Sói và Giấy da: Tân Sói và Gia vị

Chương kế tiếp:

Truyện tương tự

I won't Allow You to Have a Romantic Comedy With Someone Else

(Đang ra)

I won't Allow You to Have a Romantic Comedy With Someone Else

Rakuto Haba

Một câu chuyện tình yêu học đường đầy hài hước và lãng mạn — bắt đầu từ khi tôi có được người yêu!

129 1251

Tensei Shitara Heishi Datta? Akai Shinigami to Yobareta Otoko

(Đang ra)

Tensei Shitara Heishi Datta? Akai Shinigami to Yobareta Otoko

Shiriken

Ma pháp tồn tại, nhưng chủ nhân không thể sử dụng. Đây là một thế giới có Thần.

170 2222

Tomodachi no Ushiro de Kimi to Kossori Te wo Tsunagu. Dare ni mo Ienai Koi wo Suru.

(Đang ra)

Tomodachi no Ushiro de Kimi to Kossori Te wo Tsunagu. Dare ni mo Ienai Koi wo Suru.

Mashiroya Hideaki

Một câu chuyện tình yêu tuổi trẻ, khắc họa những cảm xúc vừa thẳng thắn lại vừa phức tạp, nơi tình bạn và tình yêu giao thoa.

14 24

Elf nuôi dạy trẻ

(Đang ra)

Elf nuôi dạy trẻ

O동글군O

*Tác phẩm nuôi dạy trẻ em đầu tiên trên Novelpia dành cho người lớn.

123 5024

Volume 2 [Đang Tiến Hành] - Chương Một

Khi mặt trời ló rạng, chuông nhà thờ vang lên vang dội.

Âm thanh ấy như một tín hiệu mở đầu phiên chợ, báo hiệu một ngày mới đã bắt đầu.

Tất nhiên, các nghệ nhân và thương nhân đã bắt đầu công việc từ sớm hơn nhiều, nhưng họ vẫn có vẻ hơi ngần ngại cho đến khi chuông reo. Sau đó thì không cần phải nói khẽ hay bước nhẹ nữa.

Dù đang giữa mùa đông, mọi ngôi nhà đều mở toang cửa sổ, đến cả những đứa con nhà quý tộc uống rượu quá chén đêm qua cũng sẽ bị kéo ra khỏi giường.

Khi tiếng chuông ngân vang dần tan, Col gấp lại cuốn Kinh Thánh và hít sâu một hơi.

“Myuri!”

Cậu gọi tên cô bé, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi, đống chăn phồng trên giường khẽ giật nhẹ phản đối.

Col tưởng cô bé sẽ thức dậy, nhưng rồi lại chìm vào im lặng.

Cậu thở dài, đứng dậy khỏi ghế, rồi kéo tấm chăn đang phủ lấy cô bé lười biếng kia.

“Ugh…”

Dưới ánh sáng rực rỡ của buổi sớm, quả cầu lông màu bạc càng cuộn tròn lại.

Một cô bé, với mái tóc mang sắc tro bạc ánh bạc kỳ lạ, đang ôm lấy một khối lông ấm áp có màu sắc tương đồng.

Myuri đã trốn trong hành lý của Col khi cậu rời khỏi nhà tắm ở làng suối nước nóng Nyohhira, nơi đã nuôi dưỡng cậu suốt mười năm. Giờ đây, cô bé rúc đầu trong tay, tránh ánh nắng rọi thẳng vào mặt. Một hình ảnh quen thuộc như từng thấy ở nhà tắm.

“…Lạnh quá…”

Một giọng nói trách móc vang lên từ khuôn mặt đang úp xuống giường.

Từ khe hở giữa tay và đầu, đôi tai thú nhô ra, người khác dễ nhầm là mũ lông thú.

“Em dậy ăn sáng là ấm ngay ấy mà.”

“…”

Myuri phản đối bằng cách im lặng. Nhưng ngay sau đó, Col nghe thấy một tiếng rột rột nhẹ.Có vẻ như cơ thể cô bé phản xạ theo bản năng khi nghe đến từ “ăn sáng”. Col đã biết Myuri từ khi cô bé còn đỏ hỏn, nên rất rành cách điều khiển cô bé. Cậu hắng giọng, rồi bắt đầu gấp gọn tấm chăn.

“Anh sẽ bắt đầu bằng cách nướng bánh lúa mạch đen trên bếp.”

“…”

Đôi tai thú ló ra từ cánh tay Myuri giật nhẹ.

“Cùng lúc đó, anh sẽ rắc muối hột lên vài lát thịt xông khói mỡ mềm, rồi chiên với hành tây. Có nên cho thêm tí tỏi còn sót lại từ tối qua không nhỉ?”

Chiếc đuôi trong tay cô bé khẽ rung lên, cả người bắt đầu ngọ nguậy trong tư thế cuộn tròn.

“Khi mùi tỏi lan khắp phòng, mỡ từ thịt bắt đầu tan ra, anh sẽ đập thêm một quả trứng tươi vào. Xèo xèo…”

Col nghe thấy tiếng nuốt nước bọt.

“Đảo sơ phần lòng trắng, để nó ôm lấy phần mỡ thịt, rồi nhấc khỏi bếp trước khi lòng đỏ chín hẳn. Sau đó, anh đặt tất cả lên miếng bánh vừa nướng nóng hổi. Và khi trứng còn mềm, thịt còn mỡ mằn mặn, ngấm vào miếng bánh lúa mạch đen vừa đắng vừa chua kia… Yum.”

“Aaaaahhh!”

Myuri giơ tay lên trời như đầu hàng, rồi ngồi bật dậy.

“Anh xấu tính quá đi mất! Làm gì có đồ ăn ngon như thế đâu!”

“Được ăn sáng đã là sang lắm rồi đó. Vẫn còn xúc xích thịt lợn từ tối qua mà.”

Col đặt tấm chăn gấp gọn lên giường.

Cậu biết cô bé vẫn muốn nằm tiếp, nhưng giờ đây, toàn bộ tâm trí đã hướng về đồ ăn sáng.

Myuri lầm bầm bước xuống giường, rồi hắt xì thật to.

“Này, sửa tóc tai, quần áo đi chứ.”

“…Hắt xì! …Khịt. Mệt lắm. Em muốn ăn sáng tại giường cơ…”

“Đây không phải nhà tắm, mà mình cũng không phải khách trọ nữa. Tự xuống bếp đi.”

Anh nói bình thản. Myuri phụng phịu thay đồ.

Dù Col đối xử với cô bé như em gái ruột, vì đã chăm cô bé từ nhỏ tí, nhưng cô bé giờ đã đến tuổi rồi. Cậu quay lưng đi để cô thay đồ.

“Xong rồi đó anh!”

Cô bé càu nhàu gọi, và Col ngoái lại nhìn.

Cô bé choàng áo choàng lông thỏ trắng lên vai, quấn lông gấu quanh hông, nơi quần lửng cắt ngang, và đôi chân quấn khăn lanh trắng càng làm lộ rõ đường nét mảnh mai của cơ thể.

Ngay cả giữa chốn cảng đông đúc, kiểu ăn mặc ấy cũng nổi bật.

Col vẫn còn thấy một chi tiết mà dễ khiến người khác chú ý, nên lặng lẽ nhắc nhở:

“Tai với đuôi em kìa.”

Myuri lập tức vỗ vỗ tai và đuôi, rồi chúng biến mất. Chúng không phải tai đuôi giả, mà là một phần cơ thể cô bé. Đó là dấu hiệu của quỷ nhập trong xã hội loài người, bởi mẹ cô bé là linh hồn sói trú ngụ trong lúa mì.

Dù Myuri là một cô bé nghịch ngợm đến mức không chịu nổi, nhưng Col chắc chắn rằng Chúa không hề nguyền rủa cô bé.

Vả lại, vì có thể chủ động ẩn tai đuôi, cô bé không gặp quá nhiều khó khăn khi sống giữa loài người.

Chỉ có điều, khi cô bé tức giận, bất ngờ hay xúc động mạnh, tai và đuôi sẽ tự động lộ ra.

“Thế này được chưa?”

Col nhún vai, và Myuri bắt chước làm theo.

“Ôi, em đói quá. Tí nữa làm tóc sau cũng được…”

Cô bé đặt hai bàn tay nhỏ lên bụng, đuôi mày rủ xuống.

Nếu đuôi còn hiện, hẳn giờ này nó đang cụp xẹp mất rồi. Cô bé đi ngang qua Col. Khi cậu định tiễn cô bé ra bếp, thì Myuri đột nhiên túm tay áo cậu, kéo về phía trước.

“Ơ? Em làm gì vậy!?”

Col suýt ngã, vội la lên, nhưng Myuri ngoái đầu lại, vẻ mặt như đang trách anh ngốc nghếch.

“Anh còn hỏi? Đến lượt em đó.”

“...‘Lượt’ gì của em cơ?”

Col ngẩn người. Myuri nhẹ nhàng ôm lấy tay anh, rồi mỉm cười rạng rỡ, ánh sáng từ đôi mắt hổ phách đỏ rực mà cô bé thừa hưởng từ mẹ lấp lánh dưới nắng sớm.

“Cuộc thi mà. Phải công bằng chứ. Không ai được độc chiếm đâu.”

Cô bé nói với nụ cười hồn nhiên, nhưng Col hoàn toàn không hiểu ý cô bé.

Cuộc thi? Độc chiếm?

Cậu cố xâu chuỗi ý nghĩa những từ đó, nhưng Myuri chẳng mảy may để ý, mà đan mười ngón tay vào tay cậu.

“Anh quên rồi à? Cuộc thi giữa em với Chúa đấy. Xem ai anh sẽ yêu trước–em, hay Ngài ấy?”

“…”

Myuri mới chỉ khoảng mười hai tuổi, và nụ cười của cô bé vẫn còn đượm màu ngây thơ.

Cũng giống như một người anh thật sự, cậu đã chăm sóc cô bé từ khi còn đỏ hỏn. Thế nhưng, chỉ mới vài ngày trước, cậu mới chợt nhận ra, rằng từ lúc nào đó, cô bé đã bắt đầu nhìn cậu như một người khác phái.

Suốt bao năm qua, Myuri vẫn ngang nhiên thổ lộ tình cảm với cậu, và cậu thì biết rất rõ cô bé ngưỡng mộ mình. Cậu chưa từng nghi ngờ mối quan hệ giữa hai người. Nhưng việc cô bé thích cậu theo kiểu đó thì lại là một chuyện hoàn toàn khác.

Trên hết, cậu là người nuôi chí trở thành linh mục, và đã lập lời khấn khiết tịnh. Vậy nên, không thể nào có chuyện đáp lại tình cảm của Myuri. Cậu đã giải thích rõ ràng điều đó cho cô bé.

Myuri là một cô bé thông minh, hiểu rõ lý lẽ và nguyên tắc. Cô bé không hề vòi vĩnh hay nổi giận, cũng không có thái độ xa cách hay gượng gạo sau khi bị từ chối.

Nhưng chính vì cô bé quá thông minh, nên mới trở thành vấn đề.

“Mình đâu có chung huyết thống. Nếu em thích anh, thì chẳng sao cả. Em chỉ cần khiến anh thích em hơn là thích Chúa là được, đúng không?”

Cô bé lý luận một cách hết sức tỉnh bơ. Khi cậu lên tiếng từ chối, Myuri không hề buồn bã, cũng chẳng bắt đầu cảm thấy nghi ngờ mối quan hệ giữa đôi bên mà sinh ra khó xử. Như mọi khi, đêm nào cô bé cũng lẻn vào chăn của cậu, ôm chặt bất cứ khi nào có cơ hội, và đôi tai cùng chiếc đuôi thú ấy luôn lộ ra, vẫy vẫy đầy vui vẻ. Thay vào đó, cứ như thể cô bé đã thôi không kìm lại nữa khi cảm xúc đã được nói ra vậy. Cách thể hiện tình cảm của cô bé còn mãnh liệt hơn hồi ở Nyohhira khi mà cô bé lúc nào cũng nhào vào người cậu.

Trong tình cảnh ấy, lời khấn khiết tịnh của một linh mục chẳng khác nào đứng trú nắng dưới tán cây vào giữa hè nóng nực. Tệ hơn nữa là, Myuri còn có vẻ đang lên kế hoạch chặt luôn cả cái cây đó. Bằng trí thông minh thừa hưởng từ cả cha lẫn mẹ, cô bé đã nghiền ngẫm hết Kinh Thánh và rút ra kết luận.

Dù linh mục bị cấm nuông chiều nhục dục, nhưng giáo dân thì không bị cấm yêu linh mục. Tóm lại, miễn là linh mục không làm gì sai, thì không vấn đề gì cả. Hơn thế nữa, Col dù đã khấn, nhưng vẫn chưa phải là một linh mục chính thức!

Cậu thật sự không có lý lẽ nào đủ sức để phản bác.

Lập luận ấy, về lý thì hoàn toàn chính xác.

“Thôi, đi ăn sáng đi! Còn vui hơn nhiều so với ngồi lải nhải với vị Chúa suốt ngày chẳng thèm nghe lời cầu nguyện nào của anh đấy!”

Cô bé tuy nói lời phạm thượng, nhưng lại không sai, và nó khiến đầu cậu đau như búa bổ. Cậu liếc nhìn khuôn mặt rạng rỡ của cô bé, thở dài mệt mỏi.

“Nếu nói về việc ai không nghe lời anh nhất, thì chắc em thắng luôn rồi đấy.”

“Nhưng miễn là anh vẫn được chạm vào em, thì em chưa thua đâu.”

Chiếc đuôi, lẽ ra phải được giấu đi, đang vẫy tít đầy vui sướng, và đầu cô bé áp vào ngực cậu, không quan tâm gì đến việc đôi tai thú bị gập lại.

Không hề có hàm ý gợi dục nào trong hành động của cô bé cả; tình cảm ấy vẫn chỉ là sự đơn phương non nớt của một thiếu nữ.

Thế nhưng, cậu nhớ rất rõ cô bé đã chăm sóc mình tận tình thế nào trong những ngày cậu ngất lịm vì kiệt sức. Trong những lúc mơ màng, cậu lờ mờ thấy gương mặt thành kính khi Myuri cầu nguyện, và cậu không thể nào tin được điều đó là giả dối. Cả những lần cô bé bám lấy cậu cũng phản ánh phần nào nỗi lo mà cô bé đã trải qua. Nghĩ đến điều đó, cậu càng khó có thể tỏ ra thờ ơ.

“Phải không, anh?”

“…Được rồi.”

Cô bé ép buộc, và cậu thở dài chấp nhận.

“Nhưng mà…”

Cậu đổi giọng, và Myuri lập tức nới lỏng tay đang ôm lấy cậu. Cô bé biết cậu sẽ nổi giận, nên không muốn làm gì làm cậu buồn.

Không nghi ngờ gì, cô bé là một đứa trẻ ngoan.

“Tai và đuôi của em vẫn còn kìa.”

“A…”

Cô bé luống cuống vỗ đầu để tai biến mất, rồi gõ nhẹ vào đuôi, khiến nó tan biến theo.

Cùng lúc ấy, Col bước tới cửa, với tay mở chốt.

“Còn một điều nữa,” cậu nói, và Myuri chạy theo. “Đừng ăn quá nhiều đấy.”

Cô bé tròn mắt, rồi nhe răng cười toe toét, để lộ hai chiếc răng nanh nhỏ xíu.

“Vâng.”

Đó là một lời hứa vô cùng sáo rỗng.

Cậu chẳng còn tâm trí nào để mắng nữa; cô bé thật sự đã nắm cậu gọn trong lòng bàn tay.

Cả hai cùng bước ra hành lang.

Cánh cửa khép lại phía sau, và bàn tay nhỏ xíu của Myuri khẽ lồng vào tay cậu một cách tự nhiên.

Cậu lại thở dài, còn cô bé ngẩng lên, mỉm cười rạng rỡ.

~~~

Tòa nhà thương hội của Công ty Debau mà họ đang trọ lại hôm nay lại tấp nập như mọi khi.

Là một công ty lớn, nơi đây có vô vàn công việc phải làm, nhưng việc nghỉ ngơi lại khá linh hoạt. Bất cứ ai ngồi bên những chiếc bàn cao cũ kỹ áp tường trong nhà bếp đều có thể thấy từng tốp cậu chạy việc và thương nhân dày dạn nối đuôi nhau chen vào những lúc rảnh rỗi, đứng ăn vội bữa rồi lại lao đi tiếp tục công việc.

Trong khung cảnh nhộn nhịp ấy, mỗi khi đám chạy việc xuất hiện, ánh mắt chúng lại tròn xoe khi thấy cô bé Myuri ung dung chấm bánh mì vào súp mà ăn.

Không phải vì bị vẻ sang trọng hay tao nhã của cô bé làm sững người, mà là bởi cô bé từng làm chạy việc cho chính thương hội này một thời gian ngắn. Với bọn nhóc, việc phát hiện một đứa từng là bạn bè làm việc cùng mình hóa ra lại là con gái là điều quá đỗi bất ngờ.

“Em là người làm giỏi nhất, cũng gan dạ nhất luôn đấy.”

Cô bé ưỡn ngực tự hào, nhưng cậu Col thì chỉ mong cô bé sắp đến tuổi cập kê này cư xử nữ tính hơn một chút.

“Ăn nhanh lên nào.”

“Ơ? Nhưng lúc nào anh cũng mắng khi em ăn nhanh mà.”

Cô bé chu môi.

“...Đó là vì khi đó em tay cầm thịt, tay cầm bánh mì, nhồi vô miệng như thổ phỉ xong rồi chạy lên núi chơi ấy.”

Gương mặt cô bé hiện rõ chữ phiền phức khi cô bé vét sạch súp dưới đáy bát bằng miếng bánh cuối cùng và cho vào miệng nhai ngấu nghiến.

“Nhưng mà giờ có chuyện gì để làm nữa đâu? Cả cái vụ ầm ĩ trong thị trấn cũng lắng xuống rồi.”

Chính vụ ầm ĩ đó là nguyên nhân khiến cậu Col kiệt sức đến mức đổ bệnh, và cũng là lý do họ đến thị trấn cảng Atiph ngay từ đầu. Biến cố ấy là vụ đối đầu giữa Giáo hội đứng đầu tôn giáo lớn nhất thế giới và Vương quốc Winfiel đối địch.

Giáo hội, tổ chức đã giữ địa vị đứng đầu trong suốt cả ngàn năm, đã quên mất đức tin là gì, chỉ còn biết lạm dụng quyền lực để thỏa mãn dục vọng. Chẳng cần phải nói nhiều, giáo sĩ cứ thế chìm đắm trong trụy lạc và các tội lỗi khác. Họ tận dụng mọi cơ hội để bòn rút thuế và bóc lột đặc quyền về cho mình. Gần đây, họ đã làm cho cả thế giới phẫn nộ vì thứ thuế thập phân, vốn được truy thu để chi trả cho cuộc thánh chiến chống lại dân ngoại, lại vẫn tiếp tục bị lấy đi khỏi túi tiền người dân dù cuộc chiến đã kết thúc.

Thế là cuối cùng, Vương quốc Winfiel đứng lên chống lại sự chuyên quyền đó, thúc đẩy Col rời khỏi ngôi làng suối nước nóng Nyohhira nơi hẻo lánh để trở thành người hỗ trợ cho nỗ lực của vương quốc.

Rồi ngay lúc cậu và cô bé Myuri chuẩn bị thuyết phục chi nhánh Giáo hội ở Atiph, họ lại bị cuốn vào một sự kiện lớn, nhưng cuối cùng, mọi chuyện lại diễn ra suôn sẻ ngoài dự đoán.

“Anh còn nhiều việc phải làm lắm. Sau bữa sáng, anh sẽ đến nhà thờ giúp Trữ quân công chúa Hyland nữa.”

Hyland, đứa con ngoài giá thú của quốc vương Winfiel, là một quý tộc xuất thân hoàng tộc chính trực và đáng kính, người đã đích thân yêu cầu cậu giúp đỡ. Trong biến cố vừa rồi, cô vẫn điềm tĩnh đặt cả mạng sống mình vào lẽ phải vì đức tin, bất chấp nghịch cảnh.

Nếu tất cả những gì cậu học được nơi núi rừng có thể giúp ích cho một người như vậy—người thể hiện lý tưởng mà cậu hằng theo đuổi—thì cậu muốn dốc hết sức mình vì cô.

“Ơ, sao cơ?”

Thế nhưng khi nghe thấy tên Hyland, cô bé Myuri liền nhăn mặt rõ ràng.

“Có phải cô tóc vàng đó bảo anh là nên nghỉ ngơi hẳn hoi không? Thế thì anh cứ nghe lời nghỉ ngơi đi. Hôm nay tụi mình nên đi dạo phố, hoặc nằm nghỉ trong phòng ấy.”

Cô bé gọi Hyland là “cô tóc vàng đó.”

Cậu Col chẳng hiểu tại sao cô bé lại không ưa cô đến thế. Có lẽ vì Hyland là một mỹ nữ ăn mặc như đàn ông?

Có thể với cô bé, sự kính trọng và thái độ như tôi trung mà cậu dành cho Hyland trông không khác gì tình yêu.

“Anh nằm bẹp trên giường cả tuần rồi đấy. Giờ phải làm rất nhiều việc để sửa chữa sai lầm của Giáo hội nữa.”

“Hứm.” Myuri hừ mũi, rồi gục nửa thân trên xuống bàn như thể không hứng thú nữa.

“Tất nhiên, nếu em thấy chuyến hành trình này phiền phức quá và muốn quay về Nyohhira, thì anh cũng sẽ để em về.”

Vẫn giữ nguyên tư thế gục bàn, cô bé ngẩng đầu lên trừng mắt với cậu.

Trong suốt vụ lộn xộn, cô bé đã hỗ trợ cả về thể chất lẫn tinh thần cho cậu. Nếu không có sự giúp đỡ của cô bé, có lẽ mọi chuyện đã khác đi rất nhiều. Cậu hiểu rõ điều đó, nên cũng thấy cần phải công nhận trí tuệ và bản lĩnh vượt bậc của cô bé. Chính vì vậy, nếu đuổi cô bé về quê mà không hỏi han gì, thì chỉ tổ cậu là kẻ thiệt thòi.

Dù việc một bé gái như cô bé dấn thân lên đường vốn là chuyện khó tin, nhưng cô bé còn xoay sở giỏi hơn cậu. Làm sao cậu cản được đây?

Myuri, lúc này đang nhìn cậu chằm chằm, dĩ nhiên đủ thông minh để hiểu tất cả những điều ấy.

“Biết rồi, biết rồi mà.” Cô bé nói như thể đang nhượng bộ, rồi liếc mắt dò xét xem cậu sẽ nói gì tiếp.

“Thế thì đi dọn chén đĩa đi. Hay là em tính ở lại một mình trong phòng?”

“Không ở lại đâu.”

“Vậy thì mau đi dọn đi.”

“Rồi mà.”

Tỏ ra như đang bị ép đến đường cùng, cô bé miễn cưỡng làm theo lời cậu, đem chén đĩa vào bếp.

Một lát sau, cô bé quay lại với một miếng thịt khô ngậm trong miệng.

Col cũng chẳng còn hơi sức để nhắc rằng con gái thì đừng đứng vừa ăn như thế.

“Thế đi nhà thờ luôn à?”

“Ừ. À, trước đó mình phải ghé chào ông Stefan một tiếng đã. Anh chưa gặp lại ông ấy từ khi ngã bệnh.”

Stefan là thành viên của Công ty Debau, tập đoàn có chi nhánh khắp vùng phương bắc. Chính ông ta là người điều hành chi nhánh công ty tại Atiph, nơi họ đang trọ.

Thế nhưng khi cậu vừa dứt lời, cô bé liền sửng sốt, và biểu cảm không hề có vẻ đùa.

“Anh quên là anh từng đe dọa ông ấy không thương tiếc à? Gã râu ria đó sợ tụi mình…sợ anh phát khiếp ấy.”

“…”

Quả thật, trong vụ rối ren vừa rồi, để cứu Hyland, cậu buộc phải thuyết phục Stefan hợp tác, mà biện pháp chính là khiến ông ta hiểu lầm nghiêm trọng. Nói cách khác, cậu khiến ông ta tin rằng hai người là hiện thân của thần linh.

Việc họ bị bắt rồi lại thoát ra dễ dàng chắc chắn đã khiến Stefan nghĩ đó là phép màu. Đã vậy, lúc ông ta thấy cậu thoát ngục, bên cạnh còn có một con sói bạc, một dấu hiệu rõ ràng của sự trừng phạt từ Chúa lên trần gian. Từ góc nhìn người ngoài, hẳn là họ phải sở hữu năng lực siêu nhiên nào đó.

Tất nhiên, nếu nói ai dễ chọc giận thần linh nhất, thì đó phải là chính con sói ấy—Myuri.

“Anh nên tránh mặt ông ấy đi thì hơn. Cho ông ấy thở cái đã.” Cô bé cười gượng. “Tự nhiên thấy tội ông ấy ghê.” Gương mặt ấy rõ ràng là kiểu của cô bé mỗi khi biết trò đùa của mình hơi quá tay.

“Đ-đến mức đó sao?”

Nghe vậy, cô bé nhún vai như một đứa trẻ con đang cố giả vờ làm người lớn.

“…Thế cũng được.”

“Em nghĩ vậy là ổn rồi.”

Cậu chẳng hề muốn làm tổn thương ai cả.

“Thế giờ đi nhà thờ thôi.”

Cô bé Myuri gật đầu, tiếp tục nhai thịt khô lốp bốp.

~~~

Tại các thị trấn lớn, cảnh tượng những người già đã nghỉ hưu nán lại trong nhà thờ sau khi cầu nguyện buổi sáng là điều khá quen thuộc. Chính vì thế mà Col không khỏi bối rối khi mở cửa ra lại thấy một đám đông như hội.

“Xếp hàng, xếp hàng đi nào! Những yêu cầu không liên quan đến giáo hội thì xin gửi lên hội đồng thị trấn!”

Một thanh niên, có lẽ là phó tế, đang hét to hết mức có thể trong hành lang và dường như nổi bật hơn cả đám đông bởi vì anh ta đang đứng trên một thùng gỗ hoặc thứ gì đó tương tự. Giống như hành lang, qua đám đông, Col cũng có thể thấy gian chính của nhà thờ đã chật kín người. Dựa vào trang phục của họ, có thể nhận ra đủ tầng lớp: thương nhân, thợ thủ công, nông dân, mục đồng, thậm chí có cả những người đang giơ cao cờ của các hiệp hội ngành nghề.

“Chẳng phải trước đây chúng ta cũng từng thấy cảnh tương tự thế này sao,ạnh trai?” Myuri nghiêng đầu hỏi, nhưng Col lại không biết trả lời thế nào.

Cậu vẫn còn đang sững sờ trước khung cảnh giống như một lễ hội đang diễn ra trong nhà thờ, thì bất ngờ có người va vào cậu từ phía sau.

Khi quay lại, cậu thấy đó là một người đàn ông tầm thước, trông như một thương nhân.

“Ô, xin thứ lỗi!... Ồ? Một người của Giáo hội sao! Thật tốt quá. Tôi muốn hỏi về thuế rượu vang.”

“Hả?”

“Tôi nghe nói tổng giám mục đã ban hành một số cải cách, vì vậy anh em chúng tôi thuộc Hiệp hội Quán và Nhà Trọ khu Schulaze muốn thỉnh cầu đức cha xem xét lại khoản đóng góp rượu dùng trong nghi lễ, cha thấy đấy…”

Người đàn ông trông có vẻ buồn bã, cúi đầu xuống, một tay đặt lên cái bụng tròn trịa.

“À…”

“Như cha biết đấy, ngoài thuế rượu nhập khẩu chúng tôi đã phải đóng, thì thường xuyên lại không thể mua được rượu vì tàu thuyền không cập bến. Giờ lại phải dâng rượu mỗi lần đi lễ thì thật quá sức… À, đây là ít bánh nướng do các cô gái trong giáo khu chúng tôi làm, và cả nến nữa. Xin cha nhận cho.”

Cứ như thể nhận ra mình nói một chiều quá, ông ta vui vẻ đưa ra một gói đồ và dúi vào tay Col.

Vì mặc trang phục giống tu sĩ, có vẻ như người đàn ông đã hoàn toàn lầm tưởng Col là người của Giáo hội.

Dường như cả tòa nhà lúc này đang tràn ngập những người như vậy.

“À… xin lỗi, tôi không phải người của Giáo hội. Tôi chỉ là một lữ khách…”

“Ồ? Thế à? Vậy sao không đến ở tại nhà trọ giáo khu Schulaze chúng tôi? Ở đó có thức ăn ngon và giường ấm nệm êm. À mà này, nếu có gặp tổng giám mục thì nhớ nói giúp về lòng thành và đức tin của chúng tôi, và xin ngài xem xét lại thuế rượu—Ơ, này!”

Nếu cứ tiếp tục, có lẽ họ sẽ bị tay thương nhân mời mọc mãi không dứt mà phải nghỉ ở một nhà trọ nào đó mất. Col liền nắm lấy tay Myuri, người vẫn đứng bên cạnh mỉm cười không rõ lý do, rồi xin lỗi và len qua đám đông để tiến sâu vào trong nhà thờ. Có vẻ như hệ quả từ sự kiện hỗn loạn mấy ngày trước ở thị trấn đã tiếp tục lan rộng, khiến dân chúng càng thêm rối ren.

Nói đơn giản thì, dù người dân đã đứng lên tố cáo sự lạm quyền của Giáo hội, nhưng nghĩ rằng chỉ cần thuyết phục được tổng giám mục là xong thì thật quá ngây thơ.

Cùng với hội đồng thành phố, Giáo hội có sức ảnh hưởng rất lớn tới việc quản lý thị trấn. Tất cả người dân đều tuân theo các chính sách của Giáo hội, bao gồm cả việc thu thuế trên rất nhiều mặt hàng. Mỗi khi tổng giám mục đổi ý và định đưa ra chính sách mới, ắt hẳn sẽ phải đối mặt với đủ thành phần người. Và nếu dân chúng thấy có cơ hội để được lợi, họ sẽ đổ xô đến, cố gắng chen chân vào quá trình ấy.

Là một trong những người góp phần gây ra rối loạn này, Col không khỏi rùng mình vì hối hận.

Tuy nhiên, mục tiêu mà cậu đang hướng đến không chỉ là cải cách nhỏ trong một thị trấn cảng phương bắc.

Col muốn sửa chữa tất cả sai lầm mà Giáo hội đã gây ra suốt ngàn năm qua. Và nếu điều đó thành hiện thực, hậu quả chắc chắn sẽ còn hỗn loạn gấp mười hay thậm chí hàng trăm lần hiện tại.

Giờ không phải lúc để hãi sợ vì những việc nhỏ nhặt như thế này.

“…Lạy Chúa, xin ban sức mạnh cho con.” Col thì thầm tự nhủ để lấy thêm can đảm.

Hyland rất có thể đang ở trung tâm cơn hỗn loạn, và Col đoán cô đang ở phòng họp. Dòng người dường như cũng đang hướng về phía đó. Col và Myuri len qua đám đông, cuối cùng cũng thấy được lối vào phòng họp.

Cánh cửa lớn đã mở rộng. Một nữ hầu bước ra từ đám đông, trên tay ôm cả xấp giấy da. Dù đã quấn khăn quanh đầu và che mặt, có lẽ là để thể hiện sự tôn kính với Giáo hội, nhưng mái tóc dài xõa ra từ tấm mạng lại khiến người ta cảm thấycô ấy trông vô cùng mệt mỏi. Đôi mắt cô cụp xuống, lặng lẽ luồn qua biển người đang hỗn loạn.

Thân hình cao ráo và mái tóc vàng óng nhưng rối bời của cô khiến mình trở thành một hình ảnh đặc biệt nổi bật.

Nhưng Col không thể nhìn lâu hơn kẻo thất lễ, nên lập tức quay đi. Ngay sau đó, Col sực nhớ rằng Myuri vẫn đang ở cạnh bên, khiến cậu bất giác căng thẳng.

“Gì vậy, anh?”

Myuri hỏi, đang cố hết sức để không bị đám đông xô ngã. Biểu cảm đầy ngơ ngác của cô bé cho thấy Myuri chưa thấy được nữ hầu kia.

“À… Không có gì đâu.”

Dù vừa trả lời vậy, ánh mắt Col vẫn không thể không dõi theo bóng dáng nữ hầu như bị câu vào bởi một lưỡi câu vô hình.

Cậu vừa hé miệng thì lập tức ngậm lại, bởi nữ hầu đã nhận ra Col, nhẹ nhàng đặt ngón trỏ lên môi ra hiệu im lặng. Sau đó, với ngón tay trông sạch sẽ bất ngờ so với một cô gái lao động, cô chỉ về phía trong nhà thờ rồi nhanh chóng rảo bước đi mất.

Bị bất ngờ, cậu chẳng còn cách nào khác ngoài việc đi theo. Cậu nắm lấy tay Myuri và cùng nhau len qua đám đông.

Họ theo chân nữ hầu một đoạn rồi tới được cầu thang dẫn lên tháp chuông, nơi không có bóng người nào khác.

“Được rồi.”

Nữ hầu ném xấp giấy da lên đống thùng gỗ xếp trong hành lang, tháo khăn quấn đầu ra rồi dùng tay vuốt tóc. Từ vai trở lên, cô chẳng khác nào một tiểu thư quý tộc đích thực.

Và vì lý do nào đó, cô lại toát lên vẻ đẹp của một góa phụ kiêu sa.

“Thật bất ngờ, thưa Trữ quân công chúa Hyland.”

Cậu gọi tên cô, và Hyland, người mang dòng máu vương thất Winfiel, khẽ mỉm cười, trên gương mặt vẫn còn vương nét mệt mỏi.

“Nếu không giả dạng thế này thì ta đã chẳng thoát được khỏi căn phòng đó rồi. Dân trong thị trấn cứ ùa đến mỗi khi ta ra khỏi thương hội, cả lúc đêm muộn, nên ta đành ở tạm đây. Cũng may là nhờ cải trang nên ít ai nhận ra, nhưng thật ra thì ta cũng thấy kỳ kỳ.”

Suy cho cùng, người ta thường đánh giá nhau qua vẻ bề ngoài. Col chợt nhớ lúc ở suối nước nóng, khi lần đầu gặp Hyland ăn mặc như nam nhân, cậu cũng từng nhầm cô là con trai. Nghĩ lại mà chẳng thể cười nổi.

“Xin chào cô bé. Dạo này thế nào rồi?”

Myuri vừa thấy người đối diện là Hyland cải trang thì mặt liền sa sầm. Trái lại, Hyland dường như khá thích thú khi chọc được Myuri.

“Myuri.”

Dĩ nhiên Col liền nghiêm giọng, nhắc nhở cô bé. Nghe vậy, Myuri hừ một tiếng rồi quay mặt đi.

Hyland bật cười khúc khích.

“Có lẽ là do hôm nay ta không mang kẹo. Thôi vậy.”

“Xin lỗi điện hạ…”

“Ta chỉ đùa thôi mà. Cảm giác như có một đứa em gái nhỏ hơn vậy. Thế, ngài khỏe hơn chưa?”

“Vâng, đã khỏe nhiều rồi. Cảm ơn người.”

Col cúi đầu cảm tạ như một người hầu đối với chủ nhân. Ngay lập tức, Myuri liếc sang với ánh nhìn lạnh nhạt.

“Ngài nên cảm ơn cô bé này mới phải. Ta có chăm ngài đâu.”

Myuri đồng tình với Hyland, còn vỗ lưng Col nữa.

“Còn ta thì phải cảm ơn cả hai. Các người đã cứu ta và cả ngọn lửa của niềm tin chân chính.”

Ngước nhìn lên, Col bắt gặp nụ cười dịu dàng của Hyland.

Một quý tộc như cô hiếm khi cúi đầu, nhưng qua nụ cười ấy, Col có thể cảm nhận được tất cả tấm lòng cô muốn truyền đạt.

“Tôi đâu có…”

“Dù ngài có cứu cả thế giới, ngài cũng sẽ nói thế thôi.” Hyland bật cười. “Thôi thì, với tư cách người bề trên, ta sẽ đền đáp bằng hành động vậy. Không hẳn là tiệc chúc mừng ngài bình phục, nhưng ta cùng ăn gì đó nhé? Ta làm việc từ trước khi mặt trời mọc đó.”

Hyland đặt tay lên bụng, giống hệt như Myuri lúc trước.

“Có thể ăn thịt không?” Myuri chen vào.

Col định rầy cô bé vì thái độ liên tục vô lễ, nhưng Hyland lại có vẻ thực sự thích thú. Dù sao thì cậu cũng chẳng nỡ mắng. Tất nhiên, Myuri làm vậy là vì biết Hyland sẽ chẳng bao giờ nổi giận với mình.

“Ta không ngại đâu. Ta cũng muốn ăn món gì nhiều muối một chút.”

“Yay!”

Có nhắc cô bé mới ăn sáng xong thì cũng vô ích thôi.

“Vậy thì ra cửa sau nhé. Thông cảm nhé—ta không có xe ngựa che kín đâu. À, trong lúc đi, ta muốn kể cho ngài về những gì sắp tới. Trong lúc ngài mê man, đã có rất nhiều chuyện xảy ra.”

Dĩ nhiên, họ không tới thị trấn này để nghỉ dưỡng.

Col liền đứng thẳng lưng lên, gật đầu dứt khoát, và Hyland cũng nhẹ nhàng gật lại.

~~~

Họ rời khỏi nhà thờ bằng cửa sau và bước ra phố, nơi yên ắng đối lập hoàn toàn với sự náo nhiệt ở phía trước. Dù người qua lại rất thưa thớt, nhưng nơi này không hề mang cảm giác hoang vắng hay cô tịch. Từ tĩnh lặng sẽ là mô tả phù hợp hơn cả.

Có lẽ bầu trời hôm nay trong xanh là nhờ bầu không khí khô đặc trưng của những thị trấn ven biển. Hoặc cũng có thể vì từ khung cửa sổ nhỏ của một trong các căn nhà dọc con phố, vẫn nghe được âm thanh của việc bếp núc và tiếng trẻ con khóc.

Thị trấn này, không nghi ngờ gì, vẫn đang tràn đầy sức sống của những con người đang tiếp tục vòng quay đời sống thường nhật.

“Hiện tại thì mọi thứ đang diễn ra rất tốt.” Hyland vừa nói vừa nhẹ nhàng vén váy, bước qua một con chó già gầy gò đang nằm chắn giữa đường.

Col cẩn thận đi sang lề rồi bước qua phần đuôi của nó. Khi Myuri theo sau, con chó già ấy lại khẽ cụp đuôi sang một bên như thể nhường đường. Với nó, kẻ đứng trên đỉnh không phải là quý tộc, cũng chẳng phải con chiên của Chúa, mà là cô bé mang trong mình dòng máu sói.

“Tổng giám mục của thị trấn đã hứa sẽ xem xét lại những đặc quyền vốn dĩ cho là hiển nhiên và cả các đặc xá, nguyện sẽ sống một đời đơn giản hơn từ nay về sau. Dĩ nhiên, lời đó có nghĩa là một cuộc sống không quá đạm bạc, vẫn xứng với cương vị của một tổng giám mục, nhưng như vậy thôi cũng đã là một bước tiến lớn. So với chuyện lợi dụng lễ vật thu được mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi mùa từ các buổi lễ cầu nguyện để dùng cho mục đích cá nhân thì thuế thập phân chẳng là gì cả.”

“Vừa bước vào nhà thờ, tôi đã bị một người từ hiệp hội của một giáo xứ kéo lại hỏi về chuyện rượu tế.”

Các linh mục trong thị trấn dường như được hưởng khá nhiều đặc quyền.

“Phải. Những người đang chen chúc trong nhà thờ đều là những dạng đó. Có đến mười bốn giáo xứ tự xưng là ngõ hẻm trong thị trấn này. Thợ thủ công và thương nhân mỗi xứ lại có hiệp hội riêng, và còn có thêm nhiều hiệp hội để giúp họ yên lòng. Riêng tại Atiph thôi, cũng đã dễ dàng tìm được đến năm mươi tổ chức kiểu đó rồi. Ngoài ra còn có những cá nhân tới với động cơ riêng, nên việc ứng phó thật không đơn giản chút nào.”

Ngay cả ở nơi như Nyohhira, nơi mà ai cũng biết mặt nhau, việc quản lý cộng đồng vẫn luôn là điều nan giải.

Col không dám tưởng tượng điều đó phức tạp đến nhường nào ở Atiph, một thị trấn lớn cần nguồn lực dồi dào mới có thể vận hành hiệu quả.

“Chưa hết. Các nhà thờ thuộc các thành phố độc lập và các tu viện lân cận cũng đã nghe được về mức độ phẫn nộ khủng khiếp của dân chúng với Giáo hội. Thế là họ đồng loạt cử sứ giả đến hỏi kiểu như: ‘Chúng ta có cần thay đổi chính sách không?’ hoặc ‘Cần đổi đến mức độ nào là đủ?’”

Dù trước kia chắc hẳn đã từng có người chỉ trích Giáo hội, nhưng hiếm khi điều đó dẫn tới sự chống đối công khai.

Bất kể Giáo hội có làm điều mờ ám đến đâu, người ta cũng chẳng dám phản kháng. Dân chúng đã quá quen với việc nhắm mắt làm ngơ, nghĩ rằng dù có mục nát đến đâu thì Giáo hội vẫn còn tốt hơn bất cứ thế lực thay thế nào.

“Và còn một chuyện nữa, bản dịch Kinh Thánh sang ngôn ngữ phổ thông mà ngài làm cũng đang gây ra nhiều tranh luận. Rất nhiều người tức giận vì trước đây linh mục được độc quyền việc đọc kinh văn. Những hành động nhằm ngăn cản Giáo hội tiếp tục hành xử lộng quyền đang lan rộng như cháy rừng. Tất cả là nhờ vào hai người đấy.”

Col có thể liệt kê ra hàng trăm lý do để phủ nhận điều đó, nhưng cậu cho rằng lịch sự nhất lúc này là nên tiếp nhận lời khen của Hyland. Vì vậy, Col chỉ mỉm cười ngại ngùng và âm thầm ghi nhớ những lời ấy trong lòng.

Dù vậy, nhiệm vụ của họ vẫn chưa kết thúc.

“Nhưng ngọn lửa luôn cần được kiểm soát.”

Nếu để lửa cải cách bùng cháy mà không kiểm soát—sẽ chỉ dẫn đến nội loạn. Và kẻ mà họ đang đối đầu chính là Giáo hội, một hệ thống có nhiều pháo đài trên khắp thế giới hơn cả các đại thương hội. Không thể liều lĩnh mà lao vào đối đầu trực diện được.

“Điện hạ nói rất đúng. Chúng ta cần thêm nhiên liệu vừa đủ cho ngọn lửa, rồi quan sát hướng gió thổi.”

“Vậy chúng ta có thể làm gì tiếp theo?”

Tiếp tục đi theo con phố sau một đoạn, họ đến khu gọi là Phố Cổ, tên gọi từ thời Atiph còn là một thị trấn nhỏ. Col biết được điều này vì đá lát đường nơi đây đã mòn theo năm tháng, và còn có một tấm biển đồng trên một tòa nhà ghi rõ chữ PHỐ CỔ. Chỉ cần nhìn độ sáng bóng của tấm biển cũng đủ thấy niềm tự hào của cư dân lâu năm nơi này.

Nơi đây tuy hơi nhỏ để gọi là quảng trường, nhưng vẫn có nhiều hàng quán buôn bán quanh một giếng nước nhỏ, thợ đóng giày đang sửa giày, và các cụ già chơi bài ở những khoảng trống giữa các sạp.

Điều khiến Col chú ý nhất là những tấm lưới lớn phủ kín các bức tường của nhiều tòa nhà. Chúng bao trọn cả quảng trường, thậm chí còn thả từ nóc tòa nhà cao năm tầng xuống.

Trông như thể cả khu quảng trường bị bao phủ trong một tấm lưới khổng lồ.

“Anh trai, cái đó là gì vậy? Có phải để tổ chức lễ hội không?”

Myuri vừa kéo tay áo Col vừa hỏi.

“Có vẻ vậy… Trên đó còn treo cái gì kìa. Cỏ khô cắt thành hình cá sao?”

“Dường như đây là lễ hội cầu mong mùa cá bội thu khi xuân đến. Khu này là nơi sinh sống của dân chài Atiph.”

Vừa nói, Hyland vừa mua bốn xiên cá trích chiên từ một sạp ven đường.

Cô đưa một xiên cho Col và hai xiên cho Myuri.

“Ở vùng này, cá khiến bụng no hơn cả lúa mì. Mà người thì không thể chiến đấu với cái bụng đói được. Nhân tiện…”

Hyland khựng lại một nhịp rồi nói tiếp.

“Cả hai người bơi giỏi đến đâu?”

Cô nở một nụ cười đầy ẩn ý, để lộ hàm răng sắc sảo, rồi cắn một miếng từ đuôi xiên cá chiên.

~~~

Gió gào thét như tiếng hò reo nơi chiến trường. Sóng cao ngất như núi chực nuốt lấy bầu trời. Nước biển tràn vào từ boong tàu; đồ ăn thì đã bị chuột gặm nhấm sạch. Không thể nào chợp mắt giữa cơn rung lắc dữ dội đến mức chẳng phân biệt nổi đâu là sàn, đâu là trần, cậu thấy mình như đang hít nước biển nhiều hơn là uống nó. Không còn chốn nào để trốn chạy, điều duy nhất còn lại là cầu nguyện. Dù có cố gắng chịu đựng nỗi sợ và cơn đau đến mức nào, chỉ một trận cuồng phong nữa là con tàu sẽ lật úp, và tất cả sẽ kết thúc. Giữa đại dương mênh mông, chẳng ai hay biết, cậu sẽ đơn giản là biến mất không dấu vết.

Mặt khác, tại những quán rượu trong thị trấn cảng, tên các con tàu và giá trị hàng hóa trên đó được dán trên các tờ giấy lớn, kèm theo các huy hiệu biểu trưng của từng thuyền. Những thương nhân ăn vận bảnh bao đứng suốt ngày trước các tấm bảng ấy, tay chắp lại như cầu nguyện. Trên cùng của mỗi tờ giấy, dòng chữ nguệch ngoạc được viết:

Nguyện theo ý Chúa định đoạt.

Tại quán rượu ấy, người ta đang đặt cược xem con tàu có chìm hay không. Trò chơi rủi may ấy đôi khi còn được gọi bằng cái tên khác: bảo hiểm. Chủ tàu sẽ giao 15 đến 20 phần trăm giá trị lô hàng cho bên nhận cược, và nếu tàu chìm, chủ tàu sẽ nhận lại khoản tiền đó. Còn nếu tàu không chìm, thì bên cược giữ luôn số tiền. Trung bình, cứ năm chuyến đi biển thì có một chiếc chìm. Con số ấy bao gồm cả trường hợp bị cướp biển tấn công.

Ai từng đứng nhìn ra biển trong những ngày xám xịt, lộng gió sẽ thấy dân làng ven bờ leo lên mái nhà, chăm chú dõi theo đại dương. Họ chờ đợi những con tàu thương buôn ngốc nghếch liều mình lao ra biển vì lòng tham. Nếu những con tàu ấy bị gió đánh tan, dạt lên bờ hay va vào đá mà vỡ, thì hàng hóa trôi dạt vào bờ sẽ là món lợi từ trời rơi xuống.

Tuy vậy, do có thỏa thuận giữa các thương hội lớn và địa chủ, tất cả hàng hóa dạt vào bờ đều thuộc về giới quý tộc. Vì lẽ đó, việc người dân ra tay cứu giúp các con tàu đắm là điều không thể. Như vậy chẳng khác nào tự chuốc họa vào thân. Nếu muốn được cứu, lẽ ra mấy kẻ đó nên tự bọc mình trong vàng—mặc dù nghĩ lại thì, chìm xuống biển vì khối lượng của đống tiền trên người còn thê thảm hơn.

Đúng là địa ngục trần gian. Một cuộc phiêu lưu theo đúng nghĩa đen.

Chúa phù hộ cho những ai dám vượt sóng ra khơi.

“Đấy, đại khái là vậy đó.”

Vị hoàng tộc của vương quốc Winfiel, một đất nước được bao bọc bởi biển cả từ bốn phía, tinh nghịch liếm phần mỡ gà dính trên đầu ngón tay. Trước mặt Col là một bàn tiệc hoành tráng. Họ đang ngồi trong quán rượu, nơi tụ họp của ngư dân địa phương, những người bắt đầu ngày làm việc từ trước bình minh và kết thúc trước buổi trưa.

Nhưng Col vẫn chưa chạm tay vào phần ăn của mình. Không phải vì cậu đang giữ giới ăn chay của một người theo đuổi con đường tu hành, mà là do câu chuyện vừa rồi của Hyland.

Treo trên trần quán là một mô hình con tàu khổng lồ, hai bên gắn thêm cánh làm từ lông gà—có lẽ ai đó đã đùa nghịch mà làm vậy. Sau khi nghe xong câu chuyện kia của cô, cậu chợt có cảm giác như những chiếc cánh ấy hàm chứa một ý nghĩa sâu xa nào đó.

“…Chẳng lẽ người muốn chúng tôi thật sự ra khơi sao?”

Col khẽ cất tiếng hỏi, giọng gần như thì thầm, khiến Hyland đang cắn dở đùi gà ngẩng lên nhìn. Trong từng động tác ăn uống của cô, một vẻ quý phái kỳ lạ như được nhấn mạnh thêm, khiến vẻ nữ tính của cô càng trở nên nổi bật.

“Ô, xin lỗi nhé. Ta không định dọa ngài đâu.”

Cứ như thể cô đã nhìn thấu được nỗi băn khoăn trong lòng cậu vậy. Đặt phần gà lên đám yến mạch—vốn được dùng thay đĩa—cô nhẹ nhàng lau miệng.

“Đất nước của ta được bao quanh bởi biển, nên chuyện về tàu bè và đại dương là thứ thường ngày ở huyện. Người Winfiel bọn ta rất yêu thích các câu chuyện phiêu lưu trên biển. Khi ta còn nhỏ, các thủy thủ già thường dọa ta bằng mấy giai thoại rùng rợn.”

Col tưởng tượng ra cảnh một Hyland thuở bé, quấn chăn ngồi bên bếp lửa, say sưa lắng nghe những câu chuyện phiêu lưu. Nghĩ đến đó, môi cậu khẽ nở một nụ cười.

Thế nhưng, dù sao đi nữa, biển cả vào mùa đông vẫn là một nơi vô cùng đáng sợ.

“Tất nhiên, những gì ta vừa kể cũng có phần phóng đại, nhưng có đôi khi…hửm?”

Col nhìn theo ánh mắt Hyland, và thấy Myuri đang siết chặt ổ bánh mì đến mức vụn bánh rơi xuống từ kẽ tay.

Cô bé đang nghiêng người về phía trước, miệng há hốc, mắt mở to đến nỗi tưởng chừng sắp rơi ra ngoài.

Khi cất lời, giọng của Myuri gần như bật ra thành tiếng rên.

“Phiêu…lưu…!!”

Chỉ cần cậu chọc nhẹ vào má của cô bé, hiện đang phồng lên vì phấn khích. rất có thể đôi tai và chiếc đuôi sẽ bật ra ngay lập tức.

“Đừng kỳ vọng quá nhiều. Lần này có khi ta lại khiến các người thất vọng đấy.”

Hyland cười khổ. Myuri vội vàng gom những vụn bánh vương vãi, rắc lên trên bát súp như một lớp phủ, nhất quyết không để lãng phí gì cả. Có phần nào đó trong cô bé vẫn còn y như một cậu nhóc bảy tuổi vậy.

“Nhưng—nhưng mà một con tàu thật sao? Ra khơi thật sao? Anh ơi?”

“Bình tĩnh nào. Này, bỏ cái bánh ra trước đã.”

Myuri gần như đã phát cuồng khi nghe nói đến cướp biển từ hồi họ đặt chân đến thị trấn cảng Atiph. Với một cô bé sinh ra và lớn lên giữa núi non trong làng suối nước nóng Nyohhira, những câu chuyện về biển cả quả thực quá đỗi hấp dẫn.

Cũng phải mất kha khá thời gian Col mới gỡ được bàn tay bé xíu kia khỏi ổ bánh mì.

“Chúng ta sẽ đi tàu, nhưng hành trình rất ngắn thôi. Ngắn đến mức suốt cả chuyến đi, em vẫn sẽ luôn thấy bờ biển ngay trước mắt. Không có thuyền nào dám ra khơi nếu thời tiết chỉ hơi bất ổn một chút đâu. Cùng lắm em cũng chỉ ở trên biển nửa ngày là cùng. Chuyến đi chỉ đơn giản là từ cảng này sang cảng kia thôi. Và nếu có say sóng thì cũng không sao, vì đến khi tỉnh dậy thì đã cập bến rồi.”

Những lời giải thích của Hyland giúp Col yên tâm phần nào, nhưng Myuri thì vẫn bày rõ vẻ không hài lòng.

“Dù vậy… cũng không phải là sẽ không gặp rắc rối gì. Vùng biển quanh các hòn đảo xa hơn nữa, vượt qua cả ranh giới giáo phận Atiph, thì nguy hiểm hơn nhiều. Không có quốc gia nào kiểm soát được khu vực ấy. Họ có luật lệ riêng và cực kỳ khắc nghiệt với người ngoài. Thời tiết cũng đổi thay đột ngột, mà bóng dáng hòn đảo thì có thể biến mất bất kỳ lúc nào—quả là cái bẫy hoàn hảo. Và bọn ta gọi những kẻ nắm quyền ở vùng đó là…”

Cô dừng lại, nhìn thẳng vào mắt Myuri.

“…cướp biển.”

“Cướp biển! …Gưh—!” Myuri hét lên, bật dậy khỏi ghế. Col cuống quýt lấy tay bịt miệng cô bé lại, rồi ấn nhẹ cho ngồi xuống.

May thay, quán rượu lúc này đầy những gã thủy thủ da rám nắng, mặt đỏ au vì rượu, chẳng ai mảy may bận tâm đến những từ đáng sợ kia.

Hyland mỉm cười thích thú. Có vẻ như cô cố ý trêu Myuri đến phát cuồng như thế.

Dù có lẽ đây chỉ là kiểu đùa nghịch của tầng lớp quý tộc, nhưng những lời cô nói không hoàn toàn vô căn cứ.

“Vậy chẳng lẽ… điện hạ muốn tôi đi cải hóa cướp biển sao?”

Col dù có biết bao điều trong Kinh Thánh đi chăng nữa, cũng hiểu rằng không thể nào dùng lời răn dạy để ngăn bạo lực. Cậu đủ thực tế để ít nhất cũng nhận ra được. Rằng những chuyện kiểu giảng đạo xong là bọn thô lỗ trở thành người tốt ngoan ngoãn chỉ có trong mấy cuốn truyện cổ tích.

“Nếu ngài sở hữu sự thánh thiện đến mức khiến các vị thánh cũng phải hổ thẹn… thì có khi còn được.”

Hyland nheo mắt tinh nghịch, mỉm cười. Trong tay cô là cốc bia loại rẻ tiền dành cho thủy thủ.

Nhưng rõ ràng cô không hề say. Dù khi còn ở Nyohhira, Col cũng chưa từng thấy cô mất kiểm soát vì rượu. Tửu lượng cao vốn là một trong những dấu hiệu đặc trưng của dòng dõi quý tộc.

“Tất nhiên, ta sẽ không yêu cầu ngài làm điều gì liều lĩnh như thế. Ta muốn ngài tận dụng tri thức của mình.”

“…Tức là sao ạ?”

“Mhmm.”

Hyland gật đầu, ánh mắt nhìn xa xăm. Gã chủ quán đứng phía sau quầy lập tức đi đến chỗ cô, tỏ ra như đã được sắp đặt sẵn. Sau khi nghe cô nói vài câu, hắn ta lui vào trong, rồi trở ra với một chiếc hộp gỗ nhỏ.

Nó được buộc lại bằng một loại dây kì lạ. Nhìn kỹ, Col nhận ra đó là da cá được xoắn lại như sợi chỉ.

Cô tháo sợi dây ra, mở nắp hộp. Trên lớp rơm lót bên trong là một pho tượng đen nhánh.

“Ồ, là búp bê à?”

Giọng Myuri bất ngờ nghe rất dịu dàng và nữ tính.

Cô bé hí hửng đứng bật dậy khỏi ghế, rướn người nhìn vào bên trong hộp, nhưng ngay lập tức, sắc mặt tái hẳn.

“…Oa, cái này… kỳ quái thật…”

Col không thể bật cười nổi trước sự thẳng thắn của Myuri, vì cảm giác trong lòng cậu cũng chẳng khác là bao.

“Chẳng phải đây là… tượng Đức Mẹ sao? Nhưng sao lại có màu này?”

Cậu tưởng đó là tượng gỗ bị cháy sém. Nhưng không, bề mặt nó phản chiếu ánh sáng đẹp một cách kỳ lạ. Đường nét chạm khắc cũng vô cùng tinh xảo. Rõ ràng đây là một tác phẩm hoàn chỉnh, được cố tình làm ra như thế.

“Đó là huyền thạch.” Hyland nói rồi nhấc pho tượng Đức Mẹ đen tuyền lên. “Đôi khi người ta tìm thấy nó ở những vùng có trầm tích than bùn và hổ phách. Một loại đá kỳ lạ.”

Hyland đưa pho tượng cho Col, và trong thoáng chốc, cậu tưởng mình đã làm rơi nó.

Nó nhẹ đến mức bất ngờ—khác hẳn với cảm giác nặng nề khi nhìn.

“Người ta nói rằng đây là loại hổ phách đã hóa than. Cũng giống hổ phách, nó sẽ hút bụi và len sau khi được đánh bóng; nhưng khác ở chỗ là nếu đưa vào lửa, nó sẽ cháy mà không chảy. Mùi của nó thì như ở giữa mùi than bùn và than đá. Một mùi khiến ta nhớ đến quê hương.”

Vương quốc Winfiel rất giàu trầm tích và than đá. Còn Nyohhira, với tài nguyên rừng dồi dào, lại chẳng bao giờ thấy bóng dáng của than bùn. Trong vài chuyến hành trình, Col có từng dùng nó làm nhiên liệu.

Cậu đưa tượng cho Myuri. Cô bé cũng kinh ngạc vì trọng lượng nhẹ tênh, rồi say mê ngắm nhìn từng chi tiết trang trí tinh xảo.

“Đôi khi người ta mài nó thành những viên nhỏ rồi gọi là ngọc trai đen để lừa người mua. Nó chỉ hiếm thôi chứ không quý. Giá trị thật sự không cao.”

Một pho tượng Đức Mẹ làm từ đá huyền thạch.

Hyland cẩn thận nhận lại pho tượng, rồi nhẹ nhàng đặt nó trở lại hộp.

“Có một vùng đất chuyên làm những pho tượng Đức Mẹ từ huyền thạch như thế này và họ tôn thờ nó vô cùng sùng kính.”

“Ý người là vùng đảo phía bắc?”

Khu vực khắc nghiệt, đầy rẫy cướp biển.

“Như ngài thấy, đây là một pho tượng Đức Mẹ được chạm khắc rất công phu. Nhưng bởi vì từ xưa, họ luôn xem người từ lục địa là kẻ thù, nên vẫn giữ khoảng cách với quyền lực của Giáo hội, thứ vốn là nền tảng của đại lục. Giáo hội từng tìm cách thu phục họ nhiều lần, nhưng cuối cùng lại từ bỏ vì cái giá quá đắt.”

Nhìn pho tượng Đức Mẹ đen tuyền kia, lại còn được buộc bằng sợi dây da cá, Col không thể không cảm thấy có gì đó mang hơi hướng tà giáo.

Gọi đó là ma thuật tôn giáo cũng chẳng phải là nói quá.

“Vì vậy…,”Hyland nói tiếp, “ta muốn ngài đến đó xem liệu chúng ta có nên đưa những tín đồ ở vùng đất đó về với chính đạo hay không.”

Cậu đáp lại ánh mắt cô. Nhưng thứ cậu thấy không còn là cái nhìn dịu dàng của một bằng hữu xa xăm nữa, mà là ánh mắt sắc lạnh của một bề trên.

“Giáo hội đôi khi nghi ngờ họ là dị giáo, nhưng rất có thể đức tin của họ lại là thứ thuần khiết nhất. Hoặc cũng có thể, dù họ chế tác tượng Đức Mẹ đẹp đến vậy, nhưng thực chất chỉ là vỏ bọc để tránh bị quy là ngoại đạo. Ta tin là ngài có thể cảm nhận và đánh giá xem đức tin của họ có thật hay không.”

“Chuyện đó—”

“Để ta nói lại cho rõ. Dù phán đoán của ngài ra sao, nó cũng sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quyết định của ta.”

Và ngay sau đó, cô nở nụ cười của kẻ vừa lừa người khác.

Trong hoàn cảnh hiện tại, số lượng đồng minh mà họ thu hút không phải là vấn đề. Ngược lại, nếu trong số đó có một nhóm tôn giáo kỳ lạ, Giáo hội có thể tận dụng cơ hội đó để công kích, gieo rắc nghi ngờ về chính nghĩa của Vương quốc Winfiel. Tuy nhiên, cậu biết rõ rằng mấy lời lẽ xã giao suông thì không đủ, vì chính miệng Hyland đã nói là “sẽ đóng vai trò lớn trong quyết định của ta.”

Tất nhiên, theo lẽ thường trong thiên hạ, người ta sẽ cúi đầu và tuân theo mệnh lệnh của giới quý tộc. Cậu và Hyland chưa từng đứng ngang hàng; địa vị giữa họ vốn dĩ không cho phép cùng ngồi một bàn.

Tuy vậy, ngoại trừ những kẻ hề được phép đùa bỡn, thì trong lịch sử, chỉ có các giáo sĩ mới dám đối đầu với những người cầm quyền.

Hyland vẫn giữ nụ cười trên môi, và chính sự quyến rũ đó như thôi thúc Col đưa ra quyết định.

“Được rồi. Bằng ánh sáng của học vấn và đức tin, tôi sẽ xem xét liệu tín ngưỡng của họ có thực sự thuần chính hay không.”

Hyland tiếp tục mỉm cười, nhìn chằm chằm vào cậu như để xác nhận, rồi khẽ gật đầu, hài lòng.

Sau đó ánh mắt cô chuyển sang Myuri, người đang ngồi bên cạnh Col.

“Và còn tiểu thư đây thì sao? Có điều gì muốn nói không?”

Giọng cô khi đó đầy dịu dàng và thân thiện, rõ ràng đang cố gắng lắng nghe thật lòng.

“Anh trai em là đồ nhát gan.” Myuri vừa gặm phần sụn của đùi gà, vừa lầm bầm. “Em không muốn thấy anh ấy bị lợi dụng như một công cụ.”

Cậu quay sang nhìn cô bé, chỉ thấy Myuri cũng đang nhìn lại mình.

Cô bé lúc thì vô tư nghịch ngợm, lúc thì như chỉ nghĩ về thức ăn, nhưng trí tuệ lại sắc sảo ngoài sức tưởng tượng. Mẹ của cô bé là hiền giả sói từng được người đời tôn kính như thần, còn cha thì là một thương nhân lỗi lạc, được một nhóm nhỏ nhưng uy tín ở phương bắc trọng vọng.

Với dòng dõi như vậy, không thể xem thường sự nhạy bén của Myuri chỉ vì cô bé còn nhỏ tuổi. Cô bé rõ ràng đã nhận ra rằng cậu đã nuốt trọn mọi mối nghi ngại về nhiệm vụ này.

Nhưng dẫu cậu thán phục sự lanh lợi đó, thì cô bé vẫn là một đứa trẻ.

“Không phải vì sợ quyền uy của Trữ quân công chúa Hyland nên anh không đặt câu hỏi đâu.”

“Vậy thì vì sao?”

“Vì anh tin tưởng ngài ấy.”

Myuri tròn mắt ngạc nhiên, rồi nhíu mày khó chịu.

“Tiểu thư à, anh trai em không phải là con cừu ngoan ngoãn như em tưởng đâu.”

“…Gì cơ?”

Thật sao? Myuri nhìn Hyland đầy nghi hoặc.

“Cậu ấy tin rằng, khi có đủ thông tin cần thiết, ta sẽ đưa ra phán đoán hợp lý. Và để đáp lại niềm tin ấy, ta cũng phải hành xử cho đúng mực. Anh trai em hiểu rất rõ rằng ta hoàn toàn nghiêm túc với trách nhiệm của mình.”

Hyland nói thêm rằng, vì vậy, chẳng cần phải nói trắng ra mọi chuyện. Khuôn mặt cô lúc ấy hiện rõ vẻ thích thú, như thể đang thưởng thức một trò chơi trí tuệ.

Myuri thường khiến cả người lớn cũng phải cứng họng, nhưng giờ đây, mặt cô bé lại như thể đang nghe một ngôn ngữ xa lạ.

Tuy nhiên, cô bé im lặng bấy lâu không phải vì mải nghĩ về điều đó.

“Khi nghĩ đến chuyện ấy, em chỉ thấy rằng có một ngày, anh ấy sẽ dính vào rắc rối to chỉ vì chẳng hiểu chuyện gì cả.”

“Myuri.”

Col khẽ răn đe, và cô bé lườm ngược lại.

Chỉ tay vào cậu, cô bé nói, “Anh chỉ thấy được một nửa của một nửa thế giới thôi!”

Lý luận của cô bé là thế giới chia làm nam và nữ, nên nếu không hiểu nổi phụ nữ thì coi như mù nửa thế giới. Rồi con người lại có thiện và ác, nên nếu không thấy mặt xấu, thì mất thêm nửa nữa. Myuri tin chắc rằng, nếu không có cô bé ở bên, Col sẽ lạc lối và sa xuống hố sâu ngay lập tức.

“Hai người đúng là cặp bài trùng.”

Hyland mỉm cười bằng ánh mắt, giọng nói lại mang chút ghen tị.

“Vậy nên ta mới yên tâm giao việc này cho hai người đó.”

Cô nhấc cốc bia rẻ tiền lên. Có lẽ, với người ngoài nhìn vào, nếu không uống gì thì họ lại nghĩ cô đang lo sợ điều gì.

Và câu nói tiếp theo của cô xác nhận đúng điều đó:

“Khi Giáo hội coi Vương quốc Winfiel là kẻ địch cần phải khuất phục, eo biển giữa Winfiel và lục địa đã trở thành một điểm nóng về mặt quân sự.”

Câu chuyện chuyển ngoặt từ niềm tin sang những điều đẫm máu hơn.

Chính điều đó là thứ mà cô đã không nói ra khi bảo rằng sẽ xem xét ý kiến của cậu.

“Quốc gia chúng ta có lực lượng hùng hậu, nhưng Giáo hoàng thì không có một hạm đội thực sự nào cả. Nếu ngài ấy muốn phát động chiến tranh, thì chỉ có thể trưng dụng thuyền từ các thị trấn ven biển. Vì thế mà ta mới đến thị trấn cảng Atiph này, để kết giao với càng nhiều đồng minh bên phía lục địa càng tốt.”

Cô nhấp một ngụm bia, rồi đặt cốc nhẹ nhàng xuống bàn.

“Và nếu chiến tranh nổ ra, thì chuỗi nhập khẩu vào vương quốc hải đảo của ta sẽ bị gián đoạn. Lúa mì sẽ không đến, rượu vang chỉ còn là mơ mộng. Vậy thì còn lại gì đây?”

Những kiểu người nào đang tụ họp trong quán rượu này?

Ánh mắt Col dừng lại nơi bát súp trước mặt, trong đó nổi lên vài khúc cá.

“Cá?”

“Đúng vậy. Bọn cướp biển ở các đảo phía bắc nắm giữ những vùng biển có nguồn cá phong phú, đặc biệt là cá trích. Nếu họ trở thành đồng minh của ta, nguồn thực phẩm sẽ được đảm bảo. Còn nếu họ là kẻ thù thì ngược lại.”

Thế giới là một bản đồ quyền lực chằng chịt phức tạp.

Không thể tháo ra dễ dàng như gỡ một nút dây.

“Chưa kể, bọn họ rất giỏi điều khiển mọi loại tàu thuyền. Họ sẽ là yếu tố quyết định giúp ta giành quyền làm chủ vùng biển. Tuy nhiên…”

Hyland tiếp tục nói.

“Chính nghĩa của chúng ta phải dựa trên đức tin thuần khiết. Dù có giá trị chiến lược đến mấy, nếu đức tin của họ lệch lạc, ta tuyệt đối không thể tiếp nhận. Một con cá thối sẽ làm hỏng cả thùng cá.”

Col tin tưởng Hyland—nếu là người khác nói điều ấy, chắc chắn cậu sẽ không tin.

Tuy vậy, nét mặt cô bỗng dịu xuống, và nụ cười mang theo chút mỉa mai chính mình.

“Dù nói là thế, ta vẫn thực sự hy vọng là họ không bị thối nát đâu… Nhưng nếu có hơi lo, thì cứ nấu kỹ lên rồi ăn vẫn được. Mà các đồng minh của ta thì đang đói lắm rồi.”

Dù Hyland có thận trọng đến mấy, thì cô cũng không phải là người duy nhất điều hành trận chiến này. Những quý tộc khác dưới trướng vua Winfiel có thể sẽ chọn con đường dễ dàng hơn.

Trong lúc đó, khả năng hành động của Hyland sẽ phụ thuộc vào lượng thông tin chính xác mà cô có thể nắm được. Và để làm được điều đó, Col chính là đôi mắt và đôi tai của cô.

Một trách nhiệm to lớn, nhưng xứng đáng để cố gắng.

Quan trọng hơn cả, Col thật sự rất tò mò muốn biết một đức tin xa lạ trông sẽ như thế nào.

Vậy nên, chỉ còn một điều cần hỏi.

“Khi nào thì chúng ta lên đường?”

Hyland cạn cốc bia, rồi đáp.

“Ngày mai thì thế nào?”

~~~

Hyland đã đặt niềm tin vào Col và giao cho cậu một nhiệm vụ. Giờ thì cậu phải xứng đáng với sự kỳ vọng đó.

Phán đoán của cậu về đức tin Đức Mẹ Đen sẽ tác động đến cả dòng chảy lớn hơn của sự việc. Nếu quá vội vàng xem bọn cướp biển là đồng minh, thì dù ban đầu có vẻ ổn thỏa, về sau cũng có thể phát sinh rắc rối. Nhưng cũng không thể loại trừ khả năng rằng, tuy thoạt nhìn có vẻ dị giáo, họ chính là mảnh ghép mà đại nghĩa đang cần đến.

Dù sao thì, việc Hyland trông cậy vào sự thông tuệ của mình khiến cậu vừa lo lắng, vừa mừng thầm.

Và hóa ra Hyland không hề nói đùa khi bảo rằng họ sẽ khởi hành vào ngày mai, thế nên họ bắt đầu chuẩn bị tàu ngay trong hôm ấy. Dù mọi thứ gấp gáp, cậu vẫn nhận ra rằng nếu ở lại thì cũng chẳng còn gì ngoài đống giấy tờ sổ sách. Bản thảo bản dịch Kinh Thánh ra ngôn ngữ phổ thông mà cậu đã khởi thảo tại thị trấn này cũng đã được gửi đến các học giả ở Winfiel, và Hyland nói giờ chỉ còn chờ hồi âm. Mà hồi âm thì chắc chắn sẽ mất thời gian.

Thế nên, nếu có nơi nào khác mà cậu có thể vận dụng tri thức của mình, thì cậu muốn lên đường càng sớm càng tốt. Thành thật mà nói, biển phương bắc vẫn còn là một vùng đất xa lạ đáng sợ, nhưng đây cũng là cơ hội tuyệt vời để mở rộng tầm mắt. Một dịp để dốc toàn lực mình có.

“Anh trai ơi?”

Giọng Myuri trong trẻo, vô tư cắt ngang dòng suy nghĩ của Col khi cô bé níu vạt áo cậu.

“Cái khăn lông thú này dễ thương hơn, hay cái khăn da này thế?”

Sau khi ăn xong và chia tay Hyland, hai anh em rảo bước ra khu chợ của Atiph. Họ rõ ràng chưa chuẩn bị đủ quần áo ấm cho chuyến đi biển phương bắc.

May mắn thay, thị trấn này có rất nhiều cửa hàng quần áo, bởi lượng người đến rồi đi do những chuyến hải trình dài ngày là rất lớn.

Việc có nhiều lựa chọn là điều tốt, nhưng cũng vì thế mà Myuri đã kéo Col đi từ cửa tiệm này sang cửa tiệm khác. Hễ tới tiệm mới là cô bé lại bới tung mọi góc, gom hết quần áo mình thích rồi quay ra hỏi cậu thấy thế nào.

Nhưng Col thì hoàn toàn không mấy hứng thú, chỉ trả lời lơ đãng.

“Chọn cái nào rẻ mà ấm là được.”

Mỗi lần như vậy, Myuri lại bĩu môi, nhưng rồi đột ngột đổi giọng. “Vậy để em hỏi lại. Cái nào anh thích hơn?”

Cô bé trừng mắt nhìn cậu chằm chằm thay vì nở nụ cười đáng yêu.

Cử chỉ này hệt như một cô bé dễ thương muốn diện bộ đồ mà người trong lòng mình thấy đẹp nhất, nhưng bản sao vụng về đó luôn thất bại thảm hại. Myuri luôn tràn đầy sức sống, nhưng cũng rất dễ bực mình.

“…Cái nào rẻ và ấm… Được rồi. Được rồi vậy.”

Để dỗ dành cô bé Myuri vừa nhe răng với mình, cậu đành so hai chiếc khăn và chỉ vào cái khăn lông thú.

Có vẻ nó làm từ lông hươu, và Col cảm thấy lớp lông hơi thô ráp ấy hợp với Myuri hơn loại mềm mịn.

Myuri nhìn chằm chằm vào cái khăn mà Col chọn rồi thở dài.

“Anh chẳng có con mắt thẩm mỹ gì cả.”

Col cố kiềm lại không trách mắng cô bé, bởi chính cô là người đã bắt cậu phải chọn.

“Nhưng mà anh đã chọn cái này, thì em lấy nó luôn nha!”

Bất ngờ, cô bé cười rạng rỡ và ôm chiếc khăn lông vào lòng.

Khoảnh khắc ấy, tim Col bỗng nhói lên vì nếu biết cô bé vui như thế, cậu đã chọn kỹ càng hơn. Nhưng suy cho cùng, vì bản thân không thể đáp lại những tình cảm đó, thế nên như vậy cũng tốt rồi.

Phù… Giờ thì cần thêm găng tay, mũ, và túi đựng túi sưởi…”

Họ còn rất nhiều thứ phải mua. Ít ra thì cũng nhẹ người khi biết rằng Hyland sẽ chi trả tất cả, nhưng mỗi lần dùng đến đồng bạc thái dương, đơn vị lưu hành trong vùng này, cậu vẫn cảm thấy như đang phạm tội.

Gần đây cậu đã sống xa rời với tinh thần tiết kiệm.

Trong lúc đang cố lấy lại sự tập trung, thì Myuri bất ngờ lên tiếng với vẻ mặt nghiêm túc.

“Chắc tụi mình cũng phải chuẩn bị kiếm và khiên nữa, đúng không?”

Rõ ràng là hình ảnh trong đầu cô bé đã biến thành một cuộc phiêu lưu hoành tráng kể từ lúc nghe đến chữ hải tặc.

“Không.”

“Ơ…”

Thất vọng hiện rõ trên mặt Myuri. Cô bé ôm chiếc áo lông vừa mua xong, cuộn tròn nó lại rồi đeo lên lưng. Dù có thể làm nhiệm vụ của cậu nhóc chạy việc một cách chuyên nghiệp bằng chỗ kỹ năng ấy, thì miệng cô bé vẫn chỉ toàn những câu chuyện hoang đường. Cậu thở dài, nghĩ nếu cô bé mà chịu tập trung rèn giũa bản thân thì danh tiếng chắc vang xa khắp bốn bể.

“Những gì sẽ làm là chúng ta đâm sầm vào tàu của kẻ địch, rồi ngậm kiếm trong miệng, hét to một tiếng và nhảy phắt qua thuyền kia, đúng không?!”

Myuri đặt tay ngang miệng rồi nghiến răng như thể thật sự đang cắn chuôi kiếm. Col chỉ biết nhìn cô bé với vẻ mặt bất lực, không chỉ vì hành động đó giống như đang cắn thịt xiên.

“Ngậm kiếm trong miệng rồi thì còn hét kiểu gì nữa?”

“…Ủa? Ờ ha?”

Cô bé đứng hình.

“Thấy chưa, không thể cứ tin sái cổ vào mấy câu chuyện về hải tặc khi em còn chẳng biết thực hư ra sao đâu. Em nên nghĩ nghiêm túc hơn về cái lạnh trước mắt thì hơn.”

Myuri mặc đồ mỏng vì muốn thời trang, mà thân hình thì mảnh khảnh, mỡ chẳng có bao nhiêu. Tuy cô bé có đuôi, nhưng không thể khoe ra trước mặt người thường.

Ở nơi mà mưa lạnh và băng giá là bạn đồng hành thường trực, thì càng nhiều lớp quần áo ấm càng tốt.

“Em chịu được mà. Ở Nyohhira tuyết cũng ngập trắng hết đó thôi.”

“Nhưng ở Nyohhira không có gió. Gió ngoài biển lạnh đến thấu xương đấy.”

Hơn nữa, khi đêm xuống mà lạnh quá, người ta còn có thể nhảy vào suối nước nóng.

Khi cậu nói vậy, Myuri bỗng im lặng, rồi nhìn chằm chằm vào cậu.

“Sao thế?”

“Anh từng đi biển lạnh bao giờ chưa đó, anh trai?”

Câu hỏi mang vẻ vừa ngờ vực, vừa ngạc nhiên. Có lẽ cô bé đang muốn nói rằng anh đang bắt nạt em một cách bất công.

“Rồi. Anh từng đến Vương quốc Winfiel bằng tàu giữa mùa đông. Lạnh kinh khủng luôn.”

“Thật á?! Khi nào vậy?!”

“Lúc anh vừa gặp cha mẹ em, nên… cũng khá lâu rồi.”

Lúc đó, mẹ Myuri, Holo đã ra boong tàu để ngắm cảnh, còn Col khi ấy vẫn là một đứa trẻ sợ tàu thuyền, bám chặt lấy cha cô bé, Lawrence—chuyện đó đã được cậu giữ cho riêng mình.

“Anh có nhiều kinh nghiệm đi lại hơn em nhiều. Nên em phải nghe lời anh.”

Với người như Myuri, kinh nghiệm thực tiễn mới thuyết phục hơn lý lẽ suông.

Dù vẫn có vẻ không hài lòng, cô bé cũng khẽ gật đầu.

Sau khi mua đầy đủ đồ dùng cần thiết, cả hai trở lại thương điếm để bắt đầu đóng gói: quần áo ấm, đồ ăn khô… tất cả chất đầy hành lý. Bởi vì họ có thể khởi hành ngay ngày mai, nên nếu nhận được lệnh bất ngờ mà chưa sẵn sàng thì thật khó coi.

Khi làm xong, mặt trời đã ngả về tây.

“Mệt…quá…”

Cuối cùng khi quấn chăn quanh hành lý, Myuri đổ vật xuống giường.

“Nhiều quá trời.”

Nếu vác bộ hành lý kia lên lưng, thì chắc nó còn to hơn cả người cô bé.

Chỉ nghĩ đến cảnh đó thôi, Col đã khẽ mỉm cười.

“Cứ như là—”

“Một cuộc đại phiêu lưu vậy!”

Myuri bật dậy, ngồi khoanh chân trên giường, cười toe toét. Col chẳng biết nên vui hay buồn, bởi tư thế chẳng đoan trang tí nào ấy lại hợp với cô bé đến mức cậu không nỡ mắng.

“Cuộc đại phiêu lưu… Ừ thì, nói vậy cũng không sai.”

Dù cô nhóc tomboy đã mệt nhoài vì chuẩn bị, mỗi lần liếc thấy hành lý là cô bé lại cười hí hửng như thể đang mơ mộng về những điều kỳ thú đang chờ đợi phía trước. Còn Col thì chỉ biết thở dài.

“Anh trai sao thế? Đói hả?”

“…”

Col không rõ là Myuri đang đùa hay hỏi thật, nhưng nghe giọng thì có vẻ nghiêm túc.

… Không. Không phải vậy đâu.” Cậu đáp rồi đặt tay lên bìa da cuốn Kinh Thánh đang nằm trên bàn. “Anh không biết điều gì đang chờ bọn mình ở biển phương bắc vào mùa này. Và khi nghĩ đến những chuyện có thể xảy ra…”

Có lẽ cậu sẽ chẳng thể bảo vệ được cô bé. Rủi ro là điều không thể tránh khỏi trong mỗi chuyến hành trình, nhưng nơi mà họ sắp đặt chân đến lại là vùng đất khắc nghiệt hơn cả. Hơi ấm lan ra bàn tay đang chạm vào bìa cuốn sách, nơi cậu tin rằng một nguồn sức mạnh đang ngự trị trong đó. Cậu đã dồn hết tâm huyết và linh hồn mình để chuyển thể bản văn đầy giáo lý của Giáo hội sang ngôn ngữ phổ thông và chính việc đó đã khiến đức tin của cậu thêm phần vững chắc.

Niềm tin ấy là thật. Đức Chúa đang soi sáng bước đường cậu.

Nhưng dù vậy, nỗi lo thì vẫn không tan đi dễ dàng.

“Anh trai.” Một giọng nói vang lên từ phía sau. “Sẽ không sao đâu mà.”

Col quay lại. Myuri đang đứng đó, nở nụ cười đắc thắng như mọi khi.

“Em lúc nào cũng lạc quan như thế cả.”

“Còn anh thì bi quan quá. Lo kiểu đó nhanh già lắm đấy, biết chưa?”

Đối với một người có ngoại hình trẻ hơn so với tuổi thật như cậu, thì câu đó nghe chẳng phải điều xấu. Có khi, Col còn mong lời Myuri nói là sự thật.

Cậu khẽ chau mày, như muốn hỏi: “Em nghĩ anh đang lo cho ai hả?”, còn cô bé chỉ cười toe toét, để lộ hàm răng trắng.

“Ổn mà.”

Cô bé đi vòng ra phía sau, rồi phóc người lên ngồi trên mặt bàn sau lưng cậu.

“Nếu anh có rơi xuống biển, em sẽ nhảy theo cứu anh liền.”

Myuri nói thế vì biết rất rõ điều mà cậu đang lo lắng. Cho dù cậu có cố cảnh báo bao nhiêu lần đi nữa, cô bé vẫn sẽ bịt tai giả vờ không nghe.

Col thật sự rất lo. Nếu có chuyện gì xảy ra với Myury, cậu chẳng biết phải ăn nói thế nào với Lawrence và Holo đang đợi họ ở Nyohhira

Thành thật mà nói, có lẽ để Myuri ở lại là lựa chọn tốt nhất, dù biết chắc cô bé sẽ giận đến tím mặt. Nhưng đúng lúc đó, Myuri bỗng nở một nụ cười hiền dịu. Biểu cảm ấy trông y hệt mẹ cô bé, hiền giả sói Holo.

“Thật ra thì chắc là anh cũng không cứu được em đâu, nhưng có một điều em có thể nói chắc.”

Nói rồi, Myuri nhẹ nhàng đưa tay ra, chạm vào ngực cậu.

“Nếu anh rơi xuống làn nước biển lạnh lẽo tối tăm ấy, thì em nhất định sẽ nhảy theo. Em sẽ không để anh lại một mình. Miễn là có anh bên cạnh em, thì đáy biển cũng chẳng sao cả.”

Myuri rất thích những câu chuyện anh hùng và tình yêu lãng mạn. Lằn ranh giữa hiện thực và mộng tưởng trong tâm trí cô bé vẫn còn rất mờ nhạt. Với cô bé, bản thân luôn là nhân vật chính.

Việc cô bé hơi đỏ mặt sau khi thốt ra những lời ấy cũng chứng tỏ rằng cô bé đã lớn thêm một chút.

Và như để giấu đi vẻ xấu hổ đó, cô bắt đầu nghịch ngón tay lên bìa cuốn Kinh Thánh.

“M-Myuri, dừng lại đi, mòn hết cả da bìa bây giờ.”

Col hấp tấp ngăn lại, nhưng Myuri đã quay lại dáng vẻ bướng bỉnh thường ngày.

“Hừm. Cuốn sách này có gì hay đâu. Em cá là cái vị Chúa trong sách này, nếu anh có rơi xuống biển thì cũng cứ ngủ tiếp thôi, chẳng thèm ngó ngàng gì đến anh cả. Nhưng em thì khác.”

Cô bé đập nhẹ lên bìa sách, rồi ghé mặt lại gần Col, nụ cười mãn nguyện hiện rõ.

“Thế nên, anh chọn em chứ?”

Lý lẽ của Myuri chẳng khác gì một nhát rìu, chém phăng tất cả lý trí của người đối diện.

Myuri luôn dõi mắt về phía mục tiêu, lao đến bằng tất cả sức lực và cắn chặt không buông. Tuy có chút ngại ngùng, nhưng cô bé chưa bao giờ chần chừ. Cô bé thẳng thắn, như một tia sáng đâm xuyên lớp mây dày, soi rọi mặt đất trong ngày u ám. Đó chính là sức hút của cô bé và thường thì, sự chân thành đó mang lại cái kết tốt đẹp.

Thế nhưng, Myuri đã đủ lớn. Cô bé cần hiểu không cân nhắc hậu quả không phải là dũng cảm, mà là non nớt. Cảm xúc cô bé dành cho cậu như một người khác giới rất có thể xuất phát từ sự tin tưởng và thân thuộc từ thuở còn bé. Nó hình thành vì chỉ đơn giản là bởi cậu luôn dịu dàng với cô bé, trong mọi chuyện.

“Anh cũng chỉ muốn nói một điều thôi.”

Col đưa tay lên khẽ chạm vào má cô bé đang ngồi trên bàn. Myuri nhắm một mắt, nghiêng đầu đón lấy cái chạm ấy.

“Anh có trách nhiệm phải đưa em trở về Nyohhira an toàn. Em phải đặt sự an toàn của bản thân lên trên hết. Nếu có chuyện gì xảy ra với em, thì anh không biết phải đối mặt với thầy Lawrence và chị Holo thế nào đâu.”

Với tay cậu vẫn đặt lên gò má mềm mại của cô bé, Myuri nhắm cả hai mắt lại rồi đung đưa chân.

Nhưng cô bé không trả lời.

“Thế em nói gì đi chứ?”

Cô bé mở mắt, nhìn thẳng vào Col. Trong ánh mắt đó, cậu bất ngờ thấy thoáng qua chút trưởng thành. Cô bé hẳn đã thấy đây là lúc nên nói điều gì đó nghiêm túc, nhưng khi vừa định mở miệng, cô bé lại thôi.

Rồi cô nhóc tomboy nhắm mắt lần nữa, nói khẽ, “Vâng.”

Câu trả lời nửa vời khiến Col hơi thất vọng.

Hoặc có thể, cậu đang tưởng tượng quá lên mà thôi. Khi cậu nhìn cô bé, thì chỉ nghe thấy tiếng bụng cô bé réo lên.

“Em đói quá à.”

Myuri mỉm cười tuyên bố, và ngay khoảnh khắc ấy, bầu không khí trang nghiêm vừa rồi hoàn toàn tan biến.

“Nè anh, khi trên đườnng đến đảo chắc tụi mình chẳng ăn được miếng thịt nào đâu nhỉ? Vậy nên hôm nay em muốn ăn thịt”

Cô bé nhảy phắt xuống bàn, quay về dáng vẻ thường ngày. Trông hệt như một chú chó con đang mè nheo đòi ăn vậy.

“…Trưa nay em ăn thịt với Trữ quân Hyland rồi mà. Sáng cũng có thịt khô, rồi hôm qua nữa, em cũng ăn đồ nướng còn gì?”

“Anh kỹ tính quá trời…” Myuri phụng phịu.

Cô bé cầm lấy áo khoác, khoác lên vai, rồi chạy thẳng ra cửa.

“Đi thôi!”

Cô bé mở cửa bằng một tay, tay còn lại thì đưa về phía sau, chìa ra về phía cậu. Nụ cười ấy, rạng rỡ và không chút do dự, cho thấy cô bé chắc chắn rằng cậu sẽ nắm lấy tay mình, khiến cậu không khỏi bật cười. Cậu nắm lấy tay cô bé, và cô bé siết lại thật chặt.

Suy cho cùng, mối quan hệ giữa họ vẫn luôn vững vàng như thế. 

Không cần phải cố gắng thay đổi điều gì cả.

Col lặng nhìn Myuri chạy tung tăng giữa các gian hàng, và âm thầm cầu nguyện rằng họ sẽ cứ mãi yên bình như thế này.