng khúm núm như thế, tận hưởng nó đi.”

Madoka đột nhiên nghiêm túc đến đáng sợ khiến tôi chỉ biết câm nín. Giữa tôi và Madoka như được giăng một sợi dây cấm xâm phạm. Chúng tôi đã ngầm thoả thuận rằng cả hai sẽ không chạm đến nó. Nhưng vừa rồi, Madoka đã chạm vào sợi dây. Trong suốt mười năm kể từ khi tôi trở thành em trai của chị ấy, chuyện này chưa từng một lần xảy ra.

Thấy tôi không nói gì, Madoka nhìn xuống đồng hồ trên tay rồi trở lại với giọng điệu bình thường: “Chết, muộn rồi. Thế nhế, chị giao chìa khoá cho cậu” rồi vội vã rời khỏi nhà.

*

Ngôi trường mà tôi bắt đầu theo học từ mùa xuân nằm trên núi Aoba, nơi Date Masamune đã dựng thành Sendai. Nói là núi chứ nó chỉ là một khu đất cao, giống với một ngọn đồi hơn. Có cả xe buýt lẫn tàu điện ngầm nên việc đi lại cũng không có bất tiện. Tuy nhiên, quan cảnh bao quát phố thị từ di tích thành Sendai sau khi leo một đoạn dốc mệt lả người, lại đẹp đến quên cả thời gian.

Để đến trường từ khu chung cư mà tôi và Madoka sống, trước tiên phải đến ga Sendai, sau đó đi tàu điện ngầm đến núi Aoba. Thời gian di chuyển khoảng ba mươi phút. Nhân tiện nếu xuống tàu ở một ga trước đó, bạn sẽ bắt gặp một khu đất rộng thênh thang với cả tá toà nhà hoành tráng nằm san sát nhau, đó chính là khuôn viên của trường đại học mà anh Ozaki đang theo học. Nói cách khác, tôi và anh Ozaki mỗi ngày đều vùi đầu vào sách vở ở hai khu vực khá gần nhau, thế nhưng ngoài chỗ làm thêm ra thì tôi chưa từng gặp anh ấy bên ngoài bao giờ.

Từ ga tàu điện ngầm, tôi đi bộ dọc theo con đường có cây cối um tùm, sóc và cả lửng chó, nơi này trông như được khai phá từ vùng đồi nhấp nhô. Đi thêm một lúc sẽ thấy cánh cổng làm bằng gạch hiện, phía sau đó là khuôn viên trường mà tôi sẽ gắn bó trong bốn năm sắp tới.

“Satou… chào buổi sáng.”

Vừa lau mồ hôi chảy dài trên thái dương, tôi lê bước trên lên cầu thang của tòa nhà giảng đường để đến lớp học của tiết một. Khi đến nơi, chiếc ghế ở hàng thứ tư từ trên xuống vốn là "vị trí cố định" của tôi đã có chủ nhân.

“Chào, hôm nay cậu đến sớm nhỉ.”

“Hôm nay tớ không ngủ được, không có gì làm nên tới trường sớm… Tớ ở đây từ một tiếng trước rồi…”

“Dù vậy cũng là quá sớm rồi đó.”

“Tớ quên ăn sáng, nhưng trời nóng quá nên cũng lười đi mua… Đói meo…”

Người đang nói chuyện với giọng uể oải và mệt lả này là Hinohara Kei, một chàng trai tựa như bức tượng thạch cao trong phòng mỹ thuật. Gương mặt cậu ta có đường nét cực kỳ cân đối và sắc mặt thì lúc nào cũng tệ, hôm nay trông cậu ta lại càng xanh xao hơn. Tôi lôi từ trong ba lô ra nắm cơm được làm từ cơm trắng và cá ngừ mayo còn thừa từ bữa sáng rồi đưa cho Kei. Kei đỡ lấy nắm cơm được bọc trong màng bọc thực phẩm bằng cả hai tay, rồi ghé sát mặt vào tôi tỏ tình: "Sota, tớ yêu cậu." Tôi lịch sự đẩy vẻ đẹp u sầu của cậu ta ra.

“Mà này, cậu làm xong báo cáo môn Giáo dục thông tin chưa?”

“Có bài tập báo cáo luôn hả…?”

“Khoan, mai là hạn nộp đấy. Ổn không thế?”

Ban đầu, tôi đã khá bối rối với việc học ở đại học, vốn có cơ chế khác nhiều so với thời cấp ba. Nhưng đến giữa tháng bảy này, tôi đã quen với nó như thể nó đã luôn như vậy từ mười năm trước. Quen với cả những buổi giảng kéo dài chín mươi phút, và cả những bài báo cáo phải viết thường xuyên.

Chúng tôi đang theo học lớp đào tạo giáo viên tiểu học của khoa Giáo dục. Nói cách khác, chúng tôi đang đặt mục tiêu trở thành những thầy cô giáo trong tương lai. Tôi cũng chẳng có lý tưởng vĩ đại nào cả, chẳng qua vào năm lớp ba đã từng xảy ra một trận thiên tai lớn, các thầy cô khi ấy đã hết mình bảo vệ chúng tôi. Hình ảnh ấy đã khắc sâu vào sâu trong tim, và với động cơ có chút này nọ là làm giáo viên thì sẽ không lo đó ăn, thế nên tôi đã chọn con đường này.

Đang gặm dở nắm cơm, Kei cất tiếng thở dìa. Là một người đã chơi với cậu ta hơn ba tháng từ khi nhập học, tôi cảm thấy nồng độ uể oải trong tiếng thở dài đó cao hơn mọi khi.

“Có chuyện gì à? Ngoài việc không ngủ được.”

“Tớ nghĩ bảy mươi phần trăm nỗi khổ của con người đến từ các mối quan hệ…”

“Hở?”

“Chào buổi sáng, Souta, Kei.”

Chiharu với chiếc túi xách màu xanh da trời khoác trên vai, cất lời chào rồi ngồi xuống bên cạnh tôi. Dù bên ngoài trời đổ lửa đến mức bản tin thời sự kêu chúng ta không được chạy nhảy, nhưng Chiharu vẫn cài chiếc cúc áo trên cùng của áo blouse trắng một cách ngay ngắn. Từ mái tóc ngang vai được cắt không quá lông mày, cho đến cặp kính coi trọng tính thực dụng hơn là thẩm mỹ, tất cả đều nói lên sự kỹ tính của cậu ấy.

Chiharu Hayasaka, Kei, và tôi hầu hết đều có những môn chung lịch, thế nên chẳng biết từ lúc nào cả ba đứa đã luôn ngồi cùng với nhau trong mấy lớp học. Hôm nay cũng không có gì thay đổi, thế nhưng…

“Kei… Hôm nay mặt cậu xanh xao như ma ấy. Có ngủ đủ không đó?”

“Chi-chan khác gì, mắt cậu thâm như gấu trúc rồi kìa… Lại nghĩ ngợi linh tinh gì rồi phải không?”

“Nhưng tớ nghĩ đó vẫn là phương án tốt nhất. Nếu tớ nghỉ thì chị Takaizumi cũng sẽ–“

“Sao mà được chứ, có mỗi cậu chịu thiệt là không thể được.”

Chiharu và Kei kẹp giữa tôi, bắt đầu một cuộc trò chuyện không đầu không đuôi với vẻ mặt nghiêm trọng, khiến tôi phải hết lần nhìn qua nhìn lại giữa hai đứa như xem một trận bóng bàng.

“Sao thế? Chị Takaizumi bị sao à?”

Kei vừa vo tròn giấy gói, vừa quay cái mặt uể oải còn dính mép về phía tôi.

“Tớ với Chi-chan đang trong thời kỳ chiến tranh với chị Takaizumi.”

… Sáng sớm ra mà gió chẳng hề lặng. Thực ra tôi đã từng tham gia một câu lạc bộ, dù chỉ được một tuần rồi nghỉ.

Câu lạc bộ đó có tên là “Câu lạc bộ Nhạc thính phòng”, hồi tôi đến để tham quan thì Kei và Chiharu cũng có mặt ở đó. Vốn dĩ số thứ tự theo họ của tôi – Hasekura, Chiharu – Hayasaka, Kei – Hinohara, khá gần nhau nên trong lớp cũng sớm nhận ra nhau. Và tình cờ thay tại buổi tham quan, cả bọn biết được rằng tôi chơi violin, Chiharu chơi viola, còn Kei chơi cello, nên ba đứa mới trở nên thân với nhau. Cả bọn còn cười đùa với nhau rằng đội hình này có thể lập nên một ban tam tấu.

Câu lạc bộ Nhạc thính phòng là một câu lạc bộ cỡ vừa với tầm ba mươi thành viên, không quá nổi nhưng lại là nơi tập hợp của những người yêu âm nhạc, không khí cũng hoà đồng vui vẻ. Vì trước giờ tôi chưa từng chơi nhạc cùng ai, nên đã nghĩ rằng vào đây sẽ vui lắm.

Thế nhưng khi vào CÂU LẠC BỘ rồi, tôi mới nhận ra một vấn đề.

“Chúng ta là một CÂU LẠC BỘ được công nhận chính thức và có thành tích hẳn hoi, thế nên những ai tham gia nữa vời sẽ trở thành mắt xích yếu. Đặc biệt là trong tổ violin của tôi, tôi sẽ không tha thứ cho những kẻ hời hợt. Trước mắt mọi người hãy thể hiện năng lực cho tôi xem. Hãy chơi với tâm thế rằng violin là nhân tố chính của nhạc thính phòng.

Trong Câu lạc bộ Nhạc thính phòng có bốn tổ: Violin, viola, cello và các nhạc cụ khác như sáo hay kèn ô-boa. Mỗi tổ đều có một người đứng đầu gọi là tổ trưởng. Tổ trưởng violin mà tôi tham gia là một chị sinh viên năm ba tên Takaizumi, người vừa mới nhậm chức tân chủ nhiệm CÂU LẠC BỘ vào tháng Tư này.

Ngay từ ngày đầu tiên, tôi đã cảm thấy không hài lòng với cách nói chuyện của Takaizumi, nào là “Tổ vilion của tôi”, “Hãy thể hiện năng lực đi”, nhưng tôi vẫn làm theo lời và chơi một bản nhạc trước mặt chị ta. Chị ta bắt chéo chân, khoanh tay như một đạo diễn điện ảnh. Và khi tôi chơi xong, chị ta hất cằm lên và nói:

“Cậu học khoa Giáo dục nhỉ. Cậu bắt đầu chơi violin từ khi nào?”

“Từ lúc chín tuổi ạ.”

“Hừm. Học khối xã hội nhưng đánh cũng không tệ. Tạm thời cho qua.”

Xém tí nữa là tôi lỡ buột miệng hỏi: “Chẳng lẽ chị nói ‘không đạt’ là người ta bị sút khỏi CÂU LẠC BỘ luôn à?”, nhưng đã cố nuốt ngược vào trong. Takaizumi chuyên về vilion, học chuyên ngành Sư phạm âm nhạc thuộc lớp đào tạo giáo viên trung học cơ sở. Nghe nói chị ta chơi đàn từ năm hai tuổi nên kỹ năng bỏ xa các thành viên trong CÂU LẠC BỘ, hồi lớp chín còn đạt được thành tích đáng nể trong một cuộc thi âm nhạc lớn.

Nhưng mặt khác, thái độ đối xử với những thành viên học cùng ngành như “những đồng chí ưu tú”, còn những người khác thì xem như “thấp kém hơn mình” khiến tôi không thể nào ưa nổi. Nhưng nếu chỉ có nhiêu đó, tôi vẫn có thể tặc lưỡi cho qua với suy nghĩ: “Chắc là do chị ta thừa nhiệt huyệt với âm nhạc ấy mà”.

Thế nhưng, tôi đã hết cho qua nổi sau một tuần tham gia Câu lạc bộ.

"Cha chị kinh doanh một công ty thương mại, có rất nhiều người quen trong giới tài chính và chính trị đó. Ông ấy thương chị lắm, lúc chị vào cấp ba, ông đã tặng chị cây violin này làm quà, nghe nói là tìm được ở Ý. Hình như giá của nó khoảng tám triệu yên thì phải.”

Tôi đã quên mất tại sao câu chuyện lại chuyển sang chủ đề ấy, nhưng Takaizumi hôm đó đã bắt đầu kể lể như vậy. Tôi chỉ gật đầu, đáp lại đều tăm tắp “Thế ạ”. Có lẽ vì không hài lòng với thái độ thờ ơ của tôi, Takaizumi đã chuyển tầm mắt sang chiếc violin màu si-rô là phong của tôi.

“Cây violin của em là của hãng nào thế? Giá bao nhiêu?”

“Không biết ạ. Cây này em được cho từ một đợt quyên tặng nhạc cụ cho trường tiểu học.”

“Gì cơ? Quyên tặng là sao? Chơi nhạc cụ nửa vời thì không nửa vời được đâu, đồ nào của nấy đấy.”

Ngay lúc đó, tôi nghe rõ tiếng chuông báo động vang lên inh ỏi trong đầu mình.

"Em rất thích cây đàn này, và cũng rất biết ơn người đã quyên tặng nó. Và tuy em không được nuôi dạy trong một gia đình tử tế như chị, nhưng em nghĩ mình vẫn đủ hiểu việc coi thường và cười nhạo người khác nó đáng khinh bỉ đến mức nào."

Có vẻ như Takaizumi phải mất một lúc mới hiểu ra mình vừa bị nói xoáy. Khi thấy sắc máu sắp dồn lên má của chị ta, tôi biết thế này thì chịu rồi. Nếu cứ ở lại đây thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ choảng nhau (nghĩa bóng) với chị ta, rồi làm ảnh hưởng đến người khác, và trên hết là tôi đã không còn muốn ở gần con người này. Đây là chuyện không thể tránh khỏi.

“Em xin lỗi, em xin rời CÂU LẠC BỘ từ hôm nay ạ. Tuy thời gian ngắn ngủi nhưng cảm ơn chị đã chiếu cố.”

Tôi cúi đầu dứt khoát, mau mau thu dọn violin rồi rời đi. Tối hôm đó, Kei và Chiharu đã nhắn cho tôi với nội dung: “Souta, cậu nghỉ thật à?”, “Chị Takaizumi đang nổi trận lôi đình kìa, có chuyện gì thế?”. Tôi chỉ trả lời đại khái để cho qua chuyện: “Hình như tớ không hợp lắm, xin lỗi nhé”. Từ hôm đó tôi bắt đầu dồn sức tìm việc làm thêm, may mắn được nhận vào Alphard và có cuộc gặp gỡ với sư phụ về mặt tinh thần là anh Ozaki. Hơi dài dòng, nhưng vừa rồi là phần dạo đầu.

“Thế vụ chiến tranh với chị Takaizumi là sao?”

Kết thúc tiết thứ hai là đến giờ nghỉ trưa. Tôi, Kei và Chiharu di chuyển đến nhà ăn sinh viên. Tôi gọi một phần cơm gà chiên tatsuta, Chiharu gọi mì udon lạnh salad, còn Kei, người hay bị lạnh, lại chọn một phần mì soba tempura nóng hổi giữa ngày hè oi ả này. Kei và Chiharu ngồi ở phía bên kia bàn, còn tôi ngồi một mình ở phía bên này.

Kei và Chiharu nhìn nhau như thể muốn nói ai sẽ là người mở lời trước. Rồi Kei lên tiếng:

“Cả tớ và Chi-chan đều ở khác tổ với chị Takaizumi nên lúc đầu cũng chả quan tâm mấy, nhưng khi bắt tay vào chuẩn bị cho Eki-con thì… Mà Souta, cậu có biết gì về Eki-con không thế?”

“… Buổi hoà nhạc ở ga Sendai chứ gì.

Eki-con (hay buổi hoà nhạc ở nhà ga) là một lễ hội âm nhạc có sự tham gia của người dân do Tổ chức cộng đồng dân cư Sendai tổ chức, các nghệ sĩ nghiệp dư sẽ biểu diễn tại một hội trường trong khuôn viên ga Sendai. Đối với dân bán chuyên đây là cơ hội quý báu để họ phô bày khả năng, đối với người dân thì đây là một sự kiện có thể giúp họ hưởng thức âm nhạc miễn phí. Hồi còn là thành viên, tôi có nghe nói rằng Câu lạc bộ Nhạc thính phòng cũng sẽ tham gia vào sự kiện này. Eki-con được tổ chức vào ngày thứ Bảy – Chủ nhật cuối tháng Bảy hàng năm, nghĩa là chỉ còn mười ngày nữa là sự kiện sẽ diễn ra.

“Từ hồi bọn tớ bắt đầu lập các nhóm tứ tấu và ngũ tấu để luyện tập cho Eki-con, tính độc đoán của chị Takaizumi hiện lên thấy rõ luôn. Đặc biệt là cách chị ta đối xử với đám năm nhất không thuộc chuyên ngành sư phạm âm nhạc, vấn đề to luôn ấy.

“À…”

“Bọn tớ bị chị ta sai vặt đủ kiểu, cứ như là đầy tớ vậy. Đúng là chị Takaizumi là tiền bối và bọn tớ là hậu bối, nhưng mối quan hệ tiền bối-hậu bối đâu có sinh ra vì mấy mục đích như thế. Rồi còn chuyện tiền nong nữa, lâu lâu chị ấy còn lấy cớ trời nóng rồi bắt bọn tớ đi mua nước cho mấy anh chị năm ba, có lúc còn dùng cho mục đích riêng nữa. Tiền do mấy đứa năm nhất bỏ ra thì chị ấy nói là ‘Có đáng bao nhiêu đâu’, rồi quỵt luôn.”

Tôi thấy bực mình, cau mày lại. Như thế có khác gì trấn lột.

“Không có ai ngăn lại luôn à? Tiền bối chẳng hạn?”

“Nói thật, tình hình này thì khó mà trông chờ lắm. Mấy anh chị năm tư thì bận bịu tìm việc với làm khóa luận tốt nghiệp, năm ba thì hầu hết là vây cánh của chị Takaizumi, năm hai thì ai cũng rén nên chẳng dám hó hé nửa lời. Trình violin của chị Takaizumi thì xuất sắc miễn bàn, giọng to lại còn đanh đá, chẳng chịu nhún nhường ai trong bất cứ chuyện gì. Và trong thời khắc đó, Chi-chan dễ thương nhân hậu của chúng ta đã vùng dậy.”

Kei đưa tay về phía Chiharu, cô bạn đang ăn mì udon lạnh xì xụp liền dừng lại. Chiharu ư? Tôi nhìn chằm chằm vào cậu ấy, Chiharu đỏ mặt đẩy gọng kính lên.

“Tớ với Chi-chan, cùng với hai bạn nữ năm nhất khác chơi violin đã thành lập một nhóm tứ tấu, nhưng xui thay bạn chơi violin chính lại bị chị Takaizumi nhắm đến. Cô bạn đó không thuộc dạng giỏi từ chối, chị Takaizumi biết vậy nên càng lấn tới. Nhìn thấy cảnh tượng đó, Chi-chan đã nói thế này: ‘Việc việc CÂU LẠC BỘ em còn hiểu được, nhưng không có chuyện là hậu bổi thì phải làm theo mọi lời sai khiến, phục vụ cho việc riêng của tiền bối. Như thế là rất vô lý’. Cậu ấy còn yêu cầu chị ta phải làm rõ chuyện tiền nong nữa, Chi-chan lúc đó kiên quyết và ngầu lắm.”

Tôi vốn nghĩ Chiharu thuộc dạng trầm nghiêm túc, ít nói, trầm tính, nên khi biết cậu ấy là một người bạo dạng đến như thế, tôi đã vô cùng bất ngờ. Chiharu cúi gầm mặt với vẻ khó xử:

“Kei, cậu làm lố quá rồi đó…”

“Mấy đứa năm nhất cũng bất bình từ trước, thấy thế cũng lao vào phản đối chị Takaizumi. Bị dồn tứ phía như thế chắc chị ta cũng đuối lý nên đã nói từ nay sẽ rút kinh nghiệm, chuyện tiền nong cũng sẽ trả đủ. Mọi chuyện coi như đã ổn thỏa, ít nhất là vào lúc đó.”

Câu nói chêm thêm ở cuối khiến tôi có linh cảm không lành, tôi nhăn mặt. Kei thở dài một tiếng đầy uể oải, rồi gấp miếng tempura đã mềm nhũn trong nước súp ra ăn.

“Mọi chuyện đột ngột thay đổi vào hôm kia. Cô bạn chơi violin chính của bọn tớ đã đột ngột rời khỏi CÂU LẠC BỘ.”

“Chuyện gì nữa?”

“Có vẻ bạn ấy đã bị chị Takaizumi và đám tay chân gây áp lực sau lưng. Bạn ấy khóc, nói ‘xin lỗi, tớ không chịu nổi nữa rồi’… Một chuyện nữa, thật đáng xấu hổ khi tớ cũng không nhận ra, nhưng Chi-chan cũng bị chơi xấu y như vậy.”

Gì cơ, tôi quay mặt, Chiharu vội lảng tránh ánh mắt của tôi.

“Chuyện cũng không to tác đến thế đâu. Chỉ là mấy chuyện như bị giấu giày, bị trêu sau lưng là ‘con nhỏ bốn mắt’ khi vào phòng sinh hoạt thôi. So với trải nghiệm ngày xưa thì mấy trò này chỉ như gió thoảng ấy mà.”

“Ê, rốt cuộc trước đây cậu đã trải qua những chuyện kinh khủng nào thế?”

“Chi-chan chịu đựng giỏi kinh khủng. Cậu im lặng là vì không muốn bọn tớ phải lo lắng trước thềm Eki-con chứ gì? Nhưng bọn tớ buồn lắm đấy.”

Kei cụp hàng mi dài cong vuốt của mình xuống, Chiharu thấy thế liền chau mày áy náy, nhìn về phía cậu ta rồi nói “Xin lỗi nhé”. Kei và Chiharu quả thật rất thân nhau, trong lòng tôi còn thấy họ đẹp đôi.

“Vậy Eki-con tính sao? Tính diễn với ba người thôi hả?”

“Chuyện đó…”

Kei lại thở ra một hơi còn uể oải hơn trước.

“Chị Takaizumi bảo là nhóm thiếu người nên phải hủy buổi diễn ở Eki-con. Trích nguyên văn: ‘Nhóm có ba người mà cũng đòi biểu diễn một cách nửa mùa như thế chỉ tổ làm ô danh CÂU LẠC BỘ, miễn bàn.’”

“Ô danh với miễn bàn cái gì chứ.”

“Nhưng đúng là đó giờ bọn tớ toàn luyện tập tứ tấu, giờ đột nhiên chuyển sang tam tấu thì khó lắm, thời gian cũng không còn nữa. Nhưng hôm qua chị ấy bảo nếu tớ rời đi, Kei và bạn Hayashi có thể sẽ được xếp vào một nhóm khác.”

Nghe những lời mà Chiharu vừa lí nhí thốt ra, tôi cạn lời, cả người sôi máu lên.

“Cái gì thế, ác cũng có mức độ thôi chứ?”

“Nhưng Kei và bạn Hayashi cũng đã luyện tập rất chăm chỉ rồi, công sức của cả hai mà đổ bể thì phí lắm. Nhất là tiếng đàn của Kei, vừa hay vừa đẹp nữa chứ.”

“Tớ chả quan tâm, Chi-chan nghỉ thì tớ cũng nghĩ. Không có gì phải nuối tiếc cả.”

“Nhưng tụi mình cũng phải nghĩ cho bạn Hayashi nữa…”

Chiharu chợt im bặt, biểu cảm của cậu ấy cứng đờ. Nhìn theo ánh mắt của Chiharu, tôi cũng ngoái đầu về phía sau. Bỗng, một cảm giác khó chịu dâng lên trong lòng. Một cô gái đang bưng khay đồ ăn đi dọc lối đi. Cô ta có đôi mắt xếch như diều hâu, dáng đi một mình giữa đám bạn toát lên sự tin ngút trời. Đó là Takaizumi.

Chị ta cũng đã nhận ra chúng tôi, cố tình đi lướt qua mấy bàn trống để tiếp cận về phía này. Tôi cảm nhận rõ Chiharu đang gồng mình sợ hãi. Takaizumi dừng bước, cau mày nhìn tôi với vẻ khó chịu, rồi nhìn xuống Kei và Chiharu, nhếch mép cười.

“Đã liên lạc với ban tổ chức Eki-con chưa đấy? Bỏ diễn ngay trước giờ vàng là làm khó cho người ta lắm, xin lỗi cho đang hoàng vào nhé. Không thì lại làm ô danh CÂU LẠC BỘ.”

Chính mình là người gây ra mọi chuyện, vậy mà còn dám nói những lời đó.

“Bọn em không liên lạc gì hết. Em sẽ chơi thay cho bạn đã nghỉ.”

Mặt Takaizumi nghệch ra, như thể không hiểu mình vừa nghe thấy gì. Kei cũng mở to đôi mắt uể oải, Chiharu thì tròn mắt sau cặp kính. Thú thật, chính tôi cũng đang toác mồ hôi hột vì “lỡ mồm”, nhưng đã phóng lao thì phải theo lao thôi.

“... Cậu nói gì thế? Cậu là người ngoài rồi, nghĩ mình làm được chuyện đó ư?”

“Được hay không, em sẽ hỏi ban tổ chức.”

“Vấn đề không nằm ở đó! Là người đại diện cho CÂU LẠC BỘ, tôi không cho phép!”

“Em nghĩ chức vụ đại diện là để giúp các thành viên tận hưởng âm nhạc, chứ không phải để phá người khác. Và dĩ nhiên, đó cũng không phải là chức vụ để đuổi cổ những người mà mình không ưa, hay để làm mấy trò bắt con bò dù bản thân đã là ‘sinh viên’.”

 Mặt Takaizumi từ đỏ chét chuyển sang tái mét. Tôi im lặng nhìn thẳng vào chị ta. Sau khoảng mời giây im lặng, một người bạn của chị ta lo lắng thì thầm: “Thôi mình đi đi”. Takaizumi lườm tôi bằng ánh mắt đầy hằn hộc rồi quay gót bỏ đi, tiếng giày cao gót nện xuống sàn côm cốp. Tôi thở phào nhẹ nhõm, lau đi mồ hôi lạnh. Takaizumi đáng sợ thực sự…

“... Souta, tớ yêu cậu.”

“Ngầu quá…”

“Thôi đi, im lặng mà ăn.”

Tôi cố tình làm vẻ mặt cau có, vội vàng ăn bát cơm gà tatsuta đã nguội lạnh.

3

“Chúng ta, những kẻ đã chống đối chị Takaizumi và bị tẩy chay, từ giờ hãy tự xưng là bộ tứ lạc điệu đàn dây nhé.”

Cái tên do Kei (có lẽ đang trong trạng thái vui vẻ) với vẻ mặt uể oải đặt ra nghe chẳng hay ho chút nào, nhưng tên nhóm quả thật rất hợp với tình cảnh của chúng tôi hiện tại. Cả bốn thành viên của dàn tứ tấu tập trung ở sảnh sinh hoạt chung đều nhìn nhau cười.

Ngoài tôi, Kei, và Chiharu, thành viên còn lại là một bạn nữ tên Hayashi. Tôi đã từng gặp cô ấy hồi còn làm thành viên cho Câu lạc bộ Nhạc thính phòng được đúng một nốt nhạc. Vừa thấy mặt tay violin tạm bợ là tôi, cô ấy liền chỉ tay rồi cười phá lên.

“Đây rồi, cậu bạn Hasekura bỏ CÂU LẠC BỘ sau đúng một tuần. Sau vụ đó chị Takaizumi đã nổi điên lên như khủng long bạo chúa, làm cho tổ violin bọn tớ than trời than đất một phen đấy.”

Hayashi là một người thẳng tính, nếu tham gia Eki-con với cái đám đã chọc giận và bị Takaizumi nguyền rủa như bọn tôi, chắc cô ấy cũng không tài nào yên ổn ở CÂU LẠC BỘ. Dù vậy, khi tôi lại cho chắc ăn thì cô ấy đã trả lời với vẻ mặt nghiêm túc: “Không sao, dạo này tớ cũng thấy chị Takaizumi hơi quá đáng”. Quả là một người can đảm, thật đáng ngưỡng mộ.

Cảm giác hừng hực ấy cũng chỉ kéo dài trong ít lâu. Vừa về đến chung cư, tôi vội vàng mở hộp đàn dương cầm ra. Tôi thay bộ dây mới vừa mua ở cửa hàng nhạc cụ ngoài phố (Riêng việc mua hết bốn bộ dây E, A, D, G cũng đã tốn một mớ rồi), rồi chơi thử một bài đơn giản để làm nóng người, để rồi nhận ra ngón tay mình đã lụt nghề thảm hại. Nói đơn giản, các dây thần kinh dùng để chơi nhạc sẽ bị thoái hóa như mắt của loài cá biển sâu chỉ sau một thời gian ngắn không rờ tới.

Vì Eki-con được tổ chức ở nơi người qua lại có thể dừng chân lắng nghe, chúng tôi quyết định chọn những bản nhạc nỗi tiếng mà ai cũng biết. Đó là hai bài “Yesterday” và “Let It Be” của The Beatles. Chỉ còn mười ngày nữa để luyện thành thục cả hai bài. Và điều kinh khủng hơn nữa, tôi là đứa đảm nhận vai trò violin chính. Trong một nhóm tứ tấu, violin chính là một vị trí quan trọng chẳng khác gì nhạc trưởng của cả dàn nhạc. Tôi đã thử thương lượng đổi vai trò với Hayashi, nhưng đã bị từ chối một cách thẳng thừng: “Giờ mà bắt tớ học cách chơi violin chính từ đầu á? Mơ nha.”

Chỉ là kẻ thay thế vậy mà tôi lại gánh vác trọng trách quá lớn, chưa kể thời gian lại chẳng còn bao nhiêu. Nghĩ đến đó mà tôi đã chóng mặt ù tai. Nhưng đành chịu vậy, đã nói phải biết giữ lời.

Chúng tôi quyết định sẽ tập luyện mỗi ngày sau giờ học, ngoài ra tôi cũng cố gắng luyện tập ở nhà. Về nhà lúc nửa đêm sau khi tan làm ở Alphard, tôi đánh một giấc chưa đầy năm tiếng, sau đó vội vàng vác violin đến trường. Tôi mượn một phòng học trống và miệt mài kéo violin đến khi vào tiết.

Hết giờ học trong ngày, cả bốn đứa tụ tập lại trong một căn phòng chật hẹp ở góc tòa nhà câu lạc bộ để tập dợt (vì không thể dùng phòng trong Câu lạc bộ Nhạc thính phòng, chúng tôi đành mượn tạm một phòng trống). Tập xong thì tôi về nhà một tí, cất nhạc cụ rồi đi một mạch đến khu Kokubuncho, sau đó làm việc quần quật ở Alphard đến tận mười hai giờ đêm. Xong việc tôi lại về nhà ngủ như chết, rồi lại dậy luyện tập. Lịch trình đó cứ lặp lại và một ngày trôi qua trong nháy mắt.

“Dạo này cậu làm gì mà dậy sớm bất thường thế? Mặt mũi cũng hốc hác thấy mà ghê.”

Vài ngày sau khi bắt đầu nhịp sống mà đến chính tôi còn thấy là quá sức, tiếng động khi cố gắng rón rén ra khỏi nhà của tôi đã đánh thức Madoka.

“Cậu không có làm chuyện gì đó mờ ám đâu nhỉ?”

Thấy Madoka giải thích với vẻ mặt nghiêm trọng, tôi lí nhí giải thích đầu đuôi cho chị ấy nghe. Nghe xong, không hiểu sao Madoka lại trở nên phấn chấn một cách kỳ lạ.

“Thế ư? Hầy, biết ngay là cậu cũng có thứ để làm mà! Tốt tốt, cứ tận hưởng tuổi thanh xuân hết mình đi nhé.”

“Thôi ạ, hết mình kiểu này chắc em chết sớm.”

“Cái Eki-con mà nhóm cậu biểu diễn, là vào thứ bảy tuần này nhỉ? Mấy giờ đến lượt các cậu?”

“Hả? Đừng bảo là đến coi đây nhé? Làm ơn thôi.”

“Hả? Nhóc tì đang nói chuyện với ai đấy? Chị đây sẽ ngồi chễm chệ ở hàng đâu, ăn mặc lồng lộn đến mức cả Sendai sẽ phải quỳ rạp xuống cho mà xem.”

Madoak không phải kiểu người nói đừng là không làm, ngược lại càng ngăn thì chị ấy càng muốn làm. Tôi ôm mặt, hối hận muốn chết vì lỡ miệng.

Và còn một người khiến tôi đau đầu nữa.

“Ồ Hasekura, em chơi violin ư? Nhìn không ra luôn đó.”

Một hôm, vì buổi tập kéo dài nên tôi không có thời gian để về nhà cất đồ, thế là tôi đành phải từ trường mà phi thẳng lên tàu điện để đến Alphard cho kịp. Trong phòng thay đồ, anh Ozaki đã đến trước và đang thay quần áo. Khi nhìn thấy hộp đàn trên vai của tôi, anh ấy tròn xoe mắt rồi hỏi một câu không đỡ nổi:

“Em tập tành bắn cung à?”

Khi tôi trả lời đó là violin, anh ấy đã phá lên cười một cách thiếu tế nhị.

“Gì chứ, anh có cần phải cười đến thế không?”

“Thì tại mặt em giống mấy tay chơi nhạc rock, tay gảy ghi-ta điện, thế mà lại chơi violin. Đối nghịch một cách không ngờ luôn.”

“Anh bao đồng quá.”

“Mà em tham gia dàn nhạc của trường hay gì à? Đó giờ anh nghĩ em chỉ có biết đi làm thêm.”

Và thế là tôi lại phải giải thích toàn bộ câu chuyện một lần nữa. Nghe xong, anh Ozaki vừa cài cúc chiếc áo gile đen, vừa khẽ cau mày.

“Mấy đứa chuyên gây chuyện vớ vẩn đúng là ở đâu cũng có nhỉ.”

Sau đó sư phụ nhìn tôi, anh mỉm cười.

“Cái buổi Eki-con đó diễn ra vào thứ bảy tuần này nhỉ? Vừa hay anh cũng không có lịch làm, hay là đi thưởng thức tài violin của em nhỉ?”

“Làm ơn thôi đi ạ.”

“Phải rồi, hay là rủ cả bà chủ nữa? À thôi, kéo cả quán Alphard đi luôn? Cô nhóc đáng ghét và đồng bọn của con bé cũng tham gia mà đúng không? Tụi mình xếp kín dãy đầu để dằn mặt mấy đứa nó nhé?”

 “Em cầu xin từ tận đáy lòng, tha cho em đi ạ…!”

Trước lời khẩn khoản rằng đừng có đến và cũng đừng có cho ai biết của tôi, anh Ozaki gật đầu “Rồi rồi”, nhưng nụ cười tươi rói của anh ấy sặc mùi đáng nghi.

Và rồi, thoáng cái đã đến trước ngày biểu diễn chính thức.

Chúng tôi kết thúc buổi tập chiều sớm hơn thường lệ và đi đến ga Sendai để khảo sát địa điểm. Từ cầu bộ hành trên cao trước nhà ga, chúng tôi đi vào cửa Tây tầng hai của ga Sendai, rồi đi thêm một đoạn ngắn là đến nơi. Sân khấu cho buổi hòa nhạc ngày mai được đặt dưới những tấm tranh kính rực rỡ với họa tiết và chủ đề về lễ hội Thất tịch và ngài Date Masamune nổi tiếng của Sendai.

Ngoài ghế ngồi dành cho khán giả, người ta cũng đã chuẩn bị sẵn ghế biểu diễn và piano dành cho nghệ sĩ. Chúng tôi cùng nhau kiểm tra lại lối đi từ phòng chờ, đường đi vào sân khấu. Và để giữ thể trạng tốt nhất cho ngày mai, chúng tôi quyết định giải tán sớm.

“Kei, ngày mai đừng ngủ quên đấy nhé.”

“Yên tâm đi Chi-chan, tớ sẽ không ngủ quên khi tớ không ngủ.”

“Thôi ngủ giùm cái. Dồn hết sức mà ngủ rồi dậy sớm đi.”

Có lẽ vì căng thẳng trước buổi diễn ngày mai mà chúng tôi có hơi phấn khích. Chúng tôi vừa rời khỏi địa điểm vừa trò chuyện rôm rả, nhưng tôi nhận ra Hayashi không hề nói bất cứ lời nào. Bình thường cô ấy là người nói nhiều nhất trong bốn đứa, vậy mà giờ lại im bặc với vẻ mặt u ám.

“Hayashi, sao thế? Trong người không khỏe hả?”

“Hở…? À, không. Tớ hơi mệt chút thôi. Xin lỗi, tớ đi trước nhé.”

Vừa vội vã đáp lại với một nụ cười gượng gạo, Hayashi khuất bóng về phía cầu vượt. Dù Chiharu có chào tạm biệt với theo, nhưng cô ấy cũng không hề ngoảnh mặt lại. Vừa lo lắng trong lòng, tôi bỗng có một dự cảm không lành, tựa như một cơn gió ớn lạnh thoảng qua. Mà thường thì những dự cảm như thế này rất dễ thành hiện thực.

“A, Souta? Vừa rồi bạn Hayashi có nhắn tin cho tớ…”

Vào khoảng tám giờ sáng, Chiharu gọi điện cho tôi với một giọng vô cùng hoảng hốt. Lúc đó tôi vừa làm chiếc bánh mì sandwich kẹp rau, trứng, thịt xông khói, vừa bình tĩnh lắng nghe câu chuyện của Chiharu. Khi nghe xong, đến tôi cũng hoảng không kém.

“Tớ đã gọi điện thử rồi nhưng không thấy bắt máy. Chắc cậu ấy cũng không còn tâm trí nào nữa…”

Cả đám tập trung tại căn phòng nhỏ thường dùng để tập luyện, tôi và Kei cùng nhau xem tin nhắn mà Chiharu nhận được từ Hayashi.

“Bà tớ đổ bệnh nên tớ phải về quê. Tớ xin lỗi.”

Nội dung tin nhắn ngắn gọn, không có một cái emoji nào. Tôi không biết quê Hayashi ở đâu, nhưng nghe nói cô ấy cũng là người Akita giống Chiharu.

“Chuyện xảy ra như thế thì biết sao giờ…”

“Ừm… Chúng ta cũng không làm gì khác được…”

Cả Kei và Chiharu đều cố gắng chấp nhận biến cố này, nhưng tôi thấy dáng vẻ của Hayashi ngày hôm qua có gì đó không đúng. Cái cách mà cô ấy phản ứng trước lời gọi của tôi không giống như bất ngờ, mà giống như giật mình thì hơn. Bóng lưng vội vã đi về trông giống như chạy trốn thì đúng hơn.

Tôi rút điện thoại, cố gắng gọi vào số chúng tôi đã cho nhau biết.

“Souta?” – Chiharu nhìn tôi với vẻ bối rối.

Quả đúng như Chiharu nói, không thể gọi được. Nhưng tôi đã tính trước chuyện đó, tôi gọi lại, gọi lại và gọi lại.

Đột nhiên, tiếng bắt máy vang lên.

“… Vâng.”

“Hayashi, nếu những gì trong tin nhắn nói là thật thì tớ rất lấy làm tiếc. Nhưng chẳng lẽ, cậu đã bị chị Takaizumi giở trò gì đó rồi phải không?”

Kei và Chiharu tròn mắt nhìn nhau. Sau một khoảng im lặng, đầu dây bên kia vang lên một tiếng thở dài.

“… Tớ có biểu hiện gì lạ khiến cậu nghĩ như vậy ư?”

“Hôm qua tớ thấy cư xử kỳ lạ, trước đó thì đâu có gì.”

“Hôm qua khi tớ vào nhà vệ sinh trong giờ nghỉ trưa, chị Takaizumi cùng với các chị năm ba đột nhiên xông vào vây lấy tớ. Nói rằng nếu vẫn còn tiếp tục tham gia Eki-con thì tớ sẽ không được ở lại câu lạc bộ nữa. Chị ấy còn bảo nếu không muốn chuốc họa vào thân thì hãy đột ngột bỏ dở giữa chừng để khiến các cậu rơi vào thế khó xử.”

Cái trò dọa nạt cũ rích như trẻ con ấy khiến tôi không biết nói gì, nhưng có lẽ nó đã đủ uy hiếp để làm tổn thương trái tim của Hayashi. Giọng nói vốn hoạt bát của cô nàng giờ đây tràn đầy nỗi u sầu.

“Không ở lại được cũng chẳng sao, tớ đã định rời câu lạc bộ sau khi buổi Eki-con kết thúc. Bởi vì cả câu lạc bộ bây giờ chỉ còn một số người là tớ thấy vui khi ở cùng, không khí thì lúc nào cũng ngột ngạt. Nhưng tớ không đủ mạnh mẽ để thốt ra những lời thản nhiên như vậy sau khi trải qua chuyện đáng sợ như thế. Dù có thể rời câu lạc bộ, nhưng chị Takaizumi và các anh chị tiền bối vẫn còn ở trong trường, tớ lại còn học chung khoa Giáo dục, nên tớ sợ sau này sẽ bị gây khó dễ… Tớ biết mình làm sai, nhưng xin lỗi cậu, tớ hết chịu nổi rồi.”

Khi nghe máy tôi đã định thuyết phục Hayashi, nhưng xét từ giọng điệu của cô ấy, tôi hiểu rằng cậu ta đã không thể gượng thêm được nữa. Ta không thể ép một người thương tích đầy mình đứng dậy.

“Tớ hiểu rồi. Cảm ơn cậu vì đã ở bên Chiharu và Kei suốt thời gian qua. Ừm… Chúc cậu sớm khỏe lại.”

Câu cuối cùng đó, tôi cũng không biết phải nói gì cho phải nên cứ buột miệng thêm vào, nhưng tôi nghe thấy tiếng Hayashi cười khẽ qua hơi thở. Rồi cuộc gọi kết thúc.

Tôi bỏ điện thoại xuống, giải thích mọi chuyện cho Kei và Chiharu. Kei, người thường ngày luôn mang vẻ uể oải, giờ cũng chau mày nghiêm nghị, nhưng người bị sốc nặng nhất có lẽ là Chiharu.

“… Là lỗi của tớ. Nếu tớ nói khéo hơn, chị Takaizumi đã không giận đến mức này, bạn Hayashi cũng đã không phải chịu ấm ức như thế.”

“Nói gì thế, không phải lỗi của cậu đâu, Chi-chan.”

“Đúng vậy. Trước mắt phải nghĩ cách cho Eki-con đã. Có mỗi ba đứa thì không thể diễn được.”

Chiharu đang rơm rớm nước mắt và Kei đang xoa lưng cậu ấy đều tròn mắt nhìn về phía tôi. Tôi tỏ vẻ hiển nhiên rồi nhìn lại cả hai.

“Bỏ cuộc ở đây thì quá đúng ý của Takaizumi và cả đám sẽ không tài nào nuốt trôi cục tức này. Chưa kể là công sức tập luyện của chúng ta sẽ đổ sông đổ bể. Ba tay thì ba tay, kiểu gì cũng nên trò trống thôi.”

“… Cậu nói phải, giờ không phải lúc để ngồi sướt mướt. Chi-chan, chúng ta mau chóng chuẩn bị thôi.”

Kei dường như cũng hiểu ý đồ của tôi, đánh lạc hướng sự chú ý của Chiharu thay vì để cậu ấy tự trách bản thân. Được Kei vỗ vai, Chiharu cũng thì thầm “Ừm”, nét mặt sau đó cũng ánh lên sự quyết tâm. Hơn nữa, việc tôi muốn biểu diễn là thật lòng. Tôi không thể tha thứ cho thủ đoạn của Takaizumi. Tôi biết rằng không chỉ bản thân, mà cả Kei lẫn Chiharu đều không muốn khuất phục như thế này.

“Nhưng nếu thiếu đi người chơi violin phụ thì phần phối âm sẽ bị mất cân bằng còn gì? Có vài khúc bạn Hayashi còn chơi giai điệu chính nữa…”

“Phần giai điệu chính thì ba tụi mình lo được. Nhưng tớ nghĩ sẽ phải sửa lại kha khá.”

“Trước mắt cứ coi lại nhạc phổ rồi tính tiếp đi, thời gian vẫn còn nhiều.”

Buổi hòa nhạc ở ga tàu bắt đầu từ mười một giờ sáng, phần biểu diễn của chúng tôi là hai giờ chiều, sau giờ nghỉ trưa. Coi như chúng tôi phải có mặt ở hội trường muộn nhất là một tiếng trước khi diễn, mà bây giờ mới hơn chín giờ. Thời gian còn lại khoảng bốn tiếng. Chỉ cần không bỏ cuộc, chắc chắn sẽ có cách.

… Dù đã hừng hực khí thế khi bắt đầu bàn bạc, nhưng mọi thứ quả nhiên không hề dễ dàng.

Tứ tấu, có thể ví như một vũ điệu phức tạp của bốn con người trên cùng một sân khấu, khi mà vị trí của từng người sẽ thay đổi chỉ trong tức khắc. Có lúc violin chính đang đảm nhận phần giai điệu sẽ lùi về đệm đàn, có lúc cello đang đảm nhận phần đối âm sẽ cất cao giai điệu thánh thót. Đặc trưng của tứ tấu là không phân biệt ai đóng vai chính, ai đóng vai phụ. Cả bốn người đều giữ vai trò ngang bằng nhau, nên chỉ cần thiếu một vị trí thôi cũng đã để lại khoảng trống quá lớn.

Trong hai bản nhạc “Yesterday” và “Let It Be” dự định biểu diễn ngày hôm nay, Hayashi đảm nhận nhiều vai trò khác nhau. Từ việc chơi bè cho phần giai điệu hòa âm của tôi, cho đến song tấu cùng Chiharu. Nếu chỉ có ba chúng tôi biểu diễn, chúng tôi sẽ phải đảm nhận phần của Hayashi, biên lại nhạc phổ sao cho nhạc đánh vẫn ra nhạc. Nhưng chúng tôi không có kỹ năng để làm chuyện đó ngay lập tức, cũng như không có thời gian.

Chúng tôi trải tất cả nhạc phổ của từng đoạn ra sàn nhà của căn phòng nhỏ, chụm đầu vào nhau rồi im lặng dần. Nhìn vẻ mặt khốn khổ của Kei và Chiharu, tôi cũng giống như họ, không muốn bỏ cuộc, nhưng có lẽ đã hết cách rồi.

Đột nhiên, một tiếng chuông điện tử cao vút vang lên trong căn phòng nhỏ. Do mãi suy nghĩ mà phải mất một lúc sau tôi mới nhận ra đó là chuông điện thoại của mình. Tôi giật mình rút điện thoại từ trong ba-lô, trên màn hình hiện dòng chữ “Ozaki Mikiya”.

“Alo ạ…”

“A, Ozaki đây. Hasekura, em có rảnh không?”

Giọng nói trong trẻo của anh Ozaki vẫn như mọi khi, điều đó khiến cổ họng tôi nghẹn lại.

“Buổi Eki-con hôm nay, anh định mang tới chút đồ ăn ủng hộ ấy, có khoảng thời gian trống nào để anh đưa cho em không? Nếu lúc diễn xong mà vẫn không có thời gian thì chắc để anh đến đưa trước.”

Dù tôi đã dặn đi dặn lại là tuyệt đối đừng đến, nhưng biết ngay là sư phụ của tôi vẫn đến mà. Lại còn mang cả quà đến nữa. Sống mũi tôi cay xè.

“Alo? Em có nghe không? Alooo?”

“Anh Ozaki này, em xin lỗi. Nói sao nhỉ… Anh Ozaki, em xin lỗi… Phải nói sao đây… Vẫn chưa chắc chắn ạ, nhưng có lẽ buổi Eki-con hôm nay có hơi…”

“Là sao? Chuyện gì đã xảy ra ư?”

Chuyện lập nhóm tứ tấu, tôi đã kể cho anh Ozaki nghe từ trước. Vì vậy, tôi bắt đầu kể chuyện nhóm thiếu tay violin phụ từ sáng nay và nguyên nhân dẫn đến việc đó. Nghe xong, giọng anh Ozaki trở nên lạnh lùng và sắc bén.

“Quá đáng thật, cô ta làm đến mức đó ư?”

“… Tình hình là vậy đó ạ, bọn em đang tính xem có thể biểu diễn với ba người được không. Đến giờ vẫn chưa nói trước được điều gì. Nên phần quà cáp… Chỉ cần tấm lòng của anh là quá đủ rồi.”

“Nhưng cho dù có biểu diễn ba người thì… A, chờ tí.”

Giọng anh Ozaki trở nên xa dần, nhưng cuộc gọi vẫn chưa bị cúp, tôi vẫn nghe loáng thoáng tiếng nói chuyện ở dầu dây bên kia. Dường như có ai đó ở bên cạnh và anh Ozaki đang nói chuyện với người đó.

Bất chợt, một tiếng nhiễu nhỏ vang lên bên tai tôi.

“Alo.”

Tôi bối rối trước giọng nói không phải của anh Ozaki, giọng nói có âm hưởng cao và mềm mại hơn đôi chút. Giọng nói này tôi đã từng nghe thấy ở đâu đó. Tôi cố lục lại trí nhớ và chợt nhớ ra.

“Em muốn biểu diễn? Hay bỏ cuộc?”

Không một lời chào hỏi, người đó đột nhiên hỏi thẳng. Tôi có cảm giác như bị một nhát dao đâm thẳng vào tim.

Trước khi nhận ra, tôi đã trả lời.

“Em muốn biểu diễn.”

Tôi ngẩng mặt lên khỏi những nhạc phổ mà mình đang nhìn nãy giờ. Tôi chạm mắt với Kei và Chiharu, họ gật đầu mạnh mẽ. Đúng vậy, tôi muốn chơi nhạc cùng những người bạn này.

“Anh hiểu rồi.”

Người ở đầu dây bên kia trả lời một cách đơn giản.

“Chuyển thành tứ tấu piano có được không?”

“Dạ…?”

“Là tứ tấu gồm piano, violin, viola và cello. Tuy không phổ biến như tứ tấu đàn dây, nhưng nó có lịch sử hào hùng đấy. Giờ em đang ở trường đại học ư? Ở đó có được dùng piano không?”

“Piano ấy ạ… Tình hình này thì không thể ạ…”

“Vậy sao, thế em qua bên đây được không? Em biết trường của Mikiya mà nhỉ?”

“Vâng, em biết ạ.”

“Anh sẽ bảo Mikiya đợi ở nhà ga. Nhớ mang theo nhạc cụ, giá nhạc, bản nhạc, và cả tổng phổ nữa. Không còn thời nhiều thời gian nên hãy khẩn trương hết mức có thể.”

Nói rồi, người đó cúp máy cái cụp. Tôi ngơ ngác nhìn vào màn hình điện thoại.

Dù tôi đã kể lại nội dung cuộc trò chuyện, nhưng cả Kei và Chiharu đều trưng ra vẻ mặt ba chấm. Cũng phải thôi, đến tôi còn ba chấm nữa là. Nhưng cứ ngồi ủ rủ ở đây cũng chẳng giải quyết được gì, thế nên chúng tôi nhanh chóng dọn đồ và chạy thẳng một mạch đến ga tàu điện ngầm.

“A, đến rồi. Đằng này!”

Vì chỉ đi có một trạm nên chúng tôi chỉ mất một lúc là tới. Vừa ra khỏi cổng soát vé, anh Ozaki trong chiếc áo polo và quần kẻ caro sành điệu vẫy tay chào chúng tôi.

“Hai đứa là Hinohara và Hayasaka nhỉ? Hân hạnh gặp mặt, anh là Mikiya Ozaki. Anh làm thêm cùng chỗ với Hasekura.”

“C… Cảm ơn anh vì đã luôn giúp đỡ Souta…”

“Mong anh sẽ tiếp tục giúp đỡ cậu ấy…”

“Sao hai cậu đóng vai cha mẹ tớ rồi?”

“Haha, Hasekura có mấy đứa bạn tốt thế này là anh mừng rồi. Nào, mau đi thôi.”

Anh Ozaki nhanh chóng quay gót, ba đứa chúng tôi cũng mau chóng bám theo. Ngay khi ra ngoài, ánh nắng như muốn làm cháy da cháy thịt rọi xuống. Tôi nhắm mắt lại, khi mở mắt ra một lần nữa thì đã đến khuôn viên nối liền với nhà ga. Dù là sáng thứ bảy nhưng vẫn có rất nhiều sinh viên đang rảo bước trên con đường lát đá.

Len lỏi giữa các tòa giảng đường san sát nhau, chúng tôi đi đến một tòa nhà bốn tầng trông rất giống tòa nhà câu lạc bộ của trường mình. Vừa vào trong, đủ thứ âm thanh ập đến tới tấp, nào là tiếng kèn clarinet, tiếng đàn ghi-ta, tiếng cười rộn rã, tiếng tranh luận sôi nổi. Cả mùi cà phê và màu vẽ cũng phảng phất trong không khí. Anh Ozaki đi lên tận tầng cao nhất của toà nhà ồn ào ấy rồi mở cánh cửa ở cuối hành lang.

“Tớ dắt mấy đứa đến rồi.”

Phía sau cánh cửa là một căn phòng rộng lớn chỉ có một cái bảng trắng, mấy cái ghế được chồng sát tường và một cây đại dương cầm hoành tráng. Bên cạnh cây đàn là nam sinh mặc một chiếc áo sơ-mi vải denim tay ngắn, anh ta đang dựng thanh chống để cố định nắp đàn màu đen mun. Khi nghe tiếng gọi của anh Ozaki, anh ta quay người lại.

Gương mặt của anh ta trông rất giống con trai quý tộc hay hoàng tử của một vương quốc. Tóc anh ta hơi ngả màu nâu, nhưng không phải vì nhuộm mà là do sắc tố nhạt. Anh ta cứ thế đi một mạch về phía tôi.

“Cho anh xem nhạc phổ của violin phụ và cả tổng phổ được chứ?”

“Hở, a, vâng… Đây ạ.”

“Cảm ơn, cứ chơi thử một lần xem sao đã. Mấy đứa lấy ghế ngồi trước piano đi.”

Vừa lật xem cuốn tổng phổ, anh ta vừa đi về phía piano. Được một đoạn thì anh Ozaki thở dài và túm gáy kéo lại.

“Làm gì làm cũng phải giới thiệu bản thân đi chứ. Hasekura thì không nói, nhưng hai đứa còn lại đang ngơ người ra kìa.”

Bị nhắc nhở, anh ta mới nhận ra Kei và Chiharu đang bối rối.

“Anh là Yamiya Kazuki, sinh viên năm hai của trường này. Violin và piano có nhiều điểm khác nhau, nên anh không biết mình có lấp được khoảng trống hay không, nhưng anh vẫn sẽ cố gắng hết sức. Rất mong được chiếu cố.”

Đến lúc này tôi mới biết lý do mà anh Kazuki gọi chúng tôi đến đây là gì.

“Vậy nghĩa là… Anh sẽ cùng chúng em biểu diễn ở Eki-con?”

“Làm gì mà ngạc nhiên thế? Anh đã nói qua điện thoại rồi mà?”

Anh có nói câu nào như thế đâu!?

“Anh muốn nắm qua cảm giác cụ thể trước, trước tiên cứ tập một lần đi. Em chơi viola, còn em chơi cello nhỉ? Ghế ở đằng kia, thích cái nào thì cứ lấy. Chuẩn bị xong thì gọi anh nhé.”

Anh Ozaki dường như không phải là người nhút nhát, anh nói chuyện với Kei và Chiharu như thể đã thân quen từ lâu. Có lẽ tính bộc trực của anh Kazuki đã giúp mọi người giải tỏa căng thẳng, Kei và Chiharu đáp lời rồi bắt đầu chuẩn bị.

Khi chơi theo dàn nhạc, mọi người thường ngồi thành nửa vòng tròn để có thể nắm bắt hơi thở của nhau. Sau khi lên xong dây đàn, anh Kazuki nhìn về phía tôi.

“Thứ tự biểu diễn là?”

“’Yesterday’, sau đó là ‘Let It Be’ ạ.”

“Ừm, tốt đấy. Bắt đầu nhẹ nhàng và kết thúc đầy cảm xúc. Được rồi, mời violin bắt đầu.”

Khúc dạo đầu của “Yesterday” bắt đầu bằng tiếng violin chính của tôi, sau đó đến violin phụ, rồi đến violin và cella lần lượt hòa chung tiến đàn. Tôi nâng vĩ, trao đổi ánh mắt với Chiharu, Kei, và cả anh Kazuki. Tôi hạ quyết tâm, ra hiệu nhịp độ bằng cử chỉ rồi lướt cây vĩ trên dây đàn.

Theo sau tiếng đàn của tôi là tiếng piano trong như nước suối, tiếng viola dịu dàng của Chiharu, tiếng cello giàu cảm xúc của Kei. Bốn âm sắc hòa làm một, tấu nên một giai điệu buồn thảm.

Giai điệu cứ thế trôi đi. Không gượng gạo, không lo lắng cũng không vướng bận. Ngược lại, sự tham gia của piano còn làm cho bản nhạc có thêm sắc màu và cảm xúc. Âm hưởng yên lòng đến mức khiến tôi quên mất rằng đây là một nhóm được lập nên đầy gấp rút, khi piano phải lấp đầy chỗ trống do violin phụ để lại.

Anh Kazuki, trái với vẻ ngoài hiền lành là một người khá nghiêm khắc. Anh không cho chúng tôi nghỉ lấy hơi, mà ra lệnh chơi bản “Let It Be” ngay sau đó. Thật đáng kinh ngạc, bản này cũng được trình diễn một cách hoàn hảo. Nếu chỉ đơn thuần dùng piano để khỏa lấp vai trò của violin phụ, chắc chắn sẽ có chỗ không ổn vì cả hai vốn là nhạc cụ khác nhau. Nhưng chuyện đó lại không hề xảy ra, anh Kazuki đã vừa sửa nhạc phổ, vừa đàn để hiệu chỉnh những sai lệch. Chưa kể lại còn không có sự chuẩn bị trước, hoàn toàn là ứng biến tại chỗ.

Con người này rốt cuộc là ai? Không chỉ có tôi, cả Kei và Chiharu cũng nhìn anh Kazuki với vẻ mặt không nói nên lời. Dẫu vậy nhân vật chính chẳng hề tỏ vẻ tự mãn, anh quay về phía này.

“Em chơi cello hay thật. Em học từ nhỏ rồi sao?”

“… Vâng, vì cha em là nghệ sĩ cello của Dàn giao hưởng Sendai. Em không giỏi nói chuyện với người khác, nên từ nhỏ đã luôn dính mình với cello.”

“Đoạn solo của ‘Let It Be’ thực sự rất tuyệt. Viola cũng thế, nhịp điệu không hề lệch, phần đệm cũng rất chính xác nên anh rất dễ hòa âm. Cảm ơn em.”

“Đâu có… Anh nói quá rồi ạ.”

Kei nở nụ cười uể oải hiếm thấy, Chiharu cũng đẩy gọng kính để che khuôn mặt đỏ bừng. Tôi cũng có chút mong chờ rằng mình sẽ được khen, nhưng anh Kazuki lại chau mày khi nhìn tôi.

“Hasekura, em thuộc kiểu người nhút nhát ư? Tiếng đàn của em hơi nhỏ.”

“Nghe em chơi, anh biết rằng em có thể chơi tốt hơn nữa. Chìm đắm quá vào bản thân cũng không được, nhưng quá dè dặt cũng không thể làm khán giả vui được đâu. “Yesterday” có biết bao đoạn để thể hiện violin cơ mà, em cứ chơi với tâm thế mình là trung tâm của một nhóm nhạc thần tượng đi.”

“Em không giỏi mấy chuyện đó đâu ạ…”

“Xem nào, em cứ học theo Mikiya là được. Cậu ta là một kẻ tự luyến thích thể hiện bản thân đó, em ở bên cậu ta thấy hoài mà đúng không?”

“Ai là kẻ tự luyến cơ? Canh lúc người ta không ở đây là đi nói xấu ha.”

Cánh cửa mở ra, anh Ozaki xách theo túi ni-lông của siêu thị bước vào. Dường như anh đã ra ngoài trong lúc chúng tôi đang mải mê tập luyện. Vừa nhăn mặt vừa nói, anh lấy đồ ra từ trong túi rồi đặt lên chiếc ghế vừa kéo lại.

“Anh mua bữa trưa rồi đấy, mấy đứa thích ăn gì thì ăn đi. Để sau ăn là trễ giờ diễn đấy.”

Ngay cả ở đây, sư phụ của tôi vẫn thể hiện khả năng của chàng boy nổi tiếng số một Alphard. Trước những phần cơm nắm và bánh mì kẹp được lấy ra, chiếc bung reo réo của chúng tôi cứ thế bị thu hút lại.

“Mấy đứa uống trà hay ăn bánh? Có cả khăn ướt đấy.” – Anh Ozaki chăm sóc chúng tôi như một người quản lý thực thụ.

Anh Kazuki vừa ăn chiếc bánh hấp nhân nho khô, vừa uống sữa hộp, trong khi mắt thì không rời khỏi bản tổng phổ. Thỉnh thoảng anh lại đặt hộp sữa xuống sàn, lướt những ngón tay như thể đang đánh những phím đàn.

Sau khi nghỉ ngơi khoảng ba mươi phút và rửa tay sạch sẽ, chúng tôi quay trở về vị trí biểu diễn của mình. Và ngay khi bắt đầu chơi, tôi sững sờ. Màn trình diễn của anh Kazuki đã hoàn toàn thay đổi.

Tiếng đàn piano lúc nãy vẫn còn đóng vai trò của violin phụ. Nhưng lần này anh ấy dùng những đoạn đối âm hoàn toàn không có trong nhạc phổ để làm nổi bật phần giai điệu chính của tôi, đoạn sau lại tự mình tấu lên giai điệu một cách hoa mỹ, để rồi tiếp đến lại nhẹ nhàng lui về phía sau đệm cho bản song tấu của Kei và Chiharu. Thực sự quá điêu luyện, đến mức tôi chỉ còn biết đắm mình thưởng thức. Anh ấy chơi như thể bản nhạc vốn được viết ra như vậy ngay từ đầu. Nhưng điều đáng sợ hơn nữa, anh Kazuki không hề nhìn vào nhạc phổ.

 Đây không còn là lấp đầy vào chỗ trống nữa, mà là biên khúc. Con người này, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn mà đã có thể tự tạo cho mình một bản nhạc riêng ngay trong đầu. Không còn là bộ tứ lạc điệu đàn dây nữa, chúng tôi đã trở thành bộ tứ lạc điệu đàn piano.

4

Chúng tôi đã liên lạc với ban tổ chức trong lúc di chuyển đến Eki-con, giải thích rằng vì có việc đột xuất nên phải thay đổi thành viên và muốn sử dụng piano gấp. Họ bảo rằng cả hai đều không thành vấn đề.

“Cảm ơn anh vì đã nhờ anh Kazuki giúp đỡ chúng em.”

Trên đường di chuyển bằng tàu điện, tôi nhỏ giọng bắt chuyện với anh Ozaki đang nắm tay vịn bên cạnh. Anh Kazuki, Kei và Chiharu đang đứng ở gần cửa cách đó một đoạn, cả ba bàn bạc trong khi chụm đầu vào tổng phổ.

“Anh đâu có nhờ, lúc gọi điện với em thì cậu ấy hỏi ‘Có chuyện gì à?’. Anh giải thích sự tình xong thì Kazuki giật lấy điện thoại của anh rồi tự mình nói vậy đó.”

“Ơ… vậy ạ?”

“Cậu ấy có hơi tùy hứng, nhưng hễ thấy ai gặp hoạn nạn là sẽ đưa tay ra giúp đỡ. Hồi tay piano ở Alphard đột ngột nghỉ việc cũng vậy, Kazuki thấy anh gặp khó nên mới không ngại bật dậy mà đến giúp đấy.”

Tôi lén nhìn, thấy anh Kazuki đang cười khi nghe Kei và Chiharu nói chuyện gì đó. Nhìn gương mặt vô lo ấy, anh ấy quả thật chỉ là một đàn anh bình thường.

 “… Anh Kazuki là ai vậy ạ? Anh ấy định đi theo con đường chuyên nghiệp ư?”

Anh Kazuki cứ như ở một đẳng cấp khác. Ngay cả một đứa không biết gì về piano như tôi cũng thấy kỹ thuật của anh ấy không phải dạng thường, lại còn biên khúc cả bài hát chỉ trong một khoảng thời gian hạn hẹp như thế. Một người chỉ học piano qua loa chắc chắn không thể làm được.

Anh Ozaki lảng tránh ánh mắt của tôi, hướng ánh nhìn vào khung cửa sổ đen như gương đang phản chiếu cảnh vật bên trong khoang tàu.

“Anh nghĩ cậu ấy không có ý định theo chuyên nghiệp đâu. Căn phòng lúc nãy là phòng sinh hoạt của Câu lạc bộ Hợp xướng, Kazuki chấp nhận làm người đệm đàn cho họ, đổi lại cậu ấy được phép thỏa mãn sở thích của mình, đó là chơi piano vào thời gian rảnh.”

“Trình độ đó… mà là sở thích ư?”

“Kazuki nói vậy. Còn trong lòng nghĩ gì thì anh cũng không biết.”

Câu trả lời cuối cùng có chút mơ hồ, không giống với anh Ozaki thường ngày, tôi quyết định không hỏi gì thêm.

Khi đến ga Sendai, khu vực này đông đúc hơn thứ bảy của mọi tuần. Phía trước những tấm tranh kính rực rỡ của cửa Tây tầng hai, khán giả tập trung đông hơn tôi tưởng.

“Anh đi đây, cứ bình tĩnh mà cố gắng nhé.”

Sau khi làm xong thủ tục đăng ký trong lo âu, chúng tôi vẫy tay chào tạm biệt anh Ozaki và đi về phía phòng chờ. Căn phòng này vốn là phòng cho nhân viên nhà ga, nhưng giờ đã được trưng dụng thành phòng chờ. Đã ở đây thì không thể luyện tập được nữa, cùng lắm thì chỉ có thể kiểm tra lại mọi thứ ở mức tối thiểu.

Takaizumi.

Khi bước vào phòng chờ, Chiharu đi trước tôi bỗng đứng khựng lại.

“Có chuyện gì thế?”

Vừa ló đầu qua vai Chiharu, cả người tôi cũng cứng đờ theo.

Trong căn phòng huơ hoác vì bàn ghế vốn có đã được dọn, ở phía trong có một nhóm các cô gái đang ngồi trên ghế. Họ mặc những chiếc đầm trắng giống nhau và đồng loạt nhìn về phía chúng tôi với một ánh mắt khó có thể nói là thân thiện. Trong số đó ánh mắt của Takaizumi với đuôi tóc đã được uốn xoăn, thực sự sắc bén đến mức tưởng chừng như có thể đâm xuyên cả da thịt của tôi.

Nhớ lại giọng nói gục ngã của Hayashi qua điện thoại, cơn tức giận trong tôi bùng lên từ tận đáy lòng. Nhưng ở đây còn có những nghệ sĩ khác, nếu gây chuyện sẽ làm phiền đến những người sắp biểu diễn. Tôi nén cơn giận, kéo tay Chiharu và chuyển hướng đi. Ngay khi chúng tôi định đi về phía bức tường đối diện nơi cách xa Takaizumi nhất, một giọng nói bỗng vang lên từ sau lưng.

“Nghe nói Hayashi nghỉ rồi thì phải? Thế mà cũng dám vác mặt đến đây, phải công nhận là gan lớn. Nhưng cố gắng đừng để màn trình diễn lộn xộn của cả ba làm ô danh câu lạc bộ nhé. “

Lời nói đầy chế nhạo và tiếng cười khúc khích như sóng vỗ. Đã ức hiếp và làm tổn thương người ta đến như thế, vậy mà vẫn cười được ư? Không thể chịu đựng được nữa, tôi trừng mắt về phía Takaizumi. Ngay khi định mở miệng, một cánh tay bỗng đặt lên vai tôi.

“Không phải ba, mà là bốn. Chúng tôi đã đổi thành nhóm tứ tấu piano.”

Anh Kazuki vừa giữ vai tôi vừa nói bằng giọng điệu ôn hòa, nhóm Takaizumi đều tròn mắt ngạc nhiên. Tôi còn nghe thấy tiếng ai đó thì thầm “Ôi, ngầu quá!”. Anh Kazuki vẫn giữ nụ cười hiền hậu, nói với Takaizumi đang bất động vì ngạc nhiên.

“Cảm ơn chị đã lo lắng, nhưng chúng tôi sẽ không làm lộn xộn mọi thứ lên đâu, chị cứ yên tâm… Hơn nữa chị là nhạc công nên chắc cũng hiểu mà, ai trước khi biểu diễn cũng đều sẽ lo lắng, nên chúng ta đừng nói những lời tiêu cực với nhau.”

Má của Takaizumi ửng đỏ. Nếu bị nói với giọng điệu khiêu khích, chắc chị ta đã khẩu chiến như mọi khi. Nhưng vì giọng điệu của anh Kazuki không có chút gai góc nào, nên chị ta không thể nào nổi giận. Takaizumi lườm anh Kazuki với vẻ mặt hậm hực.

Bỗng, biểu cảm của Takaizumi đột nhiên thay đổi kỳ lạ. Như thể có điều gì vướng mắc, nhưng lại không biết là gì nên đâm ra hậm hực. Chị ta nhìn Kazuki như muốn ăn tươi nuốt sống.

Khi được thành viên trong nhóm gọi đi, Takaizumi cũng rời khỏi phòng chờ với vẻ mặt bực bội.

“… Em xin lỗi, cảm ơn anh rất nhiều.”

“Không có gì, chị gái đó uy nghi thật. Em dám đứng lên phản kháng với cô ấy là giỏi lắm đấy.” – Anh Kazuki nhìn Chiharu, mỉm cười nói.

“Đúng đó, Chi-chan quá giỏi.”

“Một người tràn đầy kinh nghiệm mà lại.”

Tôi và Kei hùa vào trêu, Chiharu nở một nụ cười ngượng ngùng. Không khí căng thẳng ban nãy đã được giải tỏa, tất cả đều là nhờ có anh Kazuki.

“Sắp đến giờ rồi, chúng ta đi thôi.”

Sau khi mở nhạc phổ kiểm tra lại lần cuối những đoạn cần chú ý, chúng tôi vào khu vực chờ bên trong cánh gà được ngăn cách bằng một vách ngăn. Nhóm biểu diễn trước chúng tôi là một nhóm tam tấu sáo, họ xong là sẽ đến lượt chúng tôi.

Một lúc sau, chúng tôi ra khỏi vách ngăn khi được nhân viên ra hiệu. Anh Kazuki, tôi, Chiharu, rồi Kei lần lượt bước lên sân khấu.

Vừa căng thẳng liếc xuống hàng ghế khán giả, tôi giật mình. Madoka đang ở đó. Chị ấy trang điểm đủ kiểu, mặc một chiếc đầm nổi bật như một người nổi tiếng đang đi nghỉ dưỡng, mỉm cười vẫy tay chào tôi. Mà khoan, sao chị ấy lại vui vẻ ngồi cạnh anh Ozaki thế kia? Tôi cố hết sức để lảng tránh ánh mắt khỏi hai người đang mỉm cười vẫy tay.

Đúng lúc đó, nhìn thấy một hàng nữ sinh đi vào hàng ghế khán giả. Lòng tôi lạnh toát.

Takaizumi.

Takaizumi và bạn bè của chi ta ngồi vào những chiếc ghế trống ở hàng đầu tiên một cách đầy khiêu khích. Khác với phòng hoà nhạc, khoảng cách giữa người biểu diễn và hàng ghế đầu khá gần. Chiharu có ổn không đây. Khi tôi định ngồi xuống chiếc ghế đặt trước đàn piano và liếc nhìn tình hình, một vật màu đen đột ngột đổ sập, một âm thanh chói tai vang lên. Chiharu đã làm đổ giá nhạc.

Tôi cố gắng giúp Chiharu đang hốt hoảng dựng lại giá nhạc. Kei nhặt lại nhạc phổ trên sàn và đặt lên giá. Phụt, có tiếng bật cười vang lên. Là nhóm của Takaizumi. Họ đang thì thầm chế giễu với vẻ mặt vui sướng trước sự thất bại của Chiharu trên sân khấu.

Chiharu ngồi xuống ghế mà không để lộ một chút biểu cảm, nhưng đôi tai cậu ấy đang đỏ bừng lên đầy đáng thương. Tiếng cười nhạo vẫn the thé đâu đó, mặc cho chúng tôi đã cầm nhạc cụ lên. Nó len lỏi không ngừng.

Ngay khoảnh khắc tôi định hét lên vì không thể chịu đựng được nữa.

ẦM! Một âm thanh kinh khủng vang lên.

Không chỉ khán giả, mà cả những người đang đi lên cầu thang tầng ba cũng giật mình ngoảnh mặt lại. Cơn chấn động của cú đập mạnh xuống bàn phím bằng cả hai tay, âm thanh như thể trái tim tôi đã bị một viên đạn xuyên thủng. Takaizumi, những khán giả khác, và cả tôi, ai nấy cũng đều nín thở. Tất cả nhìn chằm chằm vào người đã dùng piano để “đấm” vào mặt chúng tôi.”

Anh Kazuki, người đã khiến cả hội trường phải im bặt, một lần nữa đặt tay xuống những phím đàn. Lần này nhẹ nhàng hơn, có cả hợp âm với ca khúc bi ai như hoàng hôn.

Sống lưng của tôi chợt lạnh toát. Tiếng piano khác hẳn so với lúc luyện tập. Khi chơi cùng chúng tôi, tiếng đàn của anh ấy trong trẻo và tiết chế hơn nhằm giữ được sự hài hòa. Nhưng giờ đây, âm thanh ấy lại dữ dội đến mức như muốn ăn tươi nuốt sống nội tạng người nghe.

Không chỉ có thế.

Khúc độc tấu hiện tại của anh Kazuki không hề có trong lúc luyện tập. Đồng nghĩa, đây chính là một màn ứng biến. Anh ấy thực sự đang sáng tác trong khi tay lướt trên những phím đàn, một cách tự nhiên đến mức khiến người ta ngỡ rằng màn dạo đầu này đã nằm trong bài nhạc. Người này rốt cuộc là ai?

Ngay khoảnh khắc tôi nín thở, anh Kazuki liếc nhìn tôi bằng ánh mắt sắc lẹm. Theo trực giác, tôi đặt cằm lên violin, tay cầm sẵn cây vĩ. Piano đã tấu nên đoạn điệp khúc. Đây rồi, chính là nó.

Vừa ra hiệu cho Chiharu và Kei, tôi hít một hơi rồi lướt cây vĩ trên dây đàn. Màn kết hợp với piano ở đoạn đầu của “Yesterday” khớp đến hoàn hảo, hòa cùng tiếng viola bao dung và cello sâu lắng. Đây là lần chúng tôi phối hợp ăn ý nhất.

Tiếp theo sẽ là màn độc tấu của tôi.

“Tiếng đàn của em hơi nhỏ. Cứ chơi với tâm thế mình là trung tâm của một nhóm nhạc thần tượng.”

… Thiệt tình, chơi thì chơi!

Ngay khi bắt đầu màn độc tấu, Chiharu và Kei đang đệm đàn nhìn tôi với ánh mắt kinh ngạc. Tôi giả vờ không để ý mà chơi tiếp. Chơi một cách phóng khoáng, đa sầu đa cảm hết mức có thể.

“Yesterday” là ca khúc tự sự của một người đàn ông đột ngột bị người yêu nói lời từ biệt, rằng ngày hôm qua mới đẹp làm sao, rằng anh ta muốn quay trở về ngày hôm qua. Lời bài hát lặp đi lặp lại từ “esterday” và những lời ca thán, nghe có phần luyến tiếc.

Khoảnh khắc sụp đổ của những tháng ngày tưởng chừng sẽ kéo dài mãi mãi, tôi hiểu nó. Nỗi đau đánh mất đi người tưởng chừng sẽ ở bên mình suốt đời, tôi cũng hiểu nó.

Tiếng violin thắt lòng cất tiếng hát, hòa cùng với piano, viola và cello, giai điệu thiết tha vang khắp trần nhà cao chót của nhà ga. Dần dần, bộ tứ âm sắc như đã mệt mỏi vì ca thán mà lụi dần, cuối cùng trở thành một tiếng thì thầm nhẹ nhàng bên tai, để lại dư âm và biến mất. Vài tiếng vỗ tay vang lên từ hàng ghế khán giả.

Như thể đang nhẹ nhàng nhắc nhở màn trình diễn vẫn chưa kết thúc, anh Kazuki ngay lập tức bắt đầu khúc dạo đầu của “Let It Be”. Khi khúc dạo đầu kết thúc, sẽ là màn độc tấu của cello.

Tôi đưa mắt cổ vũ, nhân vật chính nhìn tôi bằng ánh mắt uể oải, sau đó nhếch mép cười. Trong lúc tôi còn đang ngạc nhiên trước nụ cười tự mãn ấy, Kei đã bắt đầu chơi. Tiếng Cello hùng hồn, sâu lắng và quyến rũ. Tên Kei này, đang phiêu theo giai điệu.

Không chỉ có Kei. Ở vòng thứ hai, tiếng viola của Chiharu hòa cùng cello cũng trở nên bay bổng và tỏa sáng hơn bao giờ hết. Hai đứa này, gì thế kia. Vừa đệm đàn như thể rải những cánh hoa cho họ, tôi bất giác bật cười. Thật vui sướng biết bao. Tiếng đàn piano vững chãi luôn ở đó để làm chỗ dựa cho chúng tôi, những kẻ có chút phấn khích và bắt đầu chơi một cách tùy hứng. Vì vậy, chẳng có gì phải sợ cả.

Cuối cùng, đoạn đồng diễn của bộ tứ của chúng tôi với lời bài hát “Cứ để nó trôi đi” cũng khớp đến hoàn hảo. Sau khi để hợp âm cuối cùng vang lên đầy cảm xúc, chúng tôi đồng loạt im lìm.

Trong một giây, sự tĩnh lặng tuyệt đối bao trùm.

Tiếng vỗ tay vang lên. Anh Ozaki vỗ tay đứng dậy. Thấy thế, Madoka cũng đứng dậy vỗ tay theo. Ngay cả những người xung quanh không biết rằng hai người họ là “chim mồi”, cũng trao cho chúng tôi những tràng pháo tay nồng nhiệt.

Tôi ngơ ngác nhìn Chiharu và Kei, cả hai cũng có chung vẻ mặt và cảm xúc không khác gì tôi. Khóe mắt tôi chợt thấy gì đó chuyển động, tôi quay về phía piano, thấy anh Kazuki đang ra hiệu liên tục. Giật mình, tôi cùng Kei và Chiharu vội vàng đứng dậy.

Với lòng biết ơn chân thành, chúng tôi cúi đầu trước những tràng pháo tay không ngớt. Và khi ngẩng mặt lên, bóng dáng của nhóm Takaizumi ở hàng ghế đầu đã không còn ở đó nữa.

*

“Souta, cừ lắm, chơi hay lắm đó!”

Vừa dọn xong nhạc cụ và ra khỏi phòng chờ, tôi đã bị Madoka chờ sẵn ở bên ngoài vồ tới, chị ấy xoa đầu tôi đến mức rối tung cả lên.

“Trời, thôi đi…! Mà khoan? Sao chị lại ở cùng anh Ozaki?”

Phía sau Madoka, anh Ozaki trong chiếc áo polo đen đang đứng mỉm cười như một người quản gia. Madoka vừa cười vừa chỉ vào anh Ozaki.

“Chẳng phải lần trước cậu đã cho chị xem ‘ảnh tiền bối đẹp trai ở chỗ làm thêm’ còn gì. Tư dưng thấy có người giống nên chị bắt chuyện thử, ai ngờ đúng thật. Nói chuyện cũng hợp nhau nữa. Nhỉ? Ozaki.”

“Vâng ạ. Hasekura, có cô chị tuyệt vời thế này mà không giới thiệu cho anh là sao?”

Hai con người này, mới gặp nhau lần đầu mà tâm đầu ý hợp dữ vậy? Mặc kệ tôi đang đứng chôn chân, Madoka nhìn sang Kei và Chiharu, nở một nụ cười rạng rỡ.

“Em là Kei, còn em là Chiharu nhỉ. Cảm ơn các em vì đã luôn giúp đỡ Souta nhé. Thằng bé này ít bạn lắm, cảm ơn hai đứa vì đã làm bạn của nó.”

“Không ạ, bọn em mới là những người được Souta giúp đỡ. Hôm nay cậu ấy cũng giúp đỡ bọn em rất nhiều…”

“Mỗi lần đói bụng là Souta sẽ mua đồ ăn cho em, cậu ấy lo cho em cứ như bảo mẫu vậy…”

“Thôi giùm cái, muốn đâm đầu xuống đất chết đi được…!”

“Còn cậu là bạn ở chung với Ozaki, người đánh piano ban nãy nhỉ.”

Madoka bất lịch sự chĩa ngón tay về phía anh Kazuki, nhưng anh ấy đáp lại với nụ cười hiền hậu.

“Em là Yamiya Kazuki. Mặc dù chỉ là tham gia tạm bợ, nhưng em rất vui.”

“Chị nghe Ozaki nói rồi. Nhờ cậu ra tay giúp đỡ mà mấy đứa này mới có thể thuận lợi biểu diễn đúng không? Cảm ơn nhiều nhé, để chị khao một bữa.”

Nói rồi Madoka giơ cao nắm đấm lên trời, chẳng thèm để ý đến ánh mắt của người qua lại.

“Đi ăn mừng thôi! Hôm nay chị bao, mấy đứa cứ ăn uống xả láng!”

“Em xin đấy! Người xả láng ở đây là chị thì có!”

“Với lại giờ này chưa có quán nhậu nào mở cửa đâu. Chí ít cũng phải sau năm giờ.” – Anh Ozaki mỉm cười, vừa nói vừa nhìn đồng hồ.

“Chỉ là đề xuất thôi, hay là tổ chức tiệc ở nhà tụi em? Căn bọn em đang sống cũng khá rộng, bạn bè trên trường cũng hay chọn làm điểm tụ tập. Nếu mọi người đồng ý thì chúng ta có thể mở tiệc ngay, có làm ồn chút cũng không sao. Chỉ bất tiện ở chỗ phải đi tàu điện ngầm nên sẽ tốn chút thời gian.”

“Ý kiến hay! Nhưng chị đây còn biết chỗ xịn hơn cơ! Chung cư nhà chị! Từ đây đi bộ chỉ mất khoảng mười phút, đi đi về về cũng tiện hơn đúng không?”

Thấy vẻ mặt đắc ý như vừa nghĩ ra sáng kiến đỉnh cao của Madoka, tôi vội xua tay.

“Không được, dạo này em đâu có dọn dẹp. Đồ đạc, quần áo, rồi tạp chí các thứ của chị còn vứt lung tung khắp nơi.”

“Không sao đâu Souta. Nói về độ bừa bộn thì phòng của tớ chẳng thua kém gì đâu.”

“Tớ cũng vậy. Bạn cùng phòng ký túc xá cũng hay làm bừa phòng lắm, nên tớ quen rồi.”

“Anh cũng quen với việc bị ai đó làm bừa phòng rồi.”

“Này, tớ làm bừa phòng bao giờ.”

“Ai nấy cũng đều nói thế, không sao là không sao còn gì. Được, chốt rồi thì đi mua đồ nào! Mấy đứa theo chị!”

Madoka giơ nắm đấm đi trước như một đại tướng nhí, mọi người vui vẻ theo sau. Còn tôi thì mệt rã rời, vác theo violin lê lết ở cuối hàng. Chúng tôi ghé vào siêu thị gần khu chung cư, mua một núi đồ ăn. Người bị bắt xách giỏ là tôi, khi bị nhét thêm tảng thịt bò và chai shouchu khoai lang cỡ lớn, tôi cứ ngỡ tay mình đã rụng đến nơi. Tảng thịt bò đó sẽ được anh Ozaki dùng làm món bò nướng.

“Ơ, Yamiya, em chưa hai mươi sao?”

“Vâng, em sinh tháng mười hai nên vẫn chưa uống rượu được ạ.”

“Không sao, hôm qua em vừa tròn hai mươi. Em sẽ tiếp chị hết mình.”

“Gì chứ Ozaki, hôm qua là sinh nhật em hả? Sao không nói sớm. Souta, mua thêm cả bánh kem! Cái to chà bá ấy!”

Sau một hồi ồn ào mua sắm, chúng tôi quay trở về chung cư. Anh Ozaki làm bếp trưởng, Kei và Chiharu đóng vai phụ bếp, tôi với anh Kazuki nhận nhiệm vụ dọn dẹp phòng khách và bày biện đồ ăn thức uống đã mua. Nhà tài trợ Modaka vừa về tới nơi đã tuyên bố “làm lon khai vị” rồi leo lên ghế sô-pha tu ừng ừng món sinh tố lúa mạch.

Tôi vừa xếp cốc cho đủ số người lên chiếc bàn thấp, vừa liếc nhìn anh Kazuki đang xếp đũa bên cạnh. Sau buổi hòa nhạc, mọi thứ rối tinh rối mù lên nên tôi vẫn chưa kịp cảm ơn anh ấy một cách tử tế.

“Hôm nay thực sự cảm ơn anh rất nhiều. Buổi hòa nhạc vui lắm, anh cũng đã cứu chúng em một phen.”

“Chuyện không đáng nhắc tới đâu. Anh cũng vui lắm. Đặc biệt là bài “Yesterday”, lúc em đột nhiên hóa thành kẻ tự luyến ngay trên sân khấu, rất là bùng nổ luôn đấy.”

“Anh bảo em làm thế còn gì.”

“Sao lại nổi nóng chứ, anh đang khen mà, thực sự rất cừ đấy. Bài “Let It Be” cũng vậy, ai nấy cũng đều vui cả, và anh nghĩ cảm xúc ấy cũng đã lan tỏa đến khán giả. Mấy đứa giỏi lắm.”

Được khen, tôi bất giác đỏ mặt, nhưng người xứng đáng nhận được lời tán dương phải là anh ấy mới đúng.

Anh cũng vậy. Vốn từ của em hơi nghèo nàn nên em cũng không biết diễn tả ra sao… Được chơi đàn cùng anh, em đã rất xúc động… Anh chơi piano từ bao giờ vậy ạ? Chắc cũng lâu lắm rồi nhỉ.

“Nếu nói là lâu thì cũng lâu thật. Nhưng anh đã nghỉ học đàn từ rất lâu rồi. Mà này Hasekura, em học ngành gì ở đại học vậy?”

Không hiểu sao, tôi có cảm giác như anh ấy đang khéo léo lảng tránh câu hỏi. Biểu cảm hiền hòa của anh Kazuki vẫn như vậy, anh ấy cũng là người tùy hứng nữa, chắc là do tôi hiểu lầm thôi.

“Ba đứa bọn em đều học khoa Giáo dục ạ. Bọn em muốn trở thành giáo viên tiểu học.”

“Ồ, được đấy. Theo anh, nuôi dưỡng mầm non là một công việc rất cao cả.”

Anh Kazuki nheo mắt mỉm cười. Lời nói của anh ấy chất chứa sự chân thành đến kỳ lạ.

“Còn anh thì sao? Anh học gì ở đại học ạ?”

“Giống Mikiya thôi, anh học khoa Luật.”

“Tuyệt ghê. Vậy là sau này anh muốn làm luật sự, thẩm phán, hay gì đó liên quan tới pháp luật ạ?”

“Không. Anh muốn làm mấy công việc liên quan đến vấn đề thưa thớt dân số.”

Tôi phải mất vài giây để liên hệ ngành Luật với việc thưa thớt dân số, mặt tôi lúc đó chắc khôi hài lắm.

“Thưa thớt dân số… Kiểu như người địa phương rời khỏi nơi họ sống ạ?”

“Ừm. Nói kỹ hơn thì đó là tình trạng mà do dân số trong khu vực giảm đi dẫn đến sự đóng cửa của trường học hay hàng quán, từ đó khiến cho việc duy trì cuộc sống của dân địa phương trở nên khó khăn.

Anh Kazuki vừa lấy chai nước ngọt từ túi ni-lông, vừa nói tiếp.

“Vấn đề tỉ lệ sinh thấp có lẽ sẽ không bao giờ được giải quyết, còn tình trạng già hóa dân số thì ngày càng nghiêm trọng. Những nơi phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất chính là các địa phương có ít dân cư. Anh luôn trăn trở xem liệu có cách nào để cứu vãn tình trạng đó không. Ở khoa Luật có một giáo sư chuyên về chính sách tự trị địa phương, thầy ấy đã nghiên cứu về vấn đề thưa thớt dân số từ rất lâu về trước. Thầy ấy hiện đang nghiên cứu thực địa tại một ngôi làng thưa dân ở tỉnh Miyagi, vừa nghiên cứu cần làm những gì để duy trì và cải thiện các chức năng của cộng đồng. Anh vào trường này cũng vì muốn được thầy chỉ dạy.”

Là một kẻ chọn con đường giáo viên vì “hồi tiểu học đã được thầy cô bảo vệ trong trận thiên tai”, tôi hoàn toàn choáng ngợp trước sự sâu sắc của tầm nhìn và con đường mà anh Kazuki đã chọn cho mình.

“Tuyệt vời thật, hoạch định sẵn việc và biết được mà bản thân muốn làm…”

“Cũng không có ghê gớm gì đâu. Chắc là đối với anh, những vấn đề như vậy nó gần gũi hơn thôi.”

Nhưng chẳng phải anh Kazuki cũng xuất thân từ Yokohama giống như anh Ozaki sao? Đối với một đứa lớn lên ở một thị trấn nhỏ vùng Tohoku như tôi, Yokohama là một thành phố siêu lớn và chẳng có chút gì liên quan đến việc thưa thớt dân số. Dường như vẻ mặt hoài nghi đã lộ rõ mồn một, anh Kazuki mỉm cười nhìn tôi.

“Anh đã ở trên một hòn đảo biệt lập trong suốt ba năm phổ thông.”

“A… Em có nghe anh Ozaki kể rồi. Các anh đã sống ở ký túc xá nhỉ.”

“Ừm. Đó là một hòn đảo nhỏ rất đẹp, nhưng trước khi anh đến du học thì nơi đó đã ở trong tình trạng khá nguy kịch. Dân số suy giảm nhanh chóng dẫn đến việc trên đảo chỉ còn một trường cấp ba duy nhất và ở trên bờ vực đóng cửa, còn khoảng nợ của chính quyền địa phương đã lên đến mười tỷ yên. Thế rồi, ngôi trường xuất hiện một tân hiệu trưởng được bổ nhiệm, cô ấy đứng lên kêu gọi mọi người và bắt đầu một cuộc cải cách lớn. Họ vận động và hỗ trợ người nhập cư nhằm gia tăng dân số trên đảo, rồi bắt đầu tuyển cả học sinh bên ngoài để gia tăng số lượng học sinh cho trường. Nghe nói chính cô hiệu trưởng đã một thân đi vòng quanh Nhật Bản để quảng bá, thậm chí còn kiến nghị trực tiếp lên Bộ Giáo dục để xin tăng thêm giáo viên. Không chỉ riêng cô hiệu trưởng, mà cả nhân viên chính quyền, đội ngũ giáo viên, đến cả những cửa hàng nhỏ trên đảo, tất cả mọi người đều đã đồng tâm hiệp lực. Và kết quả, dân số đã tăng gần năm trăm người chỉ sau năm năm, số học sinh của một trường cấp ba chỉ có một lớp học cũng đã tăng lên gấp đôi.”

“Phi thường thật…!”

“Ừm, phải đến khi vào đại học thì anh mới hiểu ra đó là một việc phi thường đến mức nào, bởi nó thường được đưa ra làm ví dụ tiêu biểu về sự thành công trong việc phục hồi dân số địa phương. Anh biết đất nước này có hàng tá vấn đề xoay quanh nông thôn hay địa phương và tự hỏi xem liệu bản thân mình có thể làm được gì, giống như cách cô hiệu trưởng ấy đã bảo vệ hòn đảo…”

Anh Kazuki bỗng ngưng lời. Ánh mắt anh nhìn xuống ly nước trên tay, nhưng lại có vẻ như hướng về một nơi nào đó xa xăm hơn rất nhiều. Tôi bối rối, khẽ gọi anh Kazuki. Anh Kazuki như sực tỉnh, nhìn tôi rồi cười ngượng nghịu, “Không có gì đâu”.

Lòng tôi thắt lại. Vào khoảnh khắc trước khi nở nụ cười, ánh mắt của anh Kazuki trông vô vọng đến cùng cực.

“Làm bò nướng bằng nồi cơm điện được luôn ấy ạ?”

“Phải, dùng chức năng làm ấm ấy. Sau khi áp chảo sơ qua bề mặt thì cho sốt và thịt vào một túi ni-lông, rồi cứ thế bỏ thịt vào nồi cơm đã đổ sẵn nước nóng. Đợi tầm ba, bốn mươi phút là có thể ăn được. Trong lúc chờ đợi, chúng ta dùng bột bánh hỗn hợp này để làm một chiếc pizza đơn giản nhé.”

“Anh Ozaki, em yêu anh…”

Sau khi bày biện xong, tôi và anh Kazuki vào trong bếp, nơi anh Kazuki đang trổ tài làm mấy món nhậu tại gia đầy ngon miệng. Sư phụ của tôi quả là cái gì cũng làm được. Nhận lệnh từ anh ấy, tôi và anh Kazuki bắt tay vào làm salad, xé nhỏ rau diếp đã rửa. Kei và Chiharu thì đang vui vẻ xếp tôm, phô mai, mực lên chiếc bánh pizza ăn liền.

“Cậu làm hết từng này trong bấy nhiêu phút đó ư? Ozaki, làm vợ tớ đi.”

“Nghe không tồi. Nếu tớ trượt kỳ thi tư pháp và cuộc đời hết cứu, mong cậu hãy cưu mang tớ.”

Ba mươi phút sau, món pizza hải sản ăn liền cũng đã nướng xong, và trên chiếc bàn trong phòng khách bày la liệt những món ăn trông vô cùng hấp dẫn. Madoka và anh Ozaki lập tức rót rượu vang cho nhau, còn đám chưa đủ tuổi còn lại thì đành rót nước có ga, nước cam và trà ô long vào cốc.

Hôm nay thực sự đã có rất nhiều chuyện xảy ra, từ sự cố muốn khiến tim ngừng đập, những chuyện tức đến sôi gan, cho đến những trải nghiệm huy hoàng có thể làm lu mờ toàn bộ những điều u tối trên. Có lẽ vì được tiếp thêm năng lượng từ những điều tích cực trên mà người lúc nào cũng uể oải như Kei, hay cả Chiharu quá đỗi nghiêm túc, cũng đang cười đùa và vui vẻ hơn mọi khi, tôi cũng tương tự như thế. Dù chẳng uống một giọt rượu nào, tâm trí tôi vẫn cứ bay bổng. Tóm lại, đồ ăn ngon, không khí vui vẻ, và chúng tôi không thể nào ngừng cười.

Vì cứ mải vui như thế, đến một lúc sau tôi mới nhận ra Madoka và anh Kazuki đã biến mất khỏi phòng khách.

Tôi nhận ra và nhìn xung quanh, rồi phát hiện thấy Modoka trong bộ đầm lộng lẫy ở phía bên kia cửa kính ban công. Anh Kazuki cũng đang đứng cạnh chị ấy. Họ đang làm gì vậy nhỉ, tôi tự hỏi.

“Đến lúc lấy bò nướng ra rồi mấy đứa.”

Anh Ozaki đứng dậy, nên tôi cũng đứng dậy để gọi hai người họ vào.

Bữa tiệc bắt đầu khi trời còn sáng, vậy mà chẳng biết từ lúc nào, bầu trời bên ngoài khung cửa kính đã tối đen như mực. Vừa mở cửa kính, một làn gió ùa vào, mang theo cả sự ồn ào của bên ngoài.

“Nói thật thì đến giờ bọn chị vẫn chưa biết chuyện gì đã thực sự xảy ra. Cảnh sát cũng đã điều tra với giả định rằng người phụ nữ đã chăm sóc nó ở năm 2070 mà Souta nói chính là người đã bắt cóc thằng bé, nhưng rốt cuộc chuyện cũng chẳng đi đến đâu.”

Tôi nín thở.

Madoka tiếp tục với giọng điệu căng thẳng, khác hoàn toàn với sự vui vẻ khi nãy.

“Dù cảnh sát có hỏi gì, Souta vẫn khăng khăng rằng mình đã ở năm 2070. Mà thôi, thằng bé bình an trở về là chị yên lòng rồi. Nhưng kể từ đó, nó hầu như không còn mở lòng với ai nữa. Nên là chị cảm ơn mấy đứa rất nhiều, nếu có thể thì…”

“Chị.”

Giọng tôi vang lên một cách đanh thép. Madoka giật mình khẽ quay lại.

“Souta…”

Không được, không được tức giận. Tôi siết chặt tay, cố nở một nụ cười gượng.

“Bò nướng của anh Ozaki sắp xong rồi đấy. Mau vào thôi.”

“À, ừm.”

Madoka cười gượng gạo, rồi xoay người đi vào trong, tà váy bay phấp phới như đuôi cá vàng. Sau khi chắc chắn chị đã vào trong, tôi mới quay sang nhìn anh Kazuki.

Anh Kazuki, người đang tựa tay vào lan can ban công, cũng đang nhìn tôi. Bằng một ánh mắt kỳ lạ. Một ánh mắt như thể vừa ngạc nhiên, vừa nghi hoặc, lại vừa không thể tin nổi.

Để lảng tránh chuyện mà anh Kazuki chắc chắn đã nghe được từ Madoka, tôi nở một nụ cười thật tươi, giống như cách mà tôi hay làm ở Alphard.

“Anh Kazuki cũng vậy, món bò nướng của anh Ozaki…”

“Anh nghe chị em nói rằng hồi tiểu học, em đã từng mất tích.” - Giọng nói trầm tĩnh của anh Kazuki khiến lòng tôi chợt thắt lại.

Cơn gió đêm mùa hè thổi vào ban công mang lại cảm âm ấm khó chịu, tựa như xô nước bị bỏ dưới ánh mặt trời. Ở chung cư đối diện, khung cửa sổ của các tầng lầu nổi bật những đốm trắng, có thể thấy cả bóng người đang đi lại bên trong.

Liếc nhìn vào phòng khách, thấy anh Ozaki vừa từ trong bếp ra với đĩa thịt trên tay, Kei và Chiharu liền reo hò trong vui sướng. Anh Ozaki với cử chỉ tao nhã cắt lấy miếng thịt và đưa lên miệng đầu tiên, Kei sau đó cũng miệng nhai đầy thịt, không ngừng thốt ra những lời khen với đủ thứ tiếng nước ngoài như “Ngon!” , “Delicous!”, “вкусно!”.

Không một ai lắng nghe câu chuyện của chúng tôi.

“… Chuyện cũng đã xưa rồi, nên em chẳng nhớ gì nhiều. Với lại món bò nướng của anh Ozaki xong rồi kìa, anh không trở vào trong sao?”

“Nghe nói khi được hỏi bản thân đã ở đâu trong khoảng thời gian mất tích, em đã trả lời rằng ‘Mình đã ở tương lai’. Chuyện đó có đúng không?”

Anh Kazuki đứng tựa vào lan can, không rời mắt khỏi tôi. Anh ấy lúc nào cũng vậy, luôn nhìn thẳng vào mắt người khác như thể không có chút rào cản nào.

Tôi cảm thấy khó xử, chỉ biết nở một nụ cười gượng gạo.

“Nào có, anh đừng coi nó là thật chứ. Hồi đó em còn nhỏ nên hay nói mấy lời kỳ cục như vậy thôi.

“Nhưng em đã mất tích suốt một tháng rưỡi. Trong khoảng thời gian đó, em đã sống ở đâu và quay trở về bằng cách nào?”

Tôi biết anh Kazuki hỏi không phải vì muốn trêu chọc tôi, anh ấy chỉ đơn giản là thấy tò mò mà thôi. Thế nhưng, tôi không muốn nói cho ai biết những chuyện đã xảy ra trong một tháng rưỡi đó nữa. Tôi đã bị biết bao người đào móc, châm chọc, xỉa xói. Tôi không còn muốn bất kỳ ai chạm đến ký ức về cô ấy.

“Em quên hết rồi, không còn nhớ nữa.”

Ý chí kiên định trong lời nói với ngụ ý rằng bản thân không muốn đề cập thêm hẳn đã truyền đến anh Kazuki. Dù vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt thẳng thắn, nhưng anh ấy không hỏi thêm một câu nào.

“Chúng ta trở vào trong thôi, đồ ăn ngon đang ch…”

“Anh đã từng gặp người đến từ quá khứ.”

Những lời tôi định nói tiếp theo nghẹn lại nơi cổ họng. Mái tóc màu sáng của anh Kazuki lượn lờ trong cơn gió.

“… Xin lỗi, em không hiểu ý anh cho lắm.”

“Chuyện xảy ra vào năm 2017, cũng bốn năm trước rồi. Khi còn học lớp mười, anh đã gặp cô ấy. Cô ấy đến từ năm 1974. Người ở năm 1974, xuất hiện ở năm 2017.”

Vài giọt mồ hôi chảy dọc sống lưng tôi, một cách lạnh lẽo và chậm rãi. Đôi môi tôi khẽ nhấp nháy, nhưng không nói được lời nào. Tai tôi ù đi, chỉ còn nghe thấy tiếng tim đập như thể có ai đó đang dí micro sát bên tai. Tôi chỉ biết dán chặt mắt vào anh Kazuki.

“Hai người đứng đó chi vậy? Món bò nướng của anh Ozaki siêu ngon luôn đó.”

“Với cả anh Ozaki, chuông điện thoại của anh đang reo đấy ạ… Trên màn hình để là ‘Giáo sư Hongo’.”

“A, thật ư? Anh tới ngay.”

Anh Ozaki quay trở vào phòng khách với dáng vẻ tự nhiên như chưa có gì xảy ra, chẳng hề nói thêm gì thêm về câu chuyện kỳ quặc mà anh vừa kể.

Còn tôi thì chỉ biết đứng chôn chân tại chỗ, như một thằng ngốc.

Hasekura Rokuemon Tsunenaga (支倉 六右衛門 常長; 1571–1622) là một samurai Nhật Bản người Kirishitan Chanson là tên gọi chung bất cứ bài hát Pháp nào có lời hát vào cuối thời trung cổ cho đến thời phục hưng. Căn hộ có hai phòng ngủ, một phòng khách, một phòng ăn và một bếp Một loại búp bê truyền thống của Nhật Bản, thường được biết đến với hình ảnh một bé gái tóc ngang vai mặc kimono truyền thống Là lãnh chúa thời Azuchi–Momoyama và đầu thời Edo trong lịch sử Nhật Bản. 1 tỷ 4 VND