Thật là một trải nghiệm khá thú vị khi chia sẻ với nhau về những câu chuyện cũ.
Dĩ nhiên nó không hoàn toàn giống như việc đọc sách. Khi trò chuyện trong thư viện, chủ đề nhanh chóng chuyển sang “sách”. Khi những người yêu sách tụ họp, cuộc trò chuyện không thể tránh khỏi việc xoay quanh các tác giả và tác phẩm của họ.
Tất nhiên, có những chủ đề mà tôi khó có thể đáp lại.
“Nhà văn Homer chắc chắn phải là một thiên thần được Chúa cử xuống!”
“Nói vậy… có hơi quá không?”
“Quá á?! Không đủ đâu! Trước khi nhà văn Homer giáng trần,anh có thấy văn học chỉ là văn học hiệp sĩ được viết với sự tài trợ của giới quý tộc không? Khá là buồn cười khi tên các gia tộc quý tộc cứ lặp đi lặp lại… Nói thật thì chúng đều là những câu chuyện giống hệt nhau, chỉ khác mỗi cái tên, rồi được in ra mỗi ngày trên máy in. Văn học đang chết dần mỗi ngày…”
“Hừm.”
Tôi có thể phần nào đồng tình với điều này. Vì rốt cuộc tôi đã đạo văn các tác phẩm văn học từ kiếp trước cũng vì lý do tương tự mà. Để gieo mầm cho một nền văn học mới ở thế giới này.
“Nhưng Don Quixote của Homer đã thay đổi tất cả. Nó đã cắt cổ văn học hiệp sĩ và mở ra một kỷ nguyên mới cho văn học. Sao chúng ta không ca ngợi nó được chứ?”
“…”
“Don Quixote là Kinh thánh của văn học, báo hiệu kỷ nguyên thứ hai. Giống như Đấng Cứu Thế được sinh ra để truyền bá phúc âm cho vùng đất này bằng lời nói—chừng nào văn học còn tồn tại, Don Quixote sẽ được yêu mến mãi mãi. Nó tượng trưng cho cách thế giới của chúng ta, vốn chỉ đi theo ‘Thời đại của các Triết gia và Anh hùng,’ đã bước lên phía trước. Tất cả các tác phẩm kinh điển cuối cùng rồi đều phải chết đi… Thế nhưng lại có một nghịch lí, Don Quixote sẽ được yêu mến mãi mãi.”
Từ đôi mắt rực sáng với sự cuồng tín và giọng nói ca ngợi ngày càng mãnh liệt của em ấy, tôi cảm nhận được tài năng mà một cô gái tên là Isolette Reinhardt sở hữu.
Đó là tài năng của một nhà phê bình. Một con mắt sắc bén không chỉ nhìn tác phẩm như một tác phẩm mà còn tìm cách tìm ra một cách diễn giải trong đó.
Em ấy đang nhìn vào sự bất hủ của Don Quixote— vốn vẫn được gọi là “tác phẩm kinh điển được các nhà văn yêu mến nhất” ngay cả trong kỷ nguyên văn học hiện đại không ngừng tìm kiếm cái mới— với một con mắt rõ ràng đến phi lý.
Tác phẩm cuối cùng của thời Phục hưng, cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên. Kinh thánh của văn học. Don Quixote.
Don Quixote là một cuốn tiểu thuyết báo hiệu sự kết thúc của “nền văn học không thay đổi,” và do đó lại nghịch lý thay, nó không thể không còn mãi mãi. Rốt cuộc, không có gì tồn tại mãi hơn cái chết cả.
“Thật sự luôn, ông ấy không kém gì vị cứu tinh thứ hai được Chúa gửi đến vùng đất này hết! Homer là vị cứu tinh của văn học!”
“…”
Vì vậy trong khi lắng nghe câu chuyện của nhà phê bình tài năng nhất mà tôi biết, một lần nữa tôi đã hiểu ra, ảnh hưởng của mình đối với thế giới này.
Ảnh hưởng đó không phải do nhà thờ tuyên bố tôi là một người được ban phước. Nó không phải vì tôi đã thúc đẩy kiến thức của thế giới này với Principia, cũng không phải do các vật phẩm như ấn triện hoàng gia tượng trưng cho rồng Harren hay cây trượng vàng đại diện cho người thú nhân, chiếc nhẫn của triết gia hay thẻ bạch kim từ hội Thương gia. Những thứ đó chỉ là “đồ trang sức.”
Ảnh hưởng thực sự của tôi nằm ở hàng tá cuốn sách được xếp chồng lên tất cả những món đồ trang sức đó. Bởi vì linh hồn của văn học nằm trong chính văn học.
Kiến thức của thế kỷ 21, sự giàu có, danh tiếng, bất kỳ biểu tượng quý tộc nào, hay những đồ vật đắt tiền, không thứ nào trong số này có thể tồn tại mãi mãi.
Sự vĩnh cửu chỉ tồn tại trong trái tim con người.
[“Con gái của không khí không có linh hồn, nhưng—họ có thể tạo ra linh hồn của chính mình bằng cách làm những việc tốt.”]
[“Nàng tiên cá nhỏ, con đã cố gắng hết lòng để có được một linh hồn, giống như chúng ta. Con đã chịu đựng sự lạnh lẽo và đau đớn. Nỗi đau đó đã đưa con đến thế giới của không khí. Nếu con sống tử tế trong ba trăm năm từ bây giờ—con sẽ có được một linh hồn bất tử.”]
Thế nên mới nói văn học, dù là ngành vô dụng nhất lại là ngành sẽ mãi còn với thời gian nhất.
Đó chính là “sức mạnh” thực sự mà văn học nắm giữ!
Isolette đã ca ngợi Homer một cách nhiệt tình nguyên một lúc lâu.
Sau đó có lẽ vì đã nói quá nhiều nên cổ họng bị khô, em ấy hắng giọng và cảm thấy xấu hổ mà chuyển chủ đề.
“Phải rồi! Ed này, vì anh cũng thích sách sao không tham gia nhỉ?”
“Tham gia gì?”
“Phái Homer!”
“…Giáo phái gì vậy?”
“Đó là một nhóm dõi theo vị thánh của văn học, Homer!”
“Như vậy không phải là báng bổ sao…? Sao nghe giống dị giáo dữ…”
Tôi đã nghĩ mình cảm nhận được sự cuồng tín, nhưng liệu họ có thực sự có một tôn giáo cho việc đó không vậy trời?
Khi tôi hỏi trong sự hoài nghi, Isolette thay vào đó mỉm cười đầy tự tin và trả lời.
“Lên án sự thiêng liêng của Homer mới là sự báng bổ thực sự đấy! Đây vẫn là bí mật thôi nhưng Thánh đường đang chuẩn bị cho việc phong thánh cho Homer đó. Hehe.”
“Hử.”
Đó có phải bí mật không nhỉ? Tôi không chắc lắm vì tôi chưa thực sự nói với ai khác cả. Hồng y Garnier cũng không bảo tôi phải giữ bí mật. Có lẽ nó chỉ đơn giản là chưa sẵn sàng để được công bố chính thức thôi.
Tôi nghe nói quá trình phong thánh có thể kéo dài từ vài năm đến vài thập kỷ.
Điều đó không quan trọng lắm. Điều thực sự quan trọng là—
“Vậy những người thuộc ‘Phái Homer’ đó, họ đều là những người yêu văn học phải không?”
“Chính xác. Đôi khi họ thậm chí còn tự viết tiểu thuyết và phê bình lẫn nhau nữa á.”
“Nghe hay đấy. Đi liền thôi.”
“Bây giờ luôn sao? Được thôi, nhưng anh không nên ăn gì trước à? Em nghe nói anh đã nhịn ăn mấy ngày rồi.”
“À, phải rồi.”
“…Em hiểu anh yêu sách nhưng là một con người thì đừng quên ăn uống biết chưa.”
Isolette lườm tôi với đôi mắt lờ đờ.
Mình nên ăn một chút bánh mì trước khi đi vậy.
.
.
.
Buổi tụ họp của ‘Phái Homer’ mà Isolette dẫn tôi đến không phải là một buổi họp giáo phái bí mật dưới ánh nến mà nó diễn ra tại một thư viện với bầu không khí nghiêng về một nhóm thảo luận về sách lành mạnh hơn.
Điểm khác biệt chính so với các buổi thảo luận sách ở kiếp trước của tôi là tất cả những người tham gia đều ăn mặc như quý tộc, với những bộ quần áo sang trọng. Trang phục của họ giống trang phục dạ hội hơn là trang phục bình thường.
“Ôi chao, tiểu thư Isolette! Cô đến rồi! Không phải hôm nay cô có hẹn với một người bạn sao?”
“À, tôi đã mang người bạn đó đến đây bằng cách ‘cải đạo’ anh ấy đây! Ed, anh có muốn tự giới thiệu mình với các thành viên của Phái Homer không?”
“Hả? À, được thôi.”
Vậy ra đây là cách Isolette nói chuyện trong các buổi giao lưu à. Giọng điệu của em ấy thay đổi đột ngột đến mức tôi cảm thấy hơi khó tin.
Tôi gật đầu và giới thiệu bản thân.
“Tôi là Ed Fríden, con trai thứ hai của Bá tước Fríden. Bản thân tôi luôn là một người yêu sách nên tôi quyết định đến thăm nơi này.”
Hừm, cảm giác hơi gượng thì phải.
Nghĩ lại, tôi hiếm khi tham gia các câu lạc bộ sách ở kiếp trước. Dù là đọc lại những tác phẩm kinh điển như Demian và Con người hoan lạc, hay sự xuất hiện của những người rõ ràng chưa đọc sách nhưng chỉ đến để trò chuyện, có quá nhiều lý do khiến tôi tránh xa chúng.
À và đặc biệt là những người chỉ ca ngợi văn học Nhật Bản trong khi coi thường văn học Hàn Quốc là rác rưởi— những người đó cũng là một lý do khác. Sống ở Hàn Quốc nhưng lại bỏ qua văn học Hàn Quốc và chỉ đọc văn học Nhật Bản, rồi lớn tiếng tuyên bố “Tất cả văn học Hàn Quốc đều là rác rưởi!”
Thật sự với tư cách là một người bình thường, chứ không chỉ là một độc giả, điều đó hơi…
Dù sao thì cũng vì những lý do này mà tôi không quen thuộc với mấy câu lạc bộ sách. Vẻ mặt của tôi lúc này hẳn trông rất ngượng nghịu. Dạy học sinh ở học viện còn thấy dễ hơn nhiều. Nó tương tự như việc hướng dẫn những người mới tại một nhà xuất bản, điều mà tôi từng làm.
“Rất vui được gặp tất cả mọi người. Tôi nghe nói nhóm này cũng chia sẻ những tiểu thuyết nguyên tác—”
“Herodotus, là vị nhà văn đó sao…?”
“Hả?”
Đột nhiên tôi nghe thấy một cái tên quen thuộc từ đâu đó. Tôi quay về phía giọng nói và ở đó có một người đàn ông với mắt mở to, nhìn chằm chằm vào tôi với miệng há hốc. Khuôn mặt anh ta có vẻ quen quen.
Mình đã gặp anh ta ở đâu rồi hả ta?
“Chúng ta đã gặp nhau ở đâu chưa?”
“Vâng! Tôi đã ở đám cưới của Eric, và—”
“Ồ, phải. Tại đám cưới của anh trai tôi….”
“Và tại cuộc thi Holmes X Lupin…!”
“À.”
Khi tôi và người đàn ông nói chuyện, các thành viên khác của Phái Homer nhìn chúng tôi một cách ngơ ngác. Họ dường như đang cố gắng hiểu chúng tôi đang nói gì.
Tôi gượng cười và giới thiệu lại bản thân. Vốn tôi không định tiết lộ, nhưng cũng chẳng cần phải giấu.
“Tôi viết tiểu thuyết trinh thám và tiểu thuyết thương mại với bút danh ‘Herodotus’ cho tạp chí Half and Half.”
Sau lời giới thiệu của tôi, một khoảng im lặng nặng nề bao trùm.
Sau đó—
“Cáiiiiiiiii gì─!!!”
“Ôi Chúa ơi─!!!”
Hết người này đến người khác, khi họ xử lý thông tin tôi vừa nói, những tiếng la hét bùng nổ từ khắp các góc phòng.
“Anh đang nói là Herodotus ở đây sao?!”
“Reyn! Về nhà và mang tất cả các tạp chí tôi đã giữ đến đây ngay!”
Thư viện nhanh chóng trở nên hỗn loạn.
Trong khi đó Isolette, người có vẻ hơi chậm hiểu, hỏi với giọng run rẩy.
“Ed… Anh là Herodotus hả?”
“…Phải.”
…Có lẽ mình nên nói là trông giống anh ta thì hơn.
Zorba the Greekv là một tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Hy Lạp Nikos Kazantzakis, xuất bản lần đầu năm 1946. Được coi là một tác phẩm kinh điển của văn học hiện đại. Nhân vật Zorba đã trở thành một biểu tượng văn hóa, đại diện cho tinh thần sống hết mình, không sợ hãi. Cuốn tiểu thuyết đã truyền cảm hứng cho nhiều độc giả sống một cuộc đời ít bị kiểm soát hơn bởi lý trí và chấp nhận những rủi ro để thực sự trải nghiệm thế giới. Tác phẩm đã được chuyển thể thành một bộ phim nổi tiếng cùng tên vào năm 1964, với sự tham gia của Anthony Quinn trong vai Zorba. "Demian: Câu chuyện tuổi trẻ của Emil Sinclair" là một trong những tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của đại văn hào Đức Hermann Hesse, người đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1946. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1919, ngay sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.