“Cậu muốn học dùng dao à?” Owen nhướng mày, có vẻ bất ngờ. Xét đến chuyện mỗi chuyến ra khơi đều cận kề cái chết, phần lớn đám hải tặc trên tàu đều sống kiểu còn ngày nào hay ngày ấy, hiếm ai rảnh hơi mà nghĩ tới ngày mai. Vậy nên Owen mới nhắc khéo: “Dao kiếm không phải thứ học một sớm một chiều. Nhanh thì cũng phải một hai tháng mới có kết quả. Mà tập luyện thì khô khan chết đi được. Súng của cậu bắn đâu có tệ, sao còn đâm đầu học dao làm gì?”
“Cận chiến là điểm yếu của tôi. Súng hỏa mai mỗi lần chỉ bắn được một phát, nạp lại thì rườm rà, tôi không muốn bắn xong rồi đứng đó ngó như thằng ngốc. Học dao ít ra còn tự giữ mạng được.”
“Ừ, nghe cũng có lý.”
Súng hỏa mai thời này khác xa mấy khẩu súng đời sau. Dù đã khá hơn súng hỏa thạch, việc nạp đạn vẫn là cả một nghi lễ phiền phức: thuốc súng và đạn tách rời, phải nạp cả vào nòng lẫn vào máng mồi sau mỗi phát bắn. Mà kẹt ngòi thì xảy ra như cơm bữa. Vậy nên thường thì hai bên đấu nhau xong một loạt súng là xách dao ra quần thảo, ai khỏe hơn kẻ đó sống.
Tuy nhiên, đa số lính tráng đánh nhau chủ yếu dựa vào sức vóc, chứ kỹ năng thì chẳng mấy ai có. Vì thế những người từng qua huấn luyện quân đội như Owen thường chiếm ưu thế rõ rệt trong đám hỗn chiến.
“Nếu vậy thì mai, lúc mặt trời vừa ló, cậu ra boong tàu. Tôi sẽ dạy vài động tác cơ bản: chém, đâm, cắt… Mà nhớ là học dao thì học, đừng để ảnh hưởng tới công việc hàng ngày.”
“Cảm ơn. Tôi sẽ không sao nhãng đâu.” Trương Hằng nói thật lòng. Owen được đám hải tặc nể là có lý do: thẳng thắn, sòng phẳng, kể cả với những thứ hắn giỏi nhất cũng chẳng keo kiệt giữ cho riêng mình. Trương Hằng mới vừa mở miệng, hắn đã gật đầu cái rụp.
Còn người khác thì không dễ thuyết phục đến thế.
Trương Hằng tìm đến ông già tên Roscoe thủ lĩnh điều khiển buồm kẻ mà người trên tàu đồn rằng đã sống nhiều năm trên biển hơn cả thời gian hắn từng ở đất liền. Đo gió, đoán thời tiết, điều hướng buồm ba món ấy hắn làm như chơi.
Dựa vào mấy kỹ năng ấy, Roscoe sống khỏe ở bất kỳ con tàu nào, chẳng cần đánh đấm gì nhiều mà vẫn được thuyền trưởng nể mặt. Và vì thế, hắn quý nghề như vàng. Không muốn ai học lỏm rồi cướp mất chén cơm. Trương Hằng không phải người đầu tiên tìm tới học việc. Nhưng giống bao kẻ khác, hắn cũng bị Roscoe lạnh lùng từ chối.
Ngay cả khi cậu đề nghị trả… năm trăm đồng bạc, chia làm một năm để trả dần, Roscoe cũng chỉ gật đầu với điều kiện: đợi đến khi hắn nghỉ hưu.
Vấn đề là… nhìn bộ dạng Roscoe thì có vẻ lão còn sống lâu hơn Trương Hằng ở cái bản đồ này. Lão khỏe hơn cả đám trai trẻ, ăn khỏe, nhậu khoẻ, rau thịt không kiêng. Nếu không có gì bất trắc, lão sẽ còn tiếp tục làm việc đến tận khi Trương Hằng rời khỏi nơi đây.
Vậy nên, sau chuyến cập cảng lần thứ ba, Trương Hằng lại tìm đến quán rượu nơi gã hải tặc già Fraser hay lui tới.
“Kỹ thuật đánh cận chiến của cậu đến đâu rồi? Có giúp tôi đi đòi nợ được chưa?” Fraser vừa nói vừa nhón lạc bỏ vào miệng.
“Chưa.” Trương Hằng thú nhận. Hơn hai tháng lênh đênh trên biển, kỹ năng dao của cậu vẫn lẹt đẹt lv0. Như Owen nói: học dao là cuộc chiến đường dài. Phải tập đi tập lại cho tới khi động tác trở thành bản năng thì mới mong có kết quả. Tuy còn lâu mới đến đó, nhưng ít nhất Owen đã bắt đầu cho cậu tập đánh thật.
Tin vui là sau thời gian dài tẩm bổ, cơ thể Trương Hằng đã hồi phục, sức khỏe thậm chí còn hơn lúc mới vào phó bản. Không thể so với mấy gã khổng lồ trời sinh, nhưng trong nhóm người bình thường thì không tệ.
“Thế cậu tới tìm tôi làm gì?” Fraser hờ hững hỏi.
“Hải Sư từng là của ông. Roscoe là một trong những người già nhất trên tàu. Chắc ông biết hắn rõ chứ?”
“Ồ, con cáo già đó à. Hắn chẳng có nguyên tắc gì đâu, nhưng về điều buồm thì đúng là khó ai sánh kịp. Ở Nassau, tìm được một tay giỏi hơn hắn gần như là chuyện mơ tưởng.” Fraser cười cười, giọng đượm hoài niệm. “Còn nhớ có lần bọn tôi bị đám thợ săn hải tặc dí sát đuôi, tàu lại chạy chậm hơn, chẳng còn cách nào khác ngoài liều mạng lao vào vùng bão. Đám khác thì đi đời cả tàu lẫn người rồi, nhưng tôi và Roscoe phối hợp đến mức giữ được cả buồm chính, sau đó còn quay về Nassau an toàn. Trong đời tôi không mấy người khiến tôi phục, nhưng Roscoe thì miễn cưỡng cũng tính là một.”
Gã hải tặc già nâng cốc bia.
Trương Hằng không vòng vo: “Tôi muốn biết phải làm gì để hắn chịu dạy tôi kỹ năng của hắn.”
Fraser nheo mắt, vẻ thú vị: “Cậu muốn học điều buồm? Vì lý do gì?”
“Người trẻ học thêm cái gì cũng chẳng thừa.”
Fraser nhếch mép cười: “Thế cậu định thuyết phục tôi bằng cái lý do vớ vẩn đó à?” Gã đặt dao nĩa xuống, nhìn Trương Hằng vài giây, rồi nói tiếp: “Nhưng hôm nay cậu may đấy. Tôi vừa gặp một rắc rối. Nếu cậu giúp tôi giải quyết, tôi sẽ chỉ cho cậu cách khiến Roscoe ngoan ngoãn dạy nghề.”
“Rắc rối gì?”
“Trong thành có thằng khốn tên Jacob. Sáng nay nó mới trộm một túi ngọc trai đen của tôi. Nếu cậu tìm ra nó trong vòng nửa ngày và lấy lại số ngọc ấy, tôi sẽ giữ lời.”
“Nghe cũng sòng phẳng.” Trương Hằng đứng dậy.
“À, suýt quên… Tôi còn thuê thêm một đứa nữa đi tìm rồi. Nó xuất phát trước cậu một tiếng. Giờ thì chúc may mắn.”
…
Trương Hằng vừa rời khỏi quán rượu chưa được bao xa thì thấy một đám trẻ con đang nô đùa ven đường. Một gã giống người bán rong đi ngang qua, mấy đứa nhỏ bèn vờ đánh nhau cãi vã, thu hút sự chú ý của gã. Trong khi đó, đứa nhỏ nhất lẻn tay vào túi gã bán hàng, rút được đồ rồi cả bọn lập tức tản ra như chưa có gì xảy ra.
Đây chính là Nassau nơi trộm cắp là chuyện cơm bữa. Từ khi thuê căn nhà nhỏ kia, Trương Hằng chưa bao giờ để đồ quý trong đó. Mỗi lần ra khơi trở về, luôn có vài kẻ vác mặt đến chiếm chỗ, và gần như lần nào cậu cũng phải cho ăn đòn rồi tống cổ ra đường.
Vậy nên, giữa một nơi đầy rẫy trộm cắp và lừa lọc như thế này, việc truy ra kẻ trộm ngọc với chỉ cái tên “Jacob” làm đầu mối... không khác gì mò kim đáy biển.