(Chết tiệt, đúng là một ngày quái đản…!)
Một khu rừng rậm rạp nằm về phía đông vương quốc Revelwein nơi mà người dân bản xứ gọi là “Khu rừng Requiescats” với một vẻ mặt nghiêm trọng chẳng khác gì đang kể chuyện ma ban đêm.
Cảnh vật nơi đây bị bao phủ trong màn sương dày đặc, trắng xóa như thể ai đó vừa kéo rèm che hết tầm nhìn, và ở chính giữa cái khung cảnh mờ mịt đó tôi, Otto Hauptmann, đang chạy bán sống bán chết.
Zee… ha… gofoo…!
Tôi chưa bao giờ giỏi thể thao, thể lực thì tệ khỏi nói. Đó cũng là lý do tôi chọn nghề pháp sư lỗi thời thay vì làm hiệp sĩ hay hầu cận oai phong gì đó. Nhưng không ngờ, đời lại đẩy tôi vào cảnh ngày nào cũng phải chạy thục mạng như bị đòi nợ!
Tóc nâu rối bù lòa xòa khỏi vành mũ, tay cầm cây trượng run run, tôi vừa chạy vừa than thân trách phận. Cặp kính tròn trượt xuống gần chóp mũi, va lạch cạch vào sợi dây giữ kính và dĩ nhiên là tôi chẳng có thời gian chỉnh lại.
“Con nhỏ đó chạy đi đâu rồi!?” “Không thấy nó ở đây!” “Lũ đần, đuổi theo mau!”
“Ơ, cành cây gãy kìa! Hướng này, nhanh!”
(Uooo… chúng đang tới…!)
Tôi nép người sau thân cây cổ thụ to như hai người ôm, cố kìm tiếng thở hổn hển của mình.
Hôm qua, hôm kia, hôm kỉa… thậm chí năm ngày trước cũng vậy. Tôi liên tục bị lũ sơn tặc tấn công. Ngày nào cũng là "phiên bản đặc biệt" của trò chơi Chạy Trốn Trong Sươn.
Lẽ ra tôi nên nghe lời bác chèo đò già giọng nói còn đặc sệt hơn cháo đặc:
“Cô bé à… Dạo này an ninh Revelwein sụp đổ rồi. Nghe lời ông, đừng có qua đó…”
Mà tất nhiên, lúc đó tôi khinh thường. Và giờ thì… biết hối cũng muộn rồi.
(Mình không thể chết mòn ở cái nơi khỉ ho cò gáy này được.)
Tôi chỉnh lại kính, hít một hơi thật sâu như một con người đã bị dồn đến đường cùng.
Lee Lubra Entul Lane…
Tôi lẩm nhẩm câu chú bằng một giọng nhẹ như gió thoảng, và đầu cây trượng sáng bừng lên.
Một quả cầu phép xuất hiện trên chóp gậy, ánh sáng trong đó phản chiếu đôi mắt tôi như tấm gương ma thuật.
Tàng hình.
Ngay khoảnh khắc ấy, cơ thể tôi mờ dần, rồi tan vào không khí như một làn khói mỏng.
Đây là loại phép ẩn thân mà tôi đã luyện đi luyện lại trong vô số lần trốn chạy khỏi sơn tặc một thứ phép thuật tôi không hề yêu thích, vì nó rất hao mana. Nhưng lúc này, ai mà còn dám kén cá chọn canh?
“Con nhỏ đó trốn đâu rồi? Cái con chó cái…”
Tôi chửi thầm. Không, không phải tôi nói là bọn kia, cái đám đầu trộm đuôi cướp đang tiến gần đến cái cây mà tôi đang ẩn thân, vừa lầm bầm mấy câu thô tục vừa cầm theo nào là rìu, nào là dao to bản, nhìn qua đã thấy mùi tử thần.
Mấy cái lưỡi dao ấy đều dính một lớp nhầy nhụa đỏ đen, chẳng rõ là máu của thú rừng hay người. Nhưng khi tôi nhớ đến cái xác trắng bệch với cái đầu bị đập vỡ toang mà mình thấy lúc sáng… à, thôi, khỏi phân tích cũng biết. Da gà nổi rần rần.
“Tao ngửi thấy mùi đàn bà...”
Xin lỗi ông chú. Không phải mùi nước hoa mà là mùi sợ hãi pha lẫn mồ hôi với ba ngày không tắm đây.
Một cái mũi khoằm lông lá bất ngờ thò ra sát mặt tôi. Thề luôn, chưa bao giờ tôi thấy cái gì giống củ cà rốt lên men hơn thế. Còn cái miệng thì? Hàm răng vàng khè với lợi hở ra như vỏ chuối thối. Nhìn mà muốn khóc.
(Ugh… mẹ ơi, cho con một lần nữa được làm người tử tế…)
Tôi gồng mình nín thở như thiền sư. Không thể để bọn này nghe thấy dù chỉ một tiếng khụt khịt mũi dù cái lỗ mũi của tôi giờ đang muốn phản chủ một cách tuyệt vọng.
Chúng lảng vảng một lúc, rồi “Đệch, không thấy!”, gã to xác nhất gào lên và đá thẳng vào thằng bên cạnh.
Gyaaa!
Tiếng hét vang cả khu rừng. Chắc đau lắm, nhưng mà thành thật mà nói: cảm ơn vì đã ăn đòn hộ tôi.
“Đồ khốn, lũ ăn hại!”
Vài câu chửi thề nữa, rồi cả bọn bỏ đi, kéo theo bầu không khí nặng mùi khủng bố biến mất dần vào sâu trong rừng.
(Đi rồi… thật rồi chứ…?)
Tôi nín thở thêm một lúc. Đợi cho đến khi không còn nghe thấy tiếng gậy gộc va vào cành lá, lúc ấy mới dám thở mạnh một cái.
Aaa... mooo…
Hehehe… Và thế là tôi… ngã đùng ra đất. Tan chảy như một chiếc bánh mochi bị bỏ quên giữa hè nắng 38 độ.
○
Dù sao thì, việc núp sau gốc cây cũng không phải là chiến lược tệ.
(Mình cần nước… NƯỚC!!!)
Tôi lắc lắc cái bình nước rỗng không, thứ mà tôi đã kiểm tra tới kiểm tra lui không dưới mười lần như thể hy vọng một phép màu sẽ biến hơi ẩm thành dòng suối. Nhưng không. Vẫn khô như tình đầu.
Tôi tiếp tục lê bước trong khu rừng chết tiệt này một cách tuyệt vọng, vừa lắc nhẹ chiếc mặt dây chuyền trong đó có chiếc “la bàn phép thuật” yếu xìu mà tôi mua giảm giá ở chợ đêm. Loại đồ chơi rẻ tiền mà quay hướng nào cũng chỉ về phía “không may mắn”.
“Todo wala, ur wala sol… todo, wala, ur wala sol…”
Tôi lẩm nhẩm câu chú dò tìm nguồn nước. Viên đá quý hình kim cương gắn trên đầu cây trượng khẽ rung lên, ánh lên một đường mờ nhạt chỉ phương hướng.
Suối, hồ, hay chỉ cần một cái vũng nước cỏ dại cũng được… Miễn là có thể uống…
Tôi gần như sắp khóc vì sung sướng chỉ mới nghĩ đến chuyện được uống một ngụm nước tử tế. Thề với trời đất, tôi không muốn một lần nào nữa phải dùng phép rút nước từ rễ cây rừng thứ chất lỏng đắng nghét, hăng như thuốc cảm hết hạn, và để lại hậu vị cay cay làm cổ họng tôi muốn gãi bằng xương rồng.
Vừa khập khiễng bước đi bằng đôi chân mỏi nhừ, tôi vừa nhìn chăm chăm về hướng ánh sáng mờ mờ đang dần hiện ra giữa màn sương. Mấy cái cây bắt đầu thưa dần, và rồi…
(Aah…)
Ánh sáng lung linh phản chiếu từ mặt nước khiến tim tôi đập loạn nhịp như sắp nghe nhạc intro của thần tượng. Một hồ nước thật sự. Không phải ảo ảnh sa mạc, không phải một cái hố bùn ẩm, mà là hồ nước, loại có thể soi gương ngắm bản thân đang kiệt sức mà vẫn còn đẹp.
Lạy trời đất quỷ thần ơn trên, con không mù đường rồi!
Tôi rảo bước tới, suýt nữa đã hét lên “ta tới đây, nước ơi!” như nữ chính câu chuyện lãng mạn, thì
“Á...!”
Tôi khựng lại.
Có người. Một bóng dáng trắng nhạt đang đứng trong hồ. Tôi nuốt nước bọt à không, tôi không có nước để nuốt. Chỉ còn cái cổ họng khô rang run lên vì ngạc nhiên (và một phần... ngượng chết đi được).
Nàng ta hay đúng hơn, “cô ấy” đang tắm.
Mái tóc dài ánh bạc nhỏ nước từng giọt như pha lê tan ra dưới nắng. Tấm lưng trắng lấp lánh, làn da mịn màng ngập đến tận eo trong làn nước trong vắt. Dáng người thanh mảnh mà uyển chuyển, vòng eo thon tròn mềm mại, còn đôi gò bồng đảo thì xin lỗi, não tôi tự động tả chi tiết rồi.
Nhìn cảnh tượng ấy, tôi chỉ có thể nghĩ được một từ: “Nữ thần.”
Không, tôi không mê gái. Nhưng nếu cái đẹp có thể giết người thì tôi đã chết ngay tại chỗ, được liệm bằng tấm khăn tàng hình.
Và khi cô ấy từ từ xoay người lại…
“Hiii!!”
Tôi lập tức cúi rạp người xuống như ninja bị bắt quả tang. Hai tay ôm đầu. Tự tát mình vài cái.
Không được nhìn! Không được nhìn! Vô lễ! Thiếu đạo đức! Biến thái!
Tôi lặp lại bài sám hối trong đầu như một nhà sư vừa lỡ mở web lạ giữa chốn thiền môn.
(Mình đang làm cái quái gì vậy...?)
Đây là rừng sâu. Là nơi đầy rẫy bọn cướp và thú dữ. Một người bình thường sẽ chẳng bao giờ cởi đồ tắm giữa hồ như thể đang chụp ảnh tạp chí. Mà cô ấy không bình thường… có thể là tiên nữ, phù thủy, hay là… cái gì đó nguy hiểm hơn.
Tôi nín thở. Mồ hôi nhỏ giọt xuống đất. Và trong đầu chỉ có một suy nghĩ:
(Eerr... kiểu gì mình cũng dính chuyện rồi…)
Tôi ngó quanh. Bên bờ đối diện nơi người phụ nữ đang đứng, hoàn toàn không thấy hành lý, túi xách hay quần áo nào bị vắt lung tung. Không giống một lữ khách như tôi hay bất kỳ ai có não đang lang thang qua khu rừng này. Cô ấy... giống như xuất hiện từ hư không vậy.
Một cô gái trẻ tắm giữa chốn hoang vu không một mảnh vải, không có bạn đồng hành, không vũ khí, không phép bảo vệ… xin hỏi chị nghĩ mình là người hướng dẫn à?
“ Có mùi phụ nữ~”
Và bùm. Không khí yên tĩnh của hồ bị xé toạc như bức tranh thánh bị hắt cà phê đen đặc.
“Có một con đàn bà đang khỏa thân kìa~!”
“Hehehe!”
Mấy giọng nói the thé xen lẫn ồm ồm vang lên như mấy ông chú mê mẩn hộp mỳ ăn liền có ảnh idol in nắp. Sáu tên sơn tặc vâng, lại là chúng nó hiện ra từ mảng rừng phía đối diện. Tên nào tên nấy vác dao như cosplay dở dang từ hội chợ trung cổ, mắt thì sáng rực như thấy hũ vàng.
(Bọn khốn kiếp rừng rậm... tại sao tụi bay sống dai như đỉa thế!)
Bọn chúng tản ra, vây lấy bờ hồ, cắt đứt mọi đường lui của cô gái. Một tên với cái mũi móc câu lè lưỡi liếm lưỡi rìu như thể đó là... socola nhân mơ. Tên lùn bên cạnh thì vừa nhảy vừa nói đứt quãng:
“ Hee ~ Cho anh bú miếng đi vợ ơi ~”
…
Tôi thề với trời, nếu tôi sống sót qua hôm nay, tôi sẽ dùng trọn phần đời còn lại để phát minh ra phép “thiến hàng loạt từ xa.”
Cô gái kia không nói lời nào. Chỉ lặng lẽ đứng đó, nước hồ lấp lánh quanh eo. Tóc rủ xuống, che gần hết mặt, không lộ chút biểu cảm.
Cô ấy… sợ đến mức không thốt nên lời à? Hay là…
(Mình phải làm gì đó… Mình phải giúp cô ấy…!)
Tôi nghĩ vậy. Và tay tôi thì run bần bật như lá cây mùa đông.
Tôi sợ.
Phải rồi, tôi sợ chứ. Tôi có phải anh hùng đâu. Tôi là một học trò phù thủy với kính sắp rơi, quần thì rách, và thể lực yếu hơn cả con sóc bị cảm lạnh.
(Mình có thể dùng phép "Resplandor" – phép lóe sáng – để làm chúng loá mắt... nhưng sau đó thì sao? Mình chạy được không? Mình còn lại bao nhiêu ma lực nhỉ...? Một phần ba cốc trà? Một thìa cà phê?)
Ngày xưa, người ta từng tin rằng sức mạnh ma pháp là một thứ gì đó thần bí, tách biệt với thân thể con người. Như lửa trời hay hơi thở của thần linh – ai có thì dùng, không thì thôi. Nhưng rồi, qua năm tháng, các nghiên cứu chuyên sâu chỉ ra một sự thật phũ phàng:
Ma lực nói ngắn gọn là sinh lực. Là sức sống. Là chính cái “pin cơ thể” của chúng ta.
Mà tôi hiện tại?
Pin yếu. Đèn đỏ. Không sạc dự phòng.
Nói cách khác, mỗi khi sử dụng phép thuật, sức mạnh thể chất của bạn sẽ tụt xuống.
Đặc biệt, nếu bạn vận phép trong tình trạng đã cạn sạch ma lực như tôi lúc này thì cảm giác sẽ giống như cố tập tạ khi bụng đói meo vậy. Mất sức ngay tức thì.
Không thể chạy hết tốc lực sau khi dùng phép. Và, trên hết, bọn kia nhanh hơn tôi, khỏe hơn tôi. Cho dù có dốc hết não để tính toán, tôi cũng không thoát nổi sáu tên ấy.
(Thầy ơi…)
Ký ức về nụ cười dịu dàng mà cũng rất đáng sợ của người thầy quá cố hiện lên trong đầu, khiến tôi suýt khóc.
Học trò ưu tú của Curios Le Moon mà lại than khóc ở đây à? Không được, tuyệt đối không…
...Nhưng mà! Nhưng mà, thầy ơi! Đây không phải kỳ thi! Đây là đánh trùm thật đó!
Trong lúc tôi còn đang rối như gà mắc tóc thì mọi chuyện bỗng chuyển động.
(Gì vậy!?)
Người phụ nữ nơi hồ bước đi. Trần truồng. Hướng thẳng về phía đám đàn ông kia.
Từng bước chân trắng muốt giẫm lên bờ đất. Tôi... tôi không muốn nghĩ điều tầm phào, nhưng có thể thấy rõ mông trắng săn chắc của chị từ chỗ này, vậy đám đàn ông kia chắc chắn thấy được... mấy chỗ còn dữ dằn hơn.
“ Uooooooohhh!”
“Húúúúúúúúúúúúúúúúúúúú!”
Bọn chúng như phát rồ. Một tên đã bắt đầu tụt quần (tôi ước gì tôi đang nói đùa).
Tôi có cảm giác... điều tồi tệ nhất sắp xảy ra.
Nhưng người phụ nữ ấy vẫn bước đi. Im lặng. Dửng dưng như không ai tồn tại.
Đến gần một thân cây bên hồ, cô ta dừng lại... rồi bình thản quay mặt về phía bọn chúng.
Và vén tóc mái lên.
(...A.)
Từ khoảng cách này, tôi vẫn có thể nhận ra “thứ đó” phủ lên gương mặt cô.
Một miếng vải đen.
Một mảnh băng đen, không thể gọi khác đi được, che kín hai mắt cô gái.
Cô ấy đã mất ánh sáng.
(Còn trẻ quá…)
Nhìn kỹ hơn, tôi thấy rõ hơn diện mạo của cô.
Dù vẻ ngoài mang khí chất trưởng thành cô ấy chỉ tầm mười sáu, mười bảy tuổi.
Cũng bằng tuổi tôi thôi.
Ngoài thân hình cao hơn một chút, và đường nét cơ thể nở nang bất hợp lý (xin lỗi tôi không thể không chú ý), cô ấy cũng chỉ là... một “cô gái” như tôi.
Chỉ khác là... có một cái băng đen như dị vật, phủ kín cả hai mắt.
Cô… cô bị mù…?
Có vẻ như đám cướp cũng nhận ra điều đó.
Chúng khựng lại trong chốc lát, liếc nhìn nhau, như thể... đã ngừng chú ý đến cơ thể trần trụi trước mặt.
Một khoảnh khắc yên lặng kỳ lạ phủ lên bờ hồ.
Và rồi “BỐP”.
Người phụ nữ xoay người, giáng mạnh tay vào thân cây sau lưng.
Bọn đàn ông giật nảy mình, lập tức quay về phía cô với vẻ cảnh giác.
Ngay lúc đó một vật thể dài, giống như cây gậy, rơi từ trên cành cây xuống.
Và như thể đôi mắt mù kia có thể thấy, người phụ nữ đưa tay lên cao vững vàng chụp lấy cây gậy trong không trung.
…Cái quái gì vừa xảy ra vậy?
(Khoan đã. Cô ấy... mù đúng không? Đừng nói là... cảm nhận được vị trí vật rơi chỉ bằng tai!? Chị à, chị là nhân vật phụ hay trùm cuối vậy?)
Cây gậy ấy không, nhìn kỹ thì…
Một cây trượng.
Dài, thẳng, chế tác tinh xảo. Phần đầu trượng gắn một viên ngọc đen ánh tím, tựa như con mắt của sinh vật nào đó trong cơn mê ngủ.
Thứ ánh lên thứ ánh sáng kỳ dị khiến cổ họng tôi khô khốc vì không biết đó là cảm xúc sợ hãi... hay phấn khích.
Người phụ nữ đưa tay còn lại vuốt nhẹ dọc theo thân trượng.
“...Hasta aquí.”
Giọng nói lạnh lùng cất lên.
Và khoảnh khắc đó, không khí trên bờ hồ như bị một lực vô hình bóp nghẹt.
(Một… thanh kiếm?!)
Một thanh trường kiếm dài gần bằng chiều cao của cô gái ấy. Cô nắm lấy chuôi kiếm, hạ thấp trọng tâm vào tư thế chiến đấu.
“Con nhỏ đó có kiếm!”
Một tên hét lên, và cả lũ đồng bọn đều quay phắt về phía cô gái với ánh mắt cảnh giác tột độ.
(Đúng rồi... mình phải giúp cô ấy!)
Tôi vừa nhấc chân, toan bước ra khỏi bụi rậm thì chuyện đó xảy ra.
Cánh tay cô ấy mờ đi trong khoảnh khắc rồi một đường sáng xé ngang không khí.
Mọi chuyện diễn ra quá nhanh đến mức tôi chưa kịp chớp mắt thì…
Tất cả bọn chúng đã ngã gục.
Sáu tên. Không sót tên nào. Như thể bị trúng sét cùng lúc.
(Cái... gì vừa mới xảy ra vậy?)
Thanh kiếm dài trong tay cô gái đã được tra lại vào vỏ.
Tôi không hề thấy cô ấy rút kiếm. Không một tia sáng, không một tiếng gió.
Chỉ là trước khi kịp nhận ra, kết quả đã nằm đó.
Bọn cướp rên rỉ khe khẽ, có vẻ không chết, nhưng... cũng chẳng tên nào dám động đậy.
(Không thể nào... Đây là... kỹ năng kiếm thuật? Không cái này là...)
Ở trong lòng tôi, chiếc la bàn ma thuật cái tôi luôn đeo như bùa hộ mệnh đột nhiên nghiêng hẳn về phía cô ấy, kim chỉ rung mạnh. Còn chiếc nhẫn phép trên tay vốn chỉ phát ánh sáng nhàn nhạt lần đầu tiên phát sáng rực rỡ như cầu vồng.
Đây không chỉ là sức mạnh thể chất.
Cô ta có ma lực. Mạnh đến mức khiến khí cụ phép thuật cũng phải nổi giận vì ghen tị.
(Chẳng lẽ là... một thiên tài kiếm thuật dùng được ma thuật?) Phe kiếm sĩ thuần túy đã mạnh rồi. Nhưng người vừa là kiếm sĩ lại vừa sở hữu ma lực mạnh đến mức la bàn cũng rối là thứ cực kỳ hiếm.
Tôi đã đi qua bao vương quốc, nhìn thấy không ít kẻ mạnh:
“Có người có thể vung kiếm bổ đôi tảng đá to như con bò.”
“Có người đấm vỡ gốc cây to hơn vòng tay người ôm.”
“Có kẻ nhảy từ mặt đất lên mái nhà như đạp gió mà bay…”
…nhưng, chưa từng thấy ai như cô ấy.
Chưa từng thấy ai như “cô gái mù mắt bước ra từ hồ, khỏa thân, với cây kiếm dài hơn chiều cao của chính mình, và quật ngã sáu tên đàn ông trong một nhịp thở”.
"Sự tinh thông trong võ thuật cũng chính là ma pháp."
Đó là câu thầy tôi thường nói.
Nói cách khác, các hiệp sĩ, võ sĩ, hay chiến binh dùng "thể xác" để điều khiển sinh lực cũng chính là năng lượng ma thuật. Còn pháp sư như tôi thì điều khiển nó bằng "tinh thần".
Về cơ bản thì cả hai đều dùng chung một nguồn năng lượng sống, chỉ khác nhau về cách sử dụng.
(Lâu lắm rồi mình mới gặp một người dùng được năng lượng đáng kinh ngạc như vậy… nhưng mà)
Thứ khiến tôi để tâm vẫn là… miếng băng che mắt đó.
Dù cô ấy có là thiên tài đi chăng nữa, việc múa kiếm tự tin đến mức nhắm mắt cũng biết đâm ai như vậy thì vẫn quá lạ. Chẳng phải không thấy gì sao? Cơ chế hoạt động là gì vậy?
Chiếc dây chuyền trên ngực cô ấy vẫn còn đang phát sáng. (C-Có khi nào là…? Một loại phép thuật chưa được biết đến!)
Gần đây tôi toàn gặp vận xui hết bọn cướp này đến bọn cướp khác nhưng cuối cùng! Cuối cùng tôi cũng chạm tới được một manh mối, một kho báu, một phát hiện lớn trước cả khi vào thành phố lâu đài!
(Hên chưa kìa!!)
"Con có cái tật thấy phép lạ là nhào vô ngay…"
Lời thầy ngày xưa thoáng hiện trong đầu tôi, nhưng mà thôi kệ, giờ tôi đang quá hăng.
“Nè! Cô kia!”
Tôi hớn hở bước ra khỏi bụi cỏ, gọi với theo cô gái.
“Kỹ thuật đó ngầu thật á! Cô đã làm kiểu gì vậy hả?!”
Tôi chạy vòng qua mé hồ, phấn khích như đứa trẻ thấy pháo hoa.
Cô gái xoay mặt về phía tôi dù đôi mắt bị che bởi băng đen và... rút kiếm.
“A-Aaa khoan đã! Từ từ! Tôi không phải kẻ xấu!”
Tôi vội vàng vẫy tay lia lịa. Cô ấy không nói gì… nhưng dáng đứng kia, ánh khí lạnh lẽo kia, rõ ràng là tư thế sẵn sàng vung kiếm chém tới.
“T-Tôi là Otto Hauptmann! Một pháp sư… đang đi du hành… thật đó!”
…
Cô gái vẫn chưa hạ kiếm.
Ánh mắt hay đúng hơn là hướng mặtvẫn hướng thẳng về phía tôi.
Mà khoan… cô ấy có nhìn thấy tôi thật không?
Miếng băng che mắt đó trông dày lắm, chẳng có vẻ gì là ánh sáng có thể xuyên qua được.
"Ờm… dù sao đi nữa, cô có thể hạ kiếm xuống được không? Tôi đâu có vũ khí gì đâu mà."
…
Có vẻ như nghe thấy lời tôi, cô ấy từ từ… rất từ từ, hạ tư thế chiến đấu.
"Cảm ơn nha."
…
Không nói một lời, cô gái quay lưng về phía tôi.
Và thế là tôi lại một lần nữa bị nhận thức về sự thật rằngcô ấy vẫn còn trần như nhộng.
Tôi thấy mình hơi xấu hổ… Bảo sao người ta không cảnh giác, mình thì đột nhiên từ bụi cây xông ra, nói chuyện dồn dập, mà đối phương thì không mặc gì cả.
Mình thì gọi là "không có vũ khí", còn người ta thì là "không có cả đồ mặc".
Cô gái bịt mắt lại gõ nhẹ lên cái cây lúc nãy.
Và lần này, hành lý rơi cái bịch xuống chân cô ấy.
Hóa ra cô ấy đã giấu vũ khí và quần áo ở đó để tránh bị trộm.
"À phải rồi, về cái 'kỹ thuật' tôi hỏi lúc nãy á…"
Tôi cố quay lại chủ đề chính, đầy hứng khởi.
"Cái đó… rốt cuộc hoạt động như thế nào vậy?"
…
Cô ấy vẫn không nói gì. Chỉ im lặng mặc đồ lót, rồi đồ ngoài, rồi cả bộ giáp nhẹ.
Bộ giáp nhìn tưởng mỏng manh, nhưng lại có huy hiệu của Vương quốc Revelwein được khắc nổi rõ ràng.
…Rốt cuộc người này là ai vậy?
"À, tôi á, đang đi khắp nơi để tìm cái này nè."
Tôi giơ tay, đọc thần chú:
"Suelta."
Một quyển sách phép liền hiện ra trước mắt cô gái.
Nó lơ lửng trong không trung, phát ra ánh sáng yếu nhưng rõ ràng có chứa sức mạnh ma thuật.
"Cái này gọi là 'Đại Thư Ma Pháp', là do sư phụ tôi tạo ra. Tôi đang thu thập những loại phép hiếm trên khắp thế giới, đặc biệt là những phép bị cấm, nhưng…"
Tôi lật lật các trang, chạm vào trang cuối.
"Trang cuối cùng này… vẫn còn trống. Tôi chưa thể tìm ra loại ma pháp từng được phong ấn trong đó."
"Tôi đến Revelwein vì đây là đất nước mà thầy tôi từng làm pháp sư hoàng gia. Tôi nghĩ ở đây hẳn sẽ có đầu mối gì đó. Nhưng mà nơi này bị bao quanh bởi biển, và lại ở tận tây xa xôi nữa, nên tôi đã chần chừ mãi mới đến được…"
"À khoan đã!!"
Tôi ngẩng đầu lênvà nhận ra cô gái bịt mắt đã quay gót, rảo bước thẳng vào rừng và biến mất.
"Khoan đã! Chờ chút đã!!"
Tôi vội chạy theo, nhưng đã quá muộn.
Khi tôi vượt qua rặng cây, cô ấy đã biến mất không dấu vết.
(H-Hể…?)
Tôi tự hỏi mình có lỡ nói gì xúc phạm không.
Hay là… mình nói hơi nhiều quá trong lần đầu gặp mặt?
Với một chút tiếc nuối, tôi đảo mắt tìm quanh… nhưng bóng dáng cô ấy đã không còn.
"Ê, tránh ra coi…!"
"Waa!!"
Một chiếc xe ngựa bất ngờ băng qua đường ngay trước mặt tôi, làm tôi giật mình nhảy lùi lại.
"A…"
Tôi ngẩng lên, thấy một mái nhà hình vuông ẩn hiện sau màn sương mỏng.
Dãy xe ngựa xếp hàng dọc theo cổng biên giới, nơi đặt trạm kiểm soát.
Một ông lão trông như thương nhân hành nghề đang thổi tẩu thuốc, phả ra từng làn khói chậm rãi.
"Revelwein..."
Đó chính là đích đến của tôi.
May là tôi vẫn dùng được giấy thông hành cũ.
Tấm giấy này vốn nằm trong nhà sư phụ suốt mười năm nay, rách tả tơi chẳng khác gì giẻ lau, nên tôi cũng không trông mong gì nhiều…
Ấy vậy mà tên lính gác cổng vừa nhìn thấy nó đã giật mình như bị điện giật, vội vàng đứng thẳng người rồi cúi đầu xin lỗi mà lui lại.
Sư phụ tôi từng làm việc trong hoàng cung Revelwein, nên cũng dễ hiểu.
Chỉ là tôi mừng vì không phải trải qua cảnh lén lút trèo rào hay chui ống cống gì cả.
Ý tôi làtôi đang đói gần chết rồi!
Dù vẫn còn nhiều thắc mắc về cô gái bịt mắt kia, cái bụng tôi thì chẳng buông tha.
Mặt trời đã khuất bóng, thành phố bắt đầu lên đèn.
Tôi rút vài đồng vàng “mượn tạm” được từ túi mấy tên sơn tặc(chúng ngất rồi mà, sao lại để tiền không dùng chứ), và cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
Thế là tôi quyết định tạm trú lại một quán trọ trong thành phố.
Ngồi trên giường trọ, tôi cầm một thanh poublé – loại bánh khô thường dùng để bảo quản lâu ngày trong các chuyến đi – mà tôi vừa kỳ kèo mua được từ một lão lái buôn dọc đường.
Nhai nó với nước (rất nhiều nước), tôi cố nuốt trôi cái thứ cứng như đá ấy xuống họng.
Khi bụng bắt đầu đầy, cơn buồn ngủ kéo đến.
Tôi ngáp dài một cái "Fuuuuaaa..." rồi leo lên giường, cuộn người lại và ngủ say như chết.
Và khi tôi tỉnh dậy, trời đã sáng.
Sáng hôm sau.
Tôi mượn chút nước từ nhà bếp của quán trọ để rửa sơ tóc và lau người.
Cảm giác như mình vừa được hồi sinh từ cõi chết.
Và giờ thì tôi đã hoàn toàn sẵn sàng
...Tôi cũng muốn thư thả nghỉ ngơi sau chuyến đi dài, nhưng lại không dám buông lời than vãn.
Dù gì thì tôi cũng đã băng biển vượt núi, từ bên kia đại lục đến tận xó xỉnh phương Tây này tất cả chỉ vì nhiệm vụ hoàn thành “Đại Ma Thư”.
"Uuuunn!"
Tôi bước ra khỏi quán trọ, vươn vai căng hết cỡ, hít một hơi căng lồng ngực đầy khí trời trong lành buổi sáng.
Tìm ra loại ma pháp bị thất truyền kia, và gặp lại cô gái bịt mắt thần bí kia nhất định là chuyện phải làm cho bằng được!
Nghĩ vậy, tôi phấn chấn lao ra đường, đầy khí thế...
...Chỉ tiếc là cái khí thế đó không kéo dài được bao lâu.
Càng đi sâu vào thành phố, tôi càng thấy... lạ lạ.
(Khoan đã... chỗ này sao trông... chán thế?)
Thầy tôi người đã khuất từng kể rất nhiều về Revelwein, nào là nơi đây phồn hoa náo nhiệt, thương nhân chen vai thích cánh, tiệm buôn mọc san sát, mấy cô tiếp tân đứng trên ban công quán trọ hét chào mời inh ỏi…
Nhưng hiện thực trước mắt thì... nó không như thế.
Phố xá không hẳn là vắng tanh, nhưng không khí lại âm u mệt mỏi.
Có xe chở hàng, có tiệm quán, nhưng không thấy hàng hóa lưu thông rôm rả như lời đồn.
Thậm chí còn khó phân biệt nổi người trải tấm khăn dưới đất kia là đang bán hàng rong, hay đơn giản là ngồi xin ăn?
(Không muốn động tay chân thì cũng chẳng còn cách nào. Không có tiền thì chỉ có nước gặm bánh khô sống qua ngày.)
Vậy nên, tôi chọn một đoạn đường tương đối đông người, chỉnh lại cổ áo, chỉnh tư thế, hít sâu một hơi…
"A a a, xin chào quý vị bà con cô bác! Tên tôi là Otto Hauptmann, học trò chân truyền của đại pháp sư Curios Le Moon lừng danh năm châu bốn bể~!"
Tôi dõng dạc xướng tên, vừa nói vừa lấy gậy phép gõ mạnh xuống nền đá, phát ra một tiếng cộp khá oách.
"Quý vị nào đang gặp vấn đề như bầm tím, bong gân, vai gáy nhức mỏi, đau lưng tê lạnh tay chân các kiểu~? Chúng tôi chuyên trị đủ loại! Giảm giá sốc chỉ với 300 artes, đúng rồi, ba trăm đồng tròn trĩnh! Bị xước tay, phỏng nước, đứt tay chảy máu? Chỉ cần ghé qua đây là xong ngay, hiệu quả kéo dài một tuần!"
"...và đảm bảo là sẽ khỏi tận gốc! Nếu không khỏi, tôi cam kết không lấy tiền! Được rồi, nào nào nào..."
Tôi hắng giọng, chỉnh lại nụ cười bán chuyên của mình.
Từ nhỏ tôi đã theo chân cha một thương nhân lang bạt chạy sô khắp bốn bể năm châu. Đến nay cũng đã từng băng qua bảy đại dương, chín lục địa, và nếu có ai hỏi, tôi có thể tự tin trả lời: biết cách chào hỏi và mặc cả ở gần như mọi ngôn ngữ!
Cái kiểu biểu diễn đường phố này, không phải ăn xin đâu nhé mà là bán kỹ năng, là truyền thống của gia đình tôi từ khi tôi mới ba tuổi!
À mà, phong cách hôm nay tôi dùng là học lóm từ các thương nhân thành Yaponica ở phương Đông, nơi nổi tiếng với vàng ròng và kiếm báu (nói vậy thôi chứ cũng chưa chắc lắm...).
Nhưng mà…
(...Sao... chẳng ai tới vậy trời?)
Tôi đã đứng đây hơn một tiếng đồng hồ, giơ tay giơ chân, rao hết công suất, mà không có nổi một khách.
Đám trẻ con thì lại khoái chí, tụ tập xem tôi làm trò, nhưng toàn xem chùa thôi. Còn người lớn thì cứ nhìn tôi như nhìn nấm độc. Không ai buồn ghé hỏi giá, không ai hỏi “chị ơi bán gì thế?”, cả cái kiểu “thôi mày đi đi” cũng không có.
(...Chuyện gì đang xảy ra với đất nước này vậy...?)
Tôi ngó quanh, thấy ai nấy đều tránh ánh mắt, lảng đi ngay khi vô tình nhìn tôi. Như thể tôi là thứ gì đó nguy hiểm không nên dây vào.
Không ai bắt chuyện, nên tôi cũng chẳng thể tung chiêu “kể chuyện thu hút rồi chốt sale" – chiêu tủ tôi tự tin vô cùng.
("Ê, cậu làm gì ở lãnh địa này vậy?" kiểu câu đó cũng không ai thèm nói luôn.)
Tôi thở dài, buột miệng chửi bằng tiếng địa phương quê cha:
"Đúng là cái thành phố chán muốn xỉu..."
Tôi thả người ngồi xuống tảng đá ven đường, vò đầu bứt tai.
(Lẽ nào... cái nghề pháp sư thời nay là hết thời thật rồi sao...?)
Đã từng có một thời, pháp sư là biểu tượng đỉnh cao của kỹ năng. Ba trăm năm trước, người ta gọi thời ấy là “Đại Kỷ Nguyên Ma Thuật”. Khi đó, mọi loại pháp thuật đều hưng thịnh từ công, thủ, ảo ảnh, trị thương, cho tới trừ tà…
Và rồi... một con người vĩ đại đã thay đổi tất cả Đại Nhân Glados, được tôn là “Cha đẻ của Ma Thuật”.
(À tiện thể, ngài cũng chính là người sáng lập ra dòng pháp thuật của thầy tôi, Curios Le Moon. Vâng, nhà tôi có truyền thống uy tín lắm.)
Từ thời điểm đó, ma thuật không còn là công cụ hỗ trợ nữa nó trở thành trụ cột trên chiến trường. Chỉ cần một pháp sư giỏi là có thể quét sạch cả trăm quân lính. Các chính quyền lớn nhỏ thi nhau mời chào pháp sư về phục vụ quốc gia, đãi ngộ như nguyên thủ quốc gia.
Thời ấy, chỉ cần có tài năng pháp thuật, là có thể đổi đời, leo lên đỉnh cao danh vọng chỉ trong một nốt nhạc.
Thời hoàng kim ấy kéo dài tận 260 năm... rồi sao đó, tự nhiên... tạch.
Nhưng rồi, khoảng bốn mươi năm trước, thế giới đã đổi thay.
Thời kỳ suy tàn nhanh chóng của ma thuật bắt đầu, nhường chỗ cho thời đại của kiếm thuật.
Và nguyên nhân chính là... một loại khoáng sản.
Khoáng vật kháng ma.
Ban đầu nó chỉ là phế liệu một thứ kim loại gỉ sét mềm oặt, nhìn thôi đã thấy nghèo, còn rẻ hơn cả sắt vụn. Nhưng mọi chuyện thay đổi khi người ta phát hiện ra: nếu trộn nó theo tỷ lệ bí truyền với sắt, đồng và vài thứ nữa, thì cái hợp kim đó... có thể vô hiệu hóa ma thuật.
Đúng vậy. Triệt tiêu hoàn toàn luôn.
Lúc đó, một vương quốc nhỏ bé đang bị các pháp sư làm khổ đã quyết định: "Thôi! Quất cái này lên áo giáp hết đi!".
Và thế là... trận chiến tiếp theo, mọi loại hỏa thuật, lôi thuật, băng tuyết đỉnh cao... bốc hơi như khói trước cái gọi là “giáp kháng ma”.
Từ đó, kiếm sĩ bắt đầu ngẩng cao đầu, còn pháp sư... thì lăn lóc như cá mắc cạn.
Dù vẫn còn vài pháp thuật như “ảo ảnh” hay “xuyên thấu” giữ được tí giá trị, nhưng cán cân quyền lực đã lật ngược hoàn toàn.
Pháp sư huyền thoại? Bị đánh sấp mặt. Pháp sư cung đình? Bị cho về vườn hàng loạt.
Bốn mươi năm sau, cái kỷ nguyên rực rỡ mang tên “Đại Thời Kỳ Ma Thuật” đã chìm vào quên lãng, nhường chỗ cho một mùa đông lạnh lẽo của nghề: “Thời đại lạnh gáy của pháp sư”.
Bây giờ, ma thuật chỉ còn tồn tại như kỹ thuật chữa bệnh, thứ mà... ai cũng biết là có lợi, nhưng chẳng ai muốn học.
Tôi là một trong số ít những đứa "đầu óc có vấn đề" vẫn cắm đầu vào học ma pháp hồi nhỏ. Mấy pháp chữa thương cao cấp ấy nói thật nhé, nó đỉnh hơn thuốc men y học rất nhiều. Nhưng mà…
Sách học thì đắt như cắt cổ.
Tập luyện thì khổ như địa ngục.
Thất bại thì chết hoặc tàn phế.
Đã thế còn rút sinh lực chính bản thân mỗi khi thi triển.
Thử hỏi thanh niên thời nay ai thèm chơi không?
Và bởi thế, chỉ còn mấy đứa rảnh rỗi, đam mê kỳ dị như tôi mới theo nghề.
Ngay cả sư phụ tôi, Curios Le Moon, ban đầu còn tưởng tôi đến... giỡn chơi, chứ không hề nghiêm túc.
(“Tương lai, chỉ có thiên tài mới sống nổi bằng nghề pháp sư.”)
Tôi vẫn nhớ như in câu nói đó... Trong cái gió lạnh thấu xương, giữa đám đông chẳng ai để mắt, lời dạy của thầy lại vang vọng trong đầu tôi.
Phải, tôi chính là đứa từng được ông ấy khen là “thiên tài” trong lĩnh vực trị thương.
Nhưng... nghề đã lỗi thời thì thiên tài cũng bó tay chấm com.
Mỗi lần trị bệnh cho người ta là mỗi lần tôi tự cắt bớt tuổi thọ của chính mình.
(...Không ngạc nhiên gì khi nghề này ế dài...)
Tôi khẽ lầm bầm, ngước mắt nhìn trời.
Thời đại này là của kiếm, không phải của phép thuật nữa rồi…
Tự nhiên, trong đầu tôi lại hiện ra hình ảnh cô gái đeo miếng bịt mắt đó.
Một kiếm sĩ với thân thủ lướt như ma. Cô ta giải quyết bọn sơn tặc trong nháy mắt, không thở mạnh lấy một lần.
Thanh kiếm vung lên còn nhanh hơn cả niệm chú đến mức tưởng là phép thuật.
Và điều ám ảnh tôi hơn hết... là cô ta vẫn còn bịt mắt.
Không bình thường chút nào. Cô gái đó... chắn chắn có gì đó bí ẩn.
(Tìm được cô ta, có khi cuộc đời mình đổi khác...)
Ừ thì, nghĩ vậy thôi. Chứ hôm nay còn chưa kiếm nổi một đồng tiền lẻ, muốn tìm người ta bằng niềm tin à?
Ngay lúc tôi đang buông thõng vai, toan ngồi sụp xuống than thân trách phận...
...GONG... GONG...
Âm thanh nặng nề vang lên từ xa. Tất cả người dân trên đường dừng bước, quay đầu lại. Cửa nhà bật mở, người trong nhà lũ lượt đổ ra.
Mọi người đều bước đi cùng hướng chắc chắn là hướng có tiếng chuông kia.
(Ơ... Cái gì đấy? Sự kiện à? Lễ hội...?)
Tôi cũng rón rén nhập hội theo. Nhưng có điều... tôi nhận ra ngay:
Mặt ai cũng tối thui như bị xiên trúng ruột.
Bạn có muốn mình viết tiếp đoạn theo phong cách này không? Còn nhiều diễn biến hay ho đang chờ phía trước đấy.
Sau một hồi đi bộ theo dòng người, tôi đến một quảng trường rộng lớn chắc là trung tâm thành phố. Tôi nghĩ vậy, vì nơi đây có một nhà thờ chính tòa khổng lồ trông như muốn xuyên thủng cả bầu trời.
Và xung quanh nhà thờ, một biển người đen đặc đã tụ tập. Có thể lên tới hàng ngàn, hoặc... hàng chục ngàn người.
Tiếng chuông từ tháp nhà thờ vang vọng ầm ầm trên đầu, như thể ép cả không gian phải cúi mình mà nghe. Quanh nhà thờ là những binh lính trang bị tận răng, mắt không ngừng lia quét mặt đất như đang săn chuột.
Này… chuyện gì sắp diễn ra vậy?
Tôi hỏi một bà lão đứng gần.
“Suỵt!”
Bà ấy lập tức đưa ngón tay lên môi ra hiệu im lặng, rồi liếc nhanh về phía mấy tên lính gần đó với ánh mắt hoảng hốt.
“Cô gái trẻ, cô là người qua đường à?”
“...Vâng, đúng vậy.”
“Thế thì đừng mở miệng bừa. Tốt nhất là câm lặng mà dự "Lễ Hội Của Thánh Nhân Từ Bi""
Hở? Lễ hội…?
Cuộc thanh tẩy.
Khoan đã, cái gì...?
Tôi chưa kịp hỏi lại thì bà lão đã kéo mũ trùm kín mặt rồi chuồn thẳng vào đám đông như chưa từng tồn tại.
(...Cái quái gì vậy?)
Cảm thấy có chút bất an, tôi cũng kéo mũ trùm lên che bớt gương mặt. “Cuộc thanh tẩy”… phải chăng tôi nghe nhầm? Nhưng từ ấy nghe sao nặng mùi xử trảm hơn là tiệc tùng.
Trong lúc tôi còn đang phân vân, thì đám đông đã ngày càng dày đặc, nét mặt ai nấy đều u ám như vừa chứng kiến cái chết của chính mình. Một luồng không khí nặng nề bao trùm quảng trường.
Tôi bắt đầu thấy lo. Là một người ngoài, liệu mình có nên ở đây không? Nhưng quay lại thì đã muộn. Không còn chỗ để mà lùi bị kẹt cứng trong biển người rồi.
Rồi, đúng lúc chuông dừng hẳn...
Mọi âm thanh xung quanh cũng im bặt.
Và cái khiến tôi dựng tóc gáy... là toàn bộ đám đông đột ngột quỳ xuống cùng một lúc.
Già, trẻ, lớn, bé không ai bảo ai, như thể tiếng chuông vừa rồi là tín hiệu. Tất cả đồng loạt cúi rạp như đang lạy thần linh.
(...Thờ phụng? Nhưng mà)
Tôi thấy lạ, nhưng đứng chơ vơ một mình thì lộ lắm, đành phải làm theo quỳ xuống như bao người khác, mắt len lén ngó lên về phía nhà thờ qua vai gã to xác phía trước.
Và cuối cùng, tôi cũng thấy.
Một bóng người xuất hiện ở nơi vừa phát ra tiếng chuông.
“Thị kiến tầm xa.”
Tôi thì thầm, niệm chú kích hoạt phép tăng tầm nhìn. Mắt kính của tôi lóe sáng, bao bọc bởi một lớp ánh sáng mờ mờ.
(...! Cái quái... gì đây!?)
Trên tháp chuông, có một nhóm người.
Năm tên lính mặc giáp đứng xếp hàng. Trước mặt chúng là một người lớn bị trói chặt, còn ngay bên cạnh là một đứa trẻ cũng bị trói, ngồi bệt xuống nền như món hàng bỏ đi.
Chắc chắn họ là tù nhân.
Và đứng sau đám lính đó, là một cô gái khoác trên mình chiếc váy lộng lẫy như công chúa.
Tóc cô ta dài óng ánh như vàng tan chảy, tỏa ra khí chất quý tộc đến lạ thường.
(...Cái gương mặt kia...)
Gương mặt của cô ta... không phải là thứ người bình thường có thể mang.
Cô ta nhìn thẳng về phía trước, lông mày cau lại, ánh mắt như dao găm.
Một sự pha trộn điên dại giữa thù hận, phẫn nộ, sát khí, cay độc…
Toàn bộ gương mặt đó là một bản giao hưởng của ác cảm.
Một người phải trải qua những gì mới có thể có ánh mắt như vậy?
Chiếc váy lộng lẫy kia... người hầu bên cạnh mặc trang phục có phù hiệu hoàng gia...
và hơn hết là chiếc vương miện nạm đá quý lấp lánh trên đầu cô gái ấy một viên bảo thạch khổng lồ mà chỉ duy nhất một người trong vương quốc này có thể đội lên.
(...Không lẽ là Nữ Vương của Revelwein?)
Tôi đã từng nghe qua tin đồn trên đường rằng quốc vương trước đã mất, và ngai vàng được truyền cho một công chúa trẻ. Dù chưa từng tận mắt thấy, nhưng với ngoại hình ấy, tôi không nghi ngờ gì về nhan sắc của cô ta.
Chỉ là... biểu cảm ấy, cơn giận dữ ấy... quá mức điên cuồng, quá méo mó.
Như thể có một thứ gì đó tà ác đang xâm chiếm toàn bộ thần trí của cô.
Hoặc cũng có thể, sự thù hận của cô đối với hai kẻ đang bị trói kia người đàn ông và đứa bé đã tích tụ đến mức không thể nào diễn tả bằng lời.
Đứa trẻ khóc thét. Gào lên không ngớt.
Người cha bên cạnh cũng quỳ sụp xuống, liên tục cầu xin:
“Xin hãy tha cho con tôi!
Làm ơn...! Chỉ cần thằng bé được sống...!”
(Không thể nào...)
Hai cha con bị lôi dậy. Đứa trẻ bị dẫn đến chiếc chuông khổng lồ.
Chiếc chuông có một lỗ mở, đủ để vừa cái đầu của một đứa trẻ nhỏ.
Chỉ còn phần cổ ló ra ngoài, như thể đã được chuẩn bị sẵn... để tiện cho việc hành quyết.
Và cạnh đó, một tên lính đứng sẵn, tay cầm thanh đao lớn bằng cả người tôi.
Tôi biết chuyện gì sắp xảy ra.
Một cơn ớn lạnh buốt sống lưng tôi.
Một người có vẻ là quan chức bước ra, giọng vang như sấm:
“Bọn chúng là phản tặc âm mưu chống lại vương quyền!
Gia đình của phản tặc cũng là tội đồ, vì đã bao che cho chúng!
Vì công lý và trật tự của Revelwein, chúng ta sẽ xử tử công khai dưới sự chứng kiến của Bệ hạ!”
Tiếng hô dội khắp quảng trường, được khuếch đại bởi phép thuật từ chiếc chuông. Tôi có thể cảm nhận sóng ma lực từ đó máy đo phép trong túi khẽ dao động.
(...Nhưng mà)
Tội danh nghe qua thì oai phong đấy, nhưng...một đứa trẻ chưa đến tuổi học chữ thì có thể phạm tội gì!?
Thế mà, hiện thực tàn bạo và trần trụi vẫn diễn ra.
“Thi hành.”
Chỉ hai từ. Đôi môi nữ vương khẽ mấp máy.
Và…
"BỤP!"
Cái đầu nhỏ bé bị chặt phăng khỏi cổ, bắn lên không trung như một quả cầu đỏ máu.
Một tiếng “oooh” và “aaah” bật ra từ hàng vạn người đang quỳ gối.
Nhưng ngay sau đó, toàn bộ quảng trường lại rơi vào im lặng tuyệt đối.
Chỉ còn máu tươi, đỏ rực, kéo thành vệt dài từ phần cổ bị chém, nhỏ giọt trên nền đá trắng.
Xa xa, tôi nghe thấy tiếng gì đó như một thứ gì đó đang vỡ vụn trong lòng nhà thờ.
(Không thể tin được…)
Đây là “Cuộc thanh tẩy” ư? Tôi thì thầm, miệng đắng nghét.
Tiếng gào xé ruột của người cha vang lên, gào khóc trước thi thể không đầu của đứa con trai.
Nhưng hắn cũng không thoát.
Cũng bị nhét vào chuông.
Cũng đưa đầu ra khỏi cái lỗ chết chóc ấy.
Và cũng... theo con mình về nơi không còn ánh sáng.
Lưỡi đao rơi xuống.
Máu lại bắn lên bầu trời như một lời nguyền.
(Thật là một cảnh tượng địa ngục...)
Tôi không biết thực hư tội trạng của hai cha con ấy là gì.
Chỉ biết một điều cái cách hành quyết này, rõ ràng được thiết kế để dày vò tâm trí người cha, cho đến tận giây cuối cùng.
Nhưng mọi chuyện vẫn chưa dừng lại ở đó.
Khi xác của người cha và đứa trẻ còn chưa kịp nguội lạnh, một người tù khác lại bị áp giải ra.
(A… aaa…)
Là một người phụ nữ trẻ. Khi chiếc khăn che mắt bị tháo ra, ánh mắt cô lập tức va vào hai thi thể không đầu nằm cách đó không xa. Và rồi, không cần báo trước, một tiếng gào bật lên – dữ dội, đau đớn đến nỗi tôi có thể nghe thấy rõ ràng dù đang đứng trên cao.
Tôi không cần ai giải thích. Tôi đã đoán được cô ấy là ai - người mẹ.
Tiếng hét xé toạc không khí, khiến quảng trường im lặng như chết cũng run lên.
Nhưng lần này, người ra tay không phải tên đao phủ với thanh kiếm khổng lồ... mà là chính vị nữ vương trẻ tuổi đang ngồi trên ngai cao kia.
Nàng chậm rãi nhận lấy thanh kiếm từ tay kẻ hầu đứng bên. Một thanh đoản kiếm hoàng gia được tôi bằng thép luyện, sắc bén như ánh nhìn của nàng lúc đó.
Và không chần chừ lấy một giây, chính tay nàng vung kiếm. Cái đầu của người mẹ bị chém lìa khỏi cổ, bay lên không trung như một vật tế sốngthẳng từ chiếc lỗ nơi tiếng chuông vừa dứt.
Một đường chém, lạnh lùng và chuẩn xác đến đáng sợ.
Máu phun ra từng đợt như suối cạn vỡ đê, và nữ hoàng, trong khoảnh khắc, chìm đắm trong sắc đỏ tanh nồng ấy.
“Hahahahahahahahahahahahahahahaha...!!!!!”
Tiếng cười của nàng vọng khắp quảng trường điên dại, méo mó, như thể linh hồn đã bị nhuộm trong địa ngục.
"Đây chính là cái giá của phản bội...!"
Nói xong, nàng buông thanh kiếm dính máu xuống mặt đất, và bóng dáng của vị nữ hoàng tóc vàng biến mất vào bóng tối bên trong đại giáo đường, không ngoảnh lại lấy một lần.
Tiếng chuông vang lên lần nữa.
Chính lúc đó, tôi chợt nhận ra đường nét khắc trên bề mặt chiếc chuông không giống như hoa văn trang trí bình thường, mà như... một khuôn mặt người. Hai cái lỗ ở gần phần trên, chỗ vừa mới ló ra những chiếc đầu đẫm máu chúng trống rỗng như hốc mắt bị moi ra. Từ đó, dòng máu đỏ tươi của "tội nhân" chảy dài xuống, chẳng khác nào giọt lệ của một bức tượng thánh đang khóc.
Nếu nhìn kỹ lại toàn thể chiếc chuông... hình dáng ấy... có lẽ chính là vị "Thánh Nhân của Lòng Thương Xót".
-("Revelwein là một đất nước tốt đẹp.")
-(Thầy ơi... Thật vậy sao?)
Tôi tự hỏi. Có thể khi còn là vương quốc của vị vua trước, điều ấy từng đúng. Nhưng giờ đây, khó mà tin nổi nữa rồi. Rốt cuộc, chuyện gì đã xảy ra với đất nước này...?
(Lẽ ra mình không nên nhìn.)
Thảm cảnh đó, những tiếng gào khóc đó... vẫn còn nguyên trong mắt và tai tôi. Tâm trí tôi như bị nghiền nát, một cơn mỏi mệt mơ hồ bao trùm toàn thân.
(Hôm nay về trọ thôi...)
Tôi vừa thở ra một cái thật sâu và quay người…
...Thì nó xảy ra.
Chiếc vòng cổ treo trước ngực tôi – la bàn định vị ma thuật – bỗng phát sáng. Nó giật nhẹ, như có ai kéo áo tôi từ bên trong, khiến phần ngực áo căng lên một cách kỳ quái.
"Ể, cái gì vậy...!?"
La bàn rung mạnh. Một luồng ma lực quấn lấy người tôi, và tôi vội chen qua đám đông – giờ đã bắt đầu tan ra từng đợt – để thoát ra khỏi quảng trường.
Rồi, ở một góc phố vắng người…
"...A!"
Tôi nhìn thấy.
Một người – với mái tóc trắng ánh bạc xõa dài, một thanh kiếm lớn đeo sau lưng, và... cái băng che mắt ấy. Dù có nằm mơ tôi cũng không quên được.
(Là người đó...!)
Thịch.
Tim tôi đập mạnh một nhịp.
Tôi không nghĩ lại có thể gặp lại người ấy ở một nơi như thế này. Không ngờ rằng... la bàn định hướng cao cấp mà thầy tặng lại có thể tìm chính xác đến vậy.
(Đúng là phát minh của thầy, quả nhiên vượt xa thời đại.)
"Lần này thì ngươi không thoát được đâu...!"
Tôi cắn răng, dốc hết sức đuổi theo bóng cô gái kia kẻ có mái tóc bạc và miếng che mắt đặc trưng len lỏi qua những con phố đông nghẹt người.
Cuộc rượt đuổi kéo dài khá lâu.
Cô ấy bước đều, nhanh và không một lần ngoảnh lại. Còn tôi thì phải cố giữ một khoảng cách vừa đủ không quá gần để bị phát hiện, nhưng cũng chẳng đủ xa để đánh mất dấu. Sải chân của cả hai khác biệt rõ rệt, và tôi bắt đầu cảm thấy mình sắp bị bỏ lại phía sau.
Cuối cùng, cô ấy rẽ vào một con hẻm nhỏ nằm ở rìa thành phố, cách xa khu nhà thờ và trung tâm náo nhiệt.
Và đúng lúc tôi cũng chuẩn bị rẽ vào…
(Hả...?)
“...Không thấy ai cả.”
Cô gái mang băng che mắt, người vừa bước vào chỉ vài giây trước... đã biến mất không dấu vết.
(Chết rồi, mất dấu rồi à!?)
Ngay lúc tôi còn đang ngơ ngác.
"Ngươi là tai mắt của bọn mật thám à?"
Một bàn tay lạnh như băng tóm chặt lấy cổ tôi từ phía sau.
"Kgh... khụ!"
Tôi bị kéo mạnh vào trong con hẻm tối.
"Ngươi thuộc phe nào?"
"Ggh... kh-không... tôi không phải người khả nghi..."
"Đừng có nói dối."
Giọng nói lạnh lùng vang lên bên tai. Bàn tay siết chặt cổ tôi, mạnh đến mức xương quai xanh phát ra tiếng rắc rắc. Toi rồi, lần này đúng là toi thật rồi...!
Ngay lúc tôi bắt đầu choáng váng, đầu óc mơ hồ.
"Gmm..."
Áp lực trên cổ bất ngờ được buông ra. Tôi khụy xuống, lưng tựa vào bức tường gạch, thở hổn hển như thể vừa thoát chết trong gang tấc.
Tay tôi đưa lên chạm vào vai phải. Đau buốt. Nhưng may mắn thay, không gãy. Vẫn còn cử động được.
(Suýt nữa thì một vé hỏi thăm ông bà rồi...)
"Vậy là ngươi không phải kẻ khả nghi..."
Tôi cố gượng đứng dậy, một tay chống vào tường cho khỏi ngã. Ngước nhìn lên, cô gái với miếng che mắt vẫn đang nhìn tôi chằm chằmdù rõ ràng mắt bên đó chẳng thể thấy được gì.
"Đừng dính dáng gì đến ta."
"Chuyện đó... không được đâu."
Tôi đáp lại, cố giữ bình tĩnh dù xương quai xanh vẫn đang rát như lửa đốt.
"Ta có điều muốn hỏi."
"Ngươi muốn hỏi gì?"
"Mắt của cô..."
"...Đằng kia!"
Ngay lúc tôi chuẩn bị hỏi dứt câu, một giọng đàn ông vang lên, như muốn ngắt lời tôi.
("Hả...!")
Tôi ngoái lại nhìn theo bản năng và giật mình.
Ở lối ra con hẻm, một nhóm lính giáp đồng đã bao vây kín mít.
"Hừm... bọn chúng lần theo ngươi rồi."
Cô gái bịt mắt khẽ thở dài, ánh mắt vẫn thản nhiên đến lạnh sống lưng.
"Hả? Tôi á!?"
Tôi chỉ tay vào chính mình trong sự hoang mang tột độ.
Tưởng mình đang bám theo cô ấy, ai ngờ lại có người bám theo cả tôi. Chết thật, lo tập trung vào mục tiêu quá mà không nhận ra điều đó.
"Này, cô gái đeo kính kia!"
Gã lính cầm đầu hét lớn, giọng cáu bẳn.
Đám lính xếp hàng phía sau hắn đồng loạt trừng mắt về phía tôi. Cảm giác này không ổn chút nào…
"Nghe tôi nói không hả!? Là cô đó, cô kia kìa!"
"D-Dạ!? Có chuyện gì vậy, thưa ngài?"
Tôi lí nhí trả lời, cố gắng không tỏ ra hoảng.
"Cô bị bắt vì tội tuyên truyền dị giáo."
"Gì cơ...!?"
"Chẳng phải cô đã hô mấy thứ 'Yah-yah-wale-kosova' to oang oang giữa phố Sablan sao?"
"Ơ thì... tôi chỉ đang biểu diễn nghệ thuật dân gian nước ngoài thôi mà..."
Tôi cuống cuồng biện minh, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng.
"Tôi là đệ tử chân truyền đầu tiên của đại pháp sư Curios Le Moon...!"
(Ah...)
Tôi chỉ định tạo không khí huyền bí một chút thôi, chứ có ý truyền bá dị giáo đâu...!
Và rồi, chính cái "không khí" đó lại mang tôi đến một tình huống tệ nhất có thể.
"Thưa ngài, ngài hiểu lầm rồi. Tôi chỉ là một pháp sư lữ hành bình thường thôi mà..."
"Mọi hành vi chống cự sẽ bị xem là phản quốc."
(Toi rồi...)
Tôi chết sững.
Không được để bị bắt, nếu không… chẳng lẽ sẽ bị xử trảm như cha con lúc nãy!?
Ngay lúc tôi còn đang run bần bật…
"Cô ấy chỉ là khách lữ hành thôi."
Tách.
Một bóng người bước ra chặn giữa tôi và đám lính.
Cô gái bịt mắt.
"Tránh ra, cô đang cản đường công vụ..."
Tên lính chưa kịp dứt lời, mặt hắn đột nhiên tái mét. Sự ngạo mạn biến mất sạch sẽ, hắn lùi lại theo phản xạ.
"K-Không thể nào...!"
Một tên lính khác bật thốt.
"Kr-Krüger!?"
Bầu không khí đông cứng.
Những tên lính chắn đường tức thì lùi lại một bước, tạo thành một vòng cung bao quanh cô. Căng thẳng như chiến trường.
"..."
Cô liếc nhìn bọn họ với ánh mắt chán chường rồi cứ thế... bước qua khe hở mà đi.
Tôi vẫn đứng đờ người trong con hẻm, không dám thở mạnh.
Chuyện gì vừa xảy ra vậy?
"C-Cô là... phản đồ Krüger!?"
Một trong bốn tên lính lắp bắp. Ai đó còn giương một nhánh aconito, khói đỏ lảng vảng trong không khí.
(Phản đồ...)
Chữ đó khiến tôi nhớ lại cảnh hành hình cha con lúc trước.
Không cần nói cũng biết đây là một trọng tội.
(Mà... “Krüger” nghe quen quen... hình như đã từng nghe ở đâu rồi...)
Tôi còn chưa kịp nhớ ra thìbầu không khí lại càng trở nên căng như dây đàn.
"Ngồi xuống đó, bỏ vũ khí ra, giơ hai tay lên không!"
Tên lính vừa đọc vừa run như đang tụng... sách giáo khoa.
Có điều gì đó... không đúng.
Chỉ là một cô gái mà khiến cả bốn tên lính sợ đến thế?
Hay... cô ấy thực sự là một người rất đáng sợ?
"Chuyện quái gì đang xảy ra vậy...!?"
"Đội trưởng ơi!!"
Thêm nhiều binh lính kéo đến, có lẽ vì trông thấy làn khói đỏ từ aconito…
Bốn tên nữa lao vào con hẻm. Vậy là tổng cộng đã có tám người.
Tôi vừa nghĩ thế, thì lại có thêm hai tên nữa chạy tới.
Mười người.
Chưa kịp thở phào, từ trong bóng tối lại nhảy ra ba tên nữa, mười ba.
(Này này, căng thật rồi đó...?)
Chẳng lẽ... bọn chúng đang điều viện toàn bộ quân đội đến bắt một người!?
Tôi muốn thừa cơ chạy trốn, nhưng... chết tiệt, đây là một con hẻm cụt.
Lối ra duy nhất là đằng kiangay sau lưng Krüger.
"Hê hê... đúng là Krüger thật rồi... hên hết chỗ nói..."
Tên lính râu rậm, người được gọi là đội trưởng, liếm mép một cách ghê tởm.
"Giờ thì ta muốn lên chức lúc nào chẳng được..."
Tên đó rút kiếm từ thắt lưng.
Những tên lính khác cũng lách cách tuốt kiếm theo sau.
"Krüger, ngươi đúng là ngu ngốc..."
Gã đội trưởng từ từ tiến đến với tư thế thấp, như một con sói sắp vồ mồi.
Hai bên hông hắn, các binh lính đã dàn đội hình, chặn hết lối thoát.
"Ngươi có thể sống sung sướng nếu biết điều.
Miễn là chịu nộp tiền cho đám ‘ở trên’, thì đất nước này chẳng thèm để tâm chuyện ngươi giết gái xong rồi chơi đâu..."
Cô gái bịt mắt vẫn không nói gì.
Tôi chỉ thấy cô nghiêng người về phía trước một chútvì tôi đang đứng ngay sau cô.
"Nếu là một kẻ mù, thì ‘Nanh của Vương quốc’ cũng chỉ là một ả đàn bà mà thôi - XÔNG LÊN!"
"YAAAAAH!!"
Đám lính ở hai bên trái phải cùng lúc vung kiếm chém tới.
Nhưng
(Hả...?)
Không còn ai đứng đó nữa.
Cô gái bịt mắt đã đứng sau lưng tên đội trưởng.
"Cái gì...!?"
Gã đội trưởng hoảng hốt quay phắt lại.
Hắn không hiểu chuyện gì vừa xảy ra.
Không biết bị tấn công lúc nào, không rõ bị đánh ở đâuchỉ thấy một tên lính đã gục ngã và cô ấy đang chuyển động.
Ngay cả tôi, đứng gần vậy mà chỉ thấy một tia sáng bạc vụt qua.
"XÔNG LÊN!! CHÉM NÓ ĐI!!"
Tên đội trưởng gầm lên ra lệnh, và các binh lính khác lập tức lao tới đâm chém cô.
Lần này, tôi thậm chí còn thấy rõ chuyển động tay cô đặt lên chuôi kiếm dài.
Nhưng mà…
(Ah...)
Một tia chớp lóe lên.
Một loạt tia sáng mỏng như sợi chỉ đồng loạt bắn ra, rồi lập tức vụt tắt sau khi thiêu đốt cả mắt tôi.
Đến khi tôi kịp nhận ra, người còn lại ở đó chỉ là tôi, cô ấy, và…
"Không thể nào..."
Người buột miệng đó là gã đội trưởng vừa nãy.
"Quên mất bổn phận thật sự của một kỵ sĩ, đàn áp dân thường, chỉ biết khoe mẽ quyền lực…
Ngươi không có tư cách tự xưng là kỵ sĩ của vương quốc."
Cô gái bịt mắt bước đến chậm rãi, giọng nói lạnh lùng như thể đang tuyên án.
Tên đội trưởng, trước khi kịp chửi rủa một câu gì đó như "Khốn kiếp, mày...", đã phải hôn nền đất…
Dưới chân tôi là mười ba tên lính nằm bất động, không một ai còn tỉnh táo.
Cảnh tượng chẳng khác nào một chiến trường, thế nhưng không một giọt máu nào rơi xuống.
Kỹ thuật kiếm thuật đó chẳng khác gì ma pháp.
Tôi lẽ ra đã quen rồiđã từng thấy cô đánh bại bọn cướp trong rừng ven hồ như thế.
"Giết" mà không giết ai.
Nhanh đến mức không thể thấy nổi ánh kiếm.
Với một thanh kiếm mỏng, hai lưỡi như thế kia, rõ ràng không phải là chém bằng mũi kiếm…
(Chẳng lẽ... cô ấy dùng sống kiếm...?)
Và trên hếtvới một con mắt bị bịt kín mà vẫn làm được như thế, thì đúng là thần thánh ban ơn.
"...Chẳng lẽ đây là một loại... ma thuật chưa từng thấy?"
Tôi vừa tự hỏi, thì cô ấy quay đầu lại.
Ánh mắt cô lướt qua tôi trong con hẻm.
Vẫn đeo miếng bịt mắt, nhưng nét mặt cô trầm hơn mọi khi.
Không có vẻ gì là tức giận, mà giống như... một sự trống rỗng.
"Đó... là ma thuật sao?"
Tôi rón rén bước ra khỏi con hẻm.
Vừa bước qua thi thể bất tỉnh của tên lính chặn lối, tôi chợt thấy một vết cháy sém trên mặt đất, như thể bị móng vuốt khổng lồ cào xước.
(Cái... cái gì đây...?)
Có phải là dư chấn từ tia sét lúc nãy không?
"Hãy rời khỏi đất nước này ngay lập tức."
"Hả...?"
Cô gái bịt mắt quay lưng về phía tôi, buông lời... mà chẳng cần ngoảnh lại.
“Và đừng quay lại nữa.”
“...trừ khi ngươi muốn trở thành vật tế cho “Lễ hội Máu”.”
Này, rốt cuộc cô là ai vậy!? Cái gì mà "lễ hội"!?
Còn cái miếng che mắt đó... thật ra có nhìn thấy được không vậy!?
“Chỉ một câu hỏi.”
“Cô sẽ trả lời tôi sao?”
Cô gái khẽ nhíu mày tỏ vẻ khó chịu, rồi quay đầu bước đi, không thèm trả lời câu hỏi của tôi.
Tất nhiên, tôi đâu thể để cô ấy đi như thế.
“Đừng có theo tôi.”
“Vậy thì nói cho tôi biết bí mật về “kỹ thuật” ban nãy của cô đi.”
“Ngươi nhầm rồi, pháp sư.”
Cô ấy nói một cách dửng dưng, rồi quay đầu nhìn tôi qua vai.
“Lúc nãy, đã có khói đỏ từ lính tuần tra. Chúng sắp đến rồi.”
“Lính à...?”
“Lính không là gì cả. Dù có bao nhiêu cũng vậy thôi.”
”Thứ thực sự đáng sợ ở đất nước này…”
Cô hạ giọng xuống.
“...Chỉ có hai.”
Ngay lúc đó, cô đột nhiên ngừng nói.
"Muộn rồi."
Cô lẩm bẩm.
Hả...? Cái gì cơ...?
Tôi chưa kịp hỏi lại thì mặt đất bắt đầu rung nhẹ, và một tiếng hí vang vọng.
Ngay lúc tôi còn đang ngơ ngác, một con ngựa nhảy vụt qua ngay trên đầu tôi!
Tôi vội cúi người né, và con ngựa hạ cánh ngay trước mặt.
(Cái quái gì vậy...!?)
Tôi ngẩng lên, một con ngựa trắng như tuyết hiện ra trước mắt.
Phần đầu và chân nó được bao phủ bởi giáp dày đặc, và huy hiệu hoàng gia được khắc nổi trên thân giáp.
Dựa vào màu sắc đặc biệt của hợp kim không lấp lánh cầu vồng cũng không ngả nâu như caramel có thể chắc chắn đây là giáp chống ma pháp.
Trên lưng con ngựa trắng đó là một kỵ sĩ cao lớn, ngồi hiên ngang.
"Vẫn còn ở lại đất nước này à, senpai?"
Khi nói vậy, kỵ sĩ từ từ tháo mũ giáp xuống.
(Ồ…?)
Ngay khoảnh khắc cô ấy tháo chiếc mũ giáp xuống, mái tóc đỏ rực như lửa xõa xuống, buông lơi qua vai.
Người xuất hiện là một cô gái trẻ hơn tôi tưởng, có lẽ chỉ mới tuổi đôi mươi, đang nhìn tôi bằng ánh mắt sắc bén từ sau mái tóc mái rũ xuống trán.
Cô gái bịt mắt khẽ thì thầm, giọng nghe như đang đắn đo điều gì đó.
“Isabella…”
“Đừng gọi cái tên đó một cách thân mật như vậy.”
Cô kỵ sĩ tên Isabella liếc ánh mắt lạnh lùng về phía cô gái bịt mắt. Dù không chắc cô ấy có thấy ánh nhìn đó không…
“Isabella.”
Cô gái bịt mắt lặp lại cái tên, như thể khắc sâu điều gì đó.
“Trông ngươi vẫn ổn.”
“…Hả!”
Biểu cảm của Isabella dần trở nên tối sầm. Cách nói chuyện của cô gái bịt mắt dường như khiến cô khó chịu. Isabella khẽ cắn môi một lần, rồi…
“Senpai…”
Với một động tác dứt khoát, cô nhảy khỏi lưng ngựa.
“Lúc nào cũng vậy…”
Sau khi chạm đất, cô nhẹ nhàng đẩy ngựa sang một bên, rồi ném chiếc mũ giáp xuống đất.
Cái kiểu hành xử dụ dỗ đàn ông, những vòng xoay vô trách nhiệm với người xung quanh của chị, và…
Tay cô đã đặt lên chuôi kiếm.
…
Cô gái bịt mắt không nói gì, cũng không rút kiếm. Thay vào đó, cô chỉ lặng lẽ bước từng bước ra giữa lòng đường lát đá.
“Ta sẽ không đánh nhau với ngươi ở đây.”
“Chị không có quyền ngăn ta lại, senpai.”
Rồi Isabella...
Cô ấy rút kiếm.
(Gì vậy…)
Đó giống như một chuyển động bật nhảy. Ngay khoảnh khắc Isabella chạm tay vào chuôi kiếm, thanh gươm mảnh mai tuốt ra một cách mượt mà, rồi lao thẳng tới cô gái bịt mắt.
Dứt khoát và uyển chuyển, bóng dáng ấy, cùng với khuôn mặt tròn đầy đầy kiên định, chẳng khác nào một nữ thần chiến trận.
Một vệt đỏ rực cháy vẽ thành đường cong qua không khíánh đỏ đến từ hoa văn đang rực sáng trên lưỡi kiếm.
“Ta sẽ không để ngươi nói rằng ngươi đã quên lời thề ngày hôm đó.”
“Tất nhiên là ta không quên. Nhưng… giờ nó chẳng còn ý nghĩa nữa.”
“Chẳng còn ý nghĩa...?”
Lửa giận bừng lên trong ánh mắt của Isabella.
“Dù nó không còn ý nghĩa với chị, senpai... nhưng ta đã sống… chỉ để chờ đến ngày hôm nay.”
Đột nhiên, một cơn gió nhẹ thổi qua.
Mái tóc đỏ của Isabella lấp lánh như lửa bập bùng trong gió, và khí thế quanh cô hoàn toàn thay đổi.
Tôi có thể cảm nhận rõ ràngcơn thịnh nộ của Isabella đã đạt đỉnh.
…
Có lẽ cô gái bịt mắt cũng hiểu rằng không thể tránh khỏi một trận chiến, nên cô nhẹ nhàng nghiêng người, rồi đặt tay lên chuôi kiếm.
(Ể, ể... gì vậy trời, mới chớp mắt cái đã đánh nhau rồi á!?)
Tôi vẫn đang lén trốn trong góc hẻm, mặt tái mét nhìn hai nữ kỵ sĩ chuẩn bị tẩn nhau ngay giữa phố như phim kiếm hiệp chiếu rạp. Tôi chẳng biết con nhỏ tên Isabella kia là ai, nhưng nhìn cái kiểu ánh mắt nặng tình nặng nghĩa của hai người, có vẻ như từng “dây dưa” gì đó trong quá khứ. Rắc rối quá rồi đây…
“Ta là Isabella Bartelink, phó chỉ huy đoàn Kỵ sĩ của Vương quốc Revelwein. Hôm nay, ta đến để hoàn thành lời thề năm xưa.”
“Siegfriede Krüger. Không còn thuộc phe nào cả. Nhưng lời thề đó, ta vẫn sẽ thực hiện, với tư cách của một kỵ sĩ.”
Hai người đặt tay lên ngực, ra vẻ nghiêm túc đọc bài văn tế kiểu “nghi thức danh dự kỵ sĩ” gì đó, xong xuôi thì cuối cùng cũng bắt đầu đấu tay đôi. À mà nói là tay đôi chứ thật ra là Isabella vừa nhảy xuống ngựa xong, chưa biết tính là đấu đứng hay đấu cưỡi nữa... Dù sao thì trông vẫn rất "chính nghĩa hóa bạo lực".
Tôi thì chẳng hiểu mô tê gì cả, chỉ biết tiếp tục nín thở quan sát từ trong bóng tối như dân thường chuẩn bị chờ xe buýt gặp cảnh tượng bất ngờ giữa đường.
Isabella hạ thấp trọng tâm, cầm kiếm như thể sắp đâm lao vào. Trong khi đó, nhỏ đeo bịt mắt thì đứng im ru, chỉ đặt nhẹ đầu ngón tay lên chuôi kiếm. Một người thì lao vào như lốc xoáy, người kia thì như tảng đá nằm chờ sóng. Hai dáng đứng trái ngược, thế mà khi họ áp sát
Clangg.
Mái tóc đỏ rực của Isabella hất nhẹ về phía trước. Tóc bạc của đối thủ khẽ tung bay đáp lại. Một vệt đỏ lướt chéo qua vệt trắng bạc trong khoảnh khắc đó.
(!?)
Tia lửa tóe ra.
Một luồng áp lực như sóng xung kích cuốn qua không khí, khiến tôi giật mình nhắm chặt mắt. Khi hé mắt nhìn lại, hai người đã đứng ở vị trí khác: Isabella ở phía trước, vung kiếm dứt khoát, còn cô gái đeo bịt mắt thì lùi hẳn về sau.
“Á...”
Một lọn tóc của cô gái bịt mắt nhẹ nhàng bay xuống như sợi chỉ bạc vừa bị cắt đứt, xoay vòng trong không trung rồi rơi xuống đất.
“Nếu đây là trận thật, chắc cái đầu của chị đã lăn xuống rồi đó, senpai.”
…
Cô gái bịt mắt xoay người chậm rãi.
“Chị khá lên rồi đấy, Isabella.”
Ngay sau lời khen như vả vào mặt đó là một tiếng “bụp” nhỏ, kèm theo âm thanh vỡ vụn miếng giáp vai của Isabella nổ tung như trúng pháo.
“Guh...!”
Mặt Isabella đổi sắc.
(Khoan đã… Trận này ngang tài ngang sức thật à!?)
Tốc độ của họ nhanh đến nỗi tôi còn chưa kịp thấy gì. Không có máu me, nhưng mỗi nhát chém như thể có thể xẻ đôi không khí.
Kỹ năng kiếm thuật cấp này... khác nào ma pháp sống đâu? Dù có du hành khắp thế giới, cũng hiếm có ai đạt được cảnh giới này. Vậy mà vừa đặt chân đến Revelwein, tôi đã gặp liền hai người như vậy? Quốc gia này rốt cuộc nuôi người kiểu gì vậy? Và một trong hai còn bị mù nữa cơ chứ?
Isabella chỉnh lại tư thế, siết chặt chuôi kiếm.
“Tại sao?”
“Câu hỏi ấy... thật tình, tôi cũng muốn biết.”
“Làm sao mà cô có thể dùng kiếm điêu luyện đến vậy... dù đã mất thị lực?”
...
Không có câu trả lời. Cô gái kia chỉ nhìn thẳng vào Isabella qua miếng bịt mắt.
Isabella cúi đầu một lúc.
“Với tài năng như vậy... sao cô lại…”
Đôi môi cô cắn chặt lại.
“Sao cô lại phản bội vương quốc?”
“Tôi trung thành... theo cách của tôi.”
“Không cần cô trung thành kiểu đó. Tôi sẽ kết thúc chuyện này trước khi “chỉ huy” tới.”
Hai người lại bước vào thế đối đầu lần nữa, ngay giữa con đường lát đá.
(Khoan đã, nghĩ lại mới nhớ...)
Từ “chỉ huy” vừa rồi... khơi dậy một ký ức trong tôi.
Dù có bao nhiêu binh lính kéo tới cũng chẳng là gì cả. Cái mà đất nước này thực sự nên sợ…
Hình như... hình như cô gái bịt mắt đã nói câu này trước đó rồi thì phải. Chắc chắn luôn.
Chỉ có hai người.
Một là nữ kỵ sĩ tóc đỏ đang đứng trước mặt tôi đây. Isabella Bartelink, nếu tôi không nhớ nhầm tên. Nếu đúng là vậy... thì nghĩa là, vẫn còn một người khác chưa xuất hiện?
Người mà có thể thực sự khiến hai người này e ngại?
Từ “chỉ huy” mà cô ta vừa thốt ra... làm tôi chợt nhớ ra sự tồn tại của kẻ thứ ba, một kẻ vẫn chưa lộ diện.
Hai người lại giương kiếm lên lần nữa.
“Nào, đến đi…”
Isabella, mái tóc đỏ bay phấp phới, hạ thấp trọng tâm như chuẩn bị đâm xuyên kẻ địch trước mặt. Dáng đứng ấy rõ ràng là để tung ra một kỹ thuật đâm chính xác, nhưng với một tay nghiệp dư như tôi thì chẳng hiểu được gì nhiều ngoài việc: trông ngầu phết.
Còn đối thủ, cô gái tóc bạc bịt mắt lại quay trở lại tư thế cũ: đứng thẳng như cột mốc, chỉ khẽ chạm vào chuôi kiếm. Và rồi... thanh kiếm thứ hai lặng lẽ xuất hiện bên cạnh thanh thứ nhất.
-!?
Mặt đất rung lên.
Zushin. Một tiếng trầm khẽ vang, đất dưới chân như chấn động. Có thứ gì đó... đang tiếp cận. Một luồng áp lực dội ngược từ lòng đất lên bụng tôi như cú đấm vô hình.
(Ế... ê ê, cái gì nữa đây!?)
Tôi vội ngoảnh đầu lại, và… từ phía bên kia đường, thứ ấy đang đếnchậm rãi, đầy uy nghiêm.
Một kỵ sĩ. Khoác trên mình bộ giáp đen tuyền, cưỡi trên con ngựa bọc thép đen như màn đêm, cứ thế nghễu nghện bước qua dòng người, như thể tất cả cản đường đều là mây gió.
(Cái... gì vậy trời?)
Sự hiện diện ấy… như nghiền nát không khí xung quanh.
Tuy vẫn còn cách một đoạn, nhưng chỉ cần nhìn thôi cũng đủ thấy người ấy mang theo cái gì đó khiến đất rung, trời nghiêng. Một lớp hơi mờ kỳ dị bốc lên từ dưới chiếc mũ trùm đen sâu hun hútnhư khói, như sát khí, như một dạng ma lực... không, tôi không chắc.
Tôi chỉ biết mắt mình cay xè.
“Hii…”
Một tiếng thở dốc bật ra khỏi miệng tôi. Vội vàng bịt miệng lại, bản năng hét lên bảo tôi im ngay nếu còn muốn sống.
Cảm giác này… là nỗi sợ nguyên thủy. Như một con vật nhỏ xíu đứng trước nanh vuốt của mãnh thú trong rừng sâu, chỉ biết run rẩy nhìn cái chết tiến tới.
Cuối cùng... kỵ sĩ áo đen kia dừng ngựa.
Rồi... cất tiếng.
“Các người đang làm cái quái gì vậy?”
“Chỉ huy Farrenberger…”
Cô gái tóc đỏ khẽ thốt lên cái tên ấy, gần như là một tiếng thì thầm nghẹn ngào đầy kính nể. Không khí lập tức trở nên nặng trĩu. Người đàn ông cưỡi trên con chiến mã bọc thép đen nặng nề kia, chỉ lặng lẽ đảo mắt nhìn quanh. Thế nhưng cái sự “lặng lẽ” ấy lại tạo nên một sức ép như muốn đè bẹp cả bầu trời.
Lão... tháo mũ giáp.
Từ trong chiếc mũ đen sì sì đó tuôn ra một mái tóc bạc lộng lẫy như bờm sư tử, phủ xuống bờ vai cơ bắp như đá tạc. Trên gương mặt ấymột khuôn mặt từng quen với khói lửalà vô số vết sẹo ngoằn ngoèo, có thể gọi là những “huân chương thịt sống” sau biết bao cuộc chiến.
Nhưng hơn tất cả…
Lão không có cánh tay phải.
(Fa... Farrenberger...!?)
Không thể nhầm lẫn được. Kỵ sĩ của vương quốc RevelweinFarrenberger. Và đúng như lời đồn: một cánh tay đã biến mất.
Chắc chắn... tôi biết người này.
Ernesto Farrenberger.
Một cái tên ai cũng biết. Không, không cần phải là kỵ sĩdù là lính đánh thuê, pháp sư, hay bất kỳ ai từng dấn thân ra chiến trườngchẳng ai là chưa từng nghe danh hiệu ấy.
“Phép màu Walpsburg”, nơi ông giữ vững pháo đài dù đối phương có quân số gấp ba mươi lần.
“Trận chiến bất khuất”, nơi ông một mình chống lại cả đoàn quân man rợ tấn công thị trấn biên giới.
“Vinh quang của Dũng sĩ”, nơi ông đánh bại bảy tướng lĩnh của đế chế mạnh nhất lục địachỉ trong một trận đấu.
Hai mươi năm đã trôi qua từ những huyền thoại đó.
Farrenberger giờ đây đã trở thành biểu tượng sống của chiến trường. Một “kỵ sĩ của các kỵ sĩ”. Một truyền thuyết bước đi bằng hai chân.
(Vậy... tin đồn là thật sao?)
Nghe nói, ở một quốc gia láng giềng, người ta thì thầm rằng lão từng hiến cánh tay thuận của mình cho hoàng tộc để đổi lấy một yêu cầu cứu viện của thuộc hạ. Khi nhìn thấy phần khuỷu tay bên phải của lão đã không còn... tôi bỗng cảm thấy câu chuyện đó chẳng phải là bịa.
“Bartelink. Cô đang làm gì ở đây?”
Câu hỏi của ông vang lên như một cú gõ mạnh vào đầu. Không giận dữ. Không gào thét. Chỉ là một tiếng hỏi nhẹ... nhưng dư âm của nó khiến cả bầu không khí đông cứng lại.
“Tôi... à thì…”
Cô gái tóc đỏ, chỉ mới lúc nãy còn hừng hực tinh thần chiến đấu như ngọn lửa, bây giờ thì…
Lúng túng, lắp bắp, chật vật tìm cớ.
Một sự thay đổi chóng mặt đến khó tin.
“Tôi thấy khói bốc lên, liền vội vàng chạy tới và phát hiện ra... kẻ phản bội này…”
“Vậy sao không chờ ta?”
“V-Vâng... thần xin lỗi…”
Isabella cúi đầu xin lỗi rành rọt. Không lời bào chữa, không ngụy biện. Cô gái vừa nãy còn hừng hực sát khí, lúc này bỗng ngoan ngoãn như học sinh tiểu học bị thầy chủ nhiệm bắt gặp đang lén chơi điện thoại trong lớp.
Nhưng tôi hiểu... chỉ cần đứng gần, cái áp lực khủng khiếp này cũng đủ làm toàn thân tôi run rẩy như con nai bị kẹp giữa hai con sư tử đang hít thở bằng khí nitro.
Và rồi…
Lão kỵ sĩ già quay người, đối diện với cô gái bịt mắt kia.
“Lâu rồi không gặp. Đúng không?”
“Sensei...”giọng cô ấy vang lên, hơi run run và mang chút ngại ngùng như đứa học trò từng bỏ học trốn nhà.
“Ta và cô... giờ không còn là thầy trò nữa.”
Chỉ là vài câu ngắn gọn, vậy mà chứa đựng quá nhiều điều. Tôi nín thở quan sát từ trong hẻm, đầu óc quay mòng mòng không theo kịp tốc độ tiết lộ bí mật.
“Ta đã bảo cô... hãy rời khỏi vương quốc này rồi.”
Sứ mệnh của một kỵ sĩ là bảo vệ vương quốc.
Hai người họ đối đáp thản nhiên như thể đang trò chuyện bên tách trà chiều, nhưng lại có cái gì đó... rất khác. Gió thổi tung mái tóc bạc của cả haimột già, một trẻmột cách gần như đồng điệu.
(Mối quan hệ này... là sao đây?)
Một người là huyền thoại sống của đất nước, một người là nữ kỵ sĩ mù bị truy nã. Rõ ràng, giữa hai người từng tồn tại mối quan hệ thân thiết. Nhưng nếu vậy, tại sao ông ấy lại đuổi theo cô?
“Con không muốn đánh nhau với thầy, sensei.”
“Đừng hèn nhát.”
Ngay sau đó, vị chỉ huy già bước xuống ngựa. Từng bước nặng nề nhưng vững chãi, như thể từng bước đều ghi dấu một đoạn lịch sử. Tấm áo choàng dày nặng tung bay sau lưng, quét qua không khí như cánh đại bàng đang sà xuống con mồi.
Và khi gót giày chạm đất
ẦM.
Mặt đất rung lên lần nữa. Nhưng lần này không phải do sức nặng của giáp trụ, mà là từ... uy nghiêm tuyệt đối tỏa ra từ chính con người ấy.
Một bên là nữ kiếm sĩ trẻ, đôi mắt khuất sau tấm bịt. Một bên là chiến binh già, mất một cánh tay nhưng vẫn sừng sững như núi.
Hai truyền thuyết. Một trận chiến.
“Thưa Chỉ huy, để thần xử lý ả ta.”
Cô gái tóc đỏ bước lên một bước, định giành lấy vinh dự đó.
Nhưng lão chỉ phất tay nhẹ.
“Lùi lại. Đây là vai diễn của ta... với tư cách một chỉ huy.”
Nói rồi, lão kỵ sĩ già khoác giáp đen rút thanh kiếm từ thắt lưng ra.
Isabella khẽ nhăn mặt, vẻ mặt hơi phức tạp có thể là khó xử, có thể là sợ hãi rồi nhanh chóng kéo cương ngựa của Farrenberger, lặng lẽ lùi sang bên vệ đường.
(Đánh á? Lần này là…)
…với một huyền thoại sống kia kìa!?
Trận chiến trước đó giữa hai “nữ thần chiến tranh” đã là kinh hoàng lắm rồi. Nhưng việc Isabellangười vừa nãy còn toát ra sát khí ngùn ngụtnay lại răm rắp lùi lại, điều đó nói lên mức độ vượt trội tuyệt đối của lão kỵ sĩ trước mặt tôi. Chưa cần ra chiêu, khí thế thôi cũng đã gần bằng long thần giáng thế rồi.
“Xin hãy nghe con nói, thưa thầy... con”
“Không cần nói.”
Lời cô gái còn chưa dứt, thì lão già đã lạnh lùng cắt ngang.
Lão giơ cao thanh kiếmmột lưỡi gươm dày, nặng nề, to gấp rưỡi bình thường. Ánh sáng trên lưỡi kiếm đen nhánh phản chiếu như một cái bóng đè nặng lên đối thủ. Tư thế ấy… rất giống với cách Isabella đứng lúc nãy. Không lẽ… Isabella đã học phong cách kiếm thuật của ông ấy?
Nếu tự gọi mình là kỵ sĩ…
Giọng lão vang lên, chậm rãi mà sắc như chuông đồng:
“...Hãy để kiếm của ngươi lên tiếng.”
Ngay khoảnh khắc đó
BÙM!!
Gió nổi lên, bụi đất bốc cao như pháo hiệu mở màn, và Farrenberger xông lên.
Nhanh quá!
Thanh kiếm khổng lồ ấy lại được vung ra với tốc độ không tưởng! Như thể trọng lượng của nó là giấy, không phải thép.
“...A!”
Cô gái bịt mắt né kịp. Phản xạ của cô ấy… không thể là của người mù được! Tóc bạc tung bay như cờ hiệu dẫn đầu đoàn quân, cô tránh đòn trong gang tấc. Và rồi
ẦMMMM!!!
Lưỡi kiếm ấy chém thẳng vào bức tường đất ngay bên cạnh tôi. Tôi gần như bị thổi bay như cọng hành.
Á Á Á Á!!!
Tôi ngồi thụp xuống đất, ôm đầu run rẩy. Khi hé mắt nhìn qua làn bụi mù mịt, bức tường vừa rồi đã tan thành đống đổ nát. Hoàn toàn bị nghiền nát như bánh quy dưới chân.
(Quái thật! Cái sức mạnh quỷ khiếp này là gì vậy!?)
Tôi nhớ ra rồi. Có một câu chuyện kể rằng ông ấy từng hạ gục một con chiến mã bọc giáp chỉ với một nhát kiếm duy nhất.
Và có vẻ như... hôm nay, tôi vừa tận mắt chứng kiến câu chuyện đó bước ra khỏi truyền thuyết.
“Rắn rỏi.”
Một từ đơn giản, nhưng chính xác đến kỳ lạ. Người đàn ông ấy là hiện thân của chất lượng và trọng lượng. Chính là hiện thân của cách sống mà lão kỵ sĩ này đã đeo đuổi cả đời trung thành, tận tụy, bất khuất.
Một người đàn ông đã không ít lần cứu vương quốc khỏi cơn khủng hoảng, thậm chí khi đất nước lâm nguy đến mức chẳng còn ai dám ra trận, ông vẫn không chùn bước trước thế lực ngoại bang.
Tôi hiểu vì sao người ta gọi ông là:
“Xương sống của vương quốc.”
(…A!)
Bỗng kim đồng hồ đo ma lực của tôi giật lên.
Có gì đó vừa phản ứng. Không phải là kiểu ma thuật như mấy màn đèn khói rẻ tiền đâu. Nhưng nếu không phải ma pháp thì… tại sao đòn tấn công của ông ấy lại mạnh đến thế mà không cần niệm chú hay dùng pháp sư?
Chuyện gì xảy ra với đám kỵ sĩ của quốc gia này vậy hả trời!?
“Sensei, con…”
“Ta đã nói rồi. Hãy để kiếm lên tiếng.”
Không chút chần chừ, Farrenberger lại lao vào lần nữa.
Lần này là một nhát chém từ trên xuống, thẳng vào giữa đỉnh đầu đối phương, như muốn chẻ đôi từ não đến mũi chân.
Cô gái lại né được. Một lần nữa, phản xạ của cô ấy vượt xa giới hạn con người.
Nhưng lần này... điều xảy ra tiếp theo khiến tôi không tin vào mắt mình.
Ngay khi thanh trọng kiếm cắm vào mặt đất
BOOOOOOMMMMM!!!
Một tiếng nổ vang lên như sấm động!
Từ mũi kiếm, một luồng sóng xung kích bùng nổ, lan ra như hoa hồng nở rộ, một bông hồng chết chóc bằng gió và áp lực!
Guh...!
Cô gái bịt mắt không né mà giơ kiếm dài lên chắn, như một chiếc khiên mỏng tang trước cơn bão. Cô xuyên qua sóng chấn động, mái tóc bạc phất tung theo áp lực gió xé rách không khí. Cả không gian như bị ép lại. Cột trụ của căn nhà bên cạnh rắc một tiếng rồi sụp xuống như bánh tráng nhúng nước.
“OÁÁÁÁ!!”
Dân cư vùng lân cận lao ra khỏi nhà như ong vỡ tổ, chạy toán loạn. Người chưa biết chuyện cũng bắt đầu lũ lượt chạy theo, nhìn thấy cảnh tượng như tận thế đang diễn ra giữa phố.
Chỉ trong tích tắc, khu phố náo loạn này giờ chỉ còn ba người.
Tôi, cô gái, và lão kỵ sĩ sống như thần thoại.
(A... Aaaah...)
Tôi nằm bẹp xuống con hẻm, ôm đầu run rẩy trước trận chiến trước mắt.
(Cái… gì thế này... Đây là sức người sao? Hay là thế giới của thần linh? Không phép thuật, không triệu hồi, không pháp trận mà lại có thể làm được chuyện như thế à!?)
“Nuh-uh…”
Farrenberger khẽ lẩm bẩm khi nhìn thanh kiếm to bằng cả người mình. Ở đó, không biết từ khi nào, một vết cắt hình chữ thập đã xuất hiện, như thể... có ai đó đã phản công ngay giữa đòn vừa rồi.
(...Khoan đã -cái quái gì!? Khi nào thì…!?)
Chỉ trong một phần giây giữa đòn tấn công và phòng thủ, cô ấy không chỉ né được mà còn kịp gài thanh kiếm của mình vào lưỡi kiếm đối phương…
“Nếu sensei còn ở thời kỳ đỉnh cao, con đã chết ngay từ nhát đầu tiên.”
Cô gái tóc bạc nói, vừa phủi nhẹ lớp bụi trên miếng che mắt.
“Và cả đòn thứ hai nữa. Sensei rõ ràng đã mất đi cảm giác.”
…
Farrenberger không đáp. Ông chỉ lặng lẽ điều chỉnh lại kiếm của mình.
(…nà ní…?)
Mất cảm giác á!?
Cái nhát kiếm nãy phá nát bức tường, chẻ đôi cả mặt đất và đập gãy cột nhà mà gọi là “mất cảm giác” á!?
Làm thế nào mà một ông già mất đi cánh tay thuận, cái cơ thể khô gầy ấy, vẫn tạo ra sức mạnh quái vật như thế?
Và một cô gái đã mất đi ánh sáng, vẫn có thể đấu ngang ngửa với người được mệnh danh là “kỵ sĩ mạnh nhất thế giới”!?
Hai người này đúng là điên cả lũ rồi.
“Con đã làm được rồi đấy.”
Farrenberger từ tốn rút kiếm lại. Một tư thế như sắp chuyển sang bài kiếm tiếp theo. Nếu hai chiêu vừa rồi chỉ là “nhẹ nhàng khởi động”, thì cái gì sẽ đến tiếp đây?
“Con không muốn giết người, sensei.”
“Hừ, giờ còn biết khiêu khích à, Sieg. Trước kia đâu có dám lên mặt như thế chứ?”
“Không, ngược lại mới đúng.”
Cô gái bịt mắt vẫn chưa tung hết sức. Kiếm vẫn chưa nâng, dáng vẫn chưa vững.
“Cách duy nhất để đánh bại sensei... là phải giẫm lên tất cả những người khác. Nhưng con vẫn chưa thể chết. Không thể chết... khi vẫn chưa rời khỏi nơi này cùng Bệ Hạ.”
(…Bệ Hạ?)
Trong đầu tôi bỗng hiện lên khuôn mặt của nhà vua Revelwein, nụ cười nhếch mép đầy máu dưới khung cảnh xử tử tàn bạo. Nhưng hình ảnh đó… không hề khớp với giọng điệu vừa rồi: “Không thể chết nếu chưa đưa được Bệ Hạ rời đi.”
“Kẻ từng được gọi là Nanh Vuốt của Vương Quốc.”
Cánh tay già nua của Farrenberger bỗng căng lên,và đường kiếm ông đang cầm uốn cong như một con rồng, khiến cả không khí quanh đó méo mó như bị bóp nghẹt.
“Giờ ngươi lại định quay nanh vuốt vào chính vương quốc sao...?”
“...Ugh!”
Ngay lúc đó, cô gái hét lên.
“CHẠY ĐI!!”
(Hở...!?)
Tôi sửng sốt đến đơ người.
Vì rõ ràng là... cô ấy đang nhìn tôi.
Không, dùng từ "nhìn" với người bị bịt mắt thì nghe có hơi... lạ. Nhưng tôi chắc chắn cô ấy đang “nhìn thẳng” về phía tôi.
“CHẠY ĐI, PHÁP SƯ!!”
(Hở hở hở cái gì cơ!?)
Không thể nhầm được.
Từ thanh đại kiếm của Farrenberger, một thứ “nó” vừa được giải phóng…
(!?)
Khi ánh sáng chập chờn như lửa ma bắt đầu bốc lên từ lưỡi kiếm khổng lồ ấy, Farrenberger vung kiếm theo đường cong từ dưới lên.
Áp lực gió do đường kiếm ấy sinh ra…
Chẻ đôi cả trời đất.
UWAAAAAHHHHH!!
Một khe nứt khổng lồ hiện ra.
Mặt đất như trượt đi trong một trận lở đất, và tôi người vừa mất điểm tựa bị kéo theo thẳng xuống vực mở toang.
(Lee Lubra)
Tôi định niệm phép ngay trong đầu, nhưng tình huống diễn ra quá bất ngờ, quá nhanh, không cách nào kịp ứng phó.
Phòng thủ bằng sóng phép để cản chấn động à? Chuẩn bị kỹ rồi.
Nhưng ai mà ngờ được là đất nó sẽ… nứt đôi ra như quả trứng luộc chứ trời!?
Ngay lúc ấy, cơ thể tôi bị nhấc bổng lên.
!?
Một cánh tay ai đó chộp lấy tôi.
Và tôi rơi bịch xuống vùng đất vẫn còn lành lặn.
(A...)
“Tôi đã bảo cô chạy đi rồi mà, pháp sư.”
Cô gái che mắt nói vậy, trong khi ôm tôi bằng cả hai tay.
(...Cô ấy... cứu mình !?)
Không ngờ được.
Không ngờ là... cô ấy lại liều mình cứu một người xa lạ như tôi.
Chỗ tôi đứng cách đây vài giây... giờ chìm dưới một đống đổ nát, không khác gì sau một thảm họa thiên nhiên.
Tôi đã suýt bị chôn sống.
“Guh…”
Cô gái khuỵu xuống đầu gối.
Máu bắt đầu nhỏ giọt từ cơ thể cô, từng giọt tươi rói thấm đỏ nền đất.
"Dám quay lưng trong một trận đấu kiếm, hử...?" từ bên kia, lão kỵ sĩ già bước tới chậm rãi, mỗi bước như đạp nát không khí.
"Con bé đó quan trọng đến mức khiến ngươi phải quay lưng sao?"
(A...!)
Tôi hiểu ra ngay.
(Tất cả là lỗi của mình...!)
Trong lúc trận chiến đang nổ ra ác liệt, cô ấy… cứu tôi.
Và chính vì ôm tôi trong tay, cô ấy đã mở sơ hở và Farrenberger đã không bỏ lỡ.
Ack…
Cô gái đổ gục xuống đất.
Một vũng máu lan rộng dưới chân cô như muốn nuốt trọn cô luôn.
"Chờ đã!" Tôi sắp niệm phép chữa trị, nhưng giận dữ ngẩng đầu nhìn lên.
Và thấy…
Kỵ sĩ mạnh nhất thế giới, đang xách thanh đại kiếm to tổ bố, đứng chắn phía trước.
“Tránh ra.”
A-aah…
Tôi run lẩy bẩy vì sợ.
Ánh nhìn đó... như sư tử đã ngửi thấy mùi máu.
Không, đúng hơn là sát khí thuần túy, sức ép áp đảo làm cơ thể tôi run từ tận xương tủy.
Tránh ra, nếu không muốn chết.
U-.. Tôi sợ. Tôi thật sự sợ.
Tôi không muốn chết.
Tôi muốn bỏ chạy. Bỏ mặc cô ấy.
(Không không không không!!)
Nếu tôi không làm gì... cô ấy sẽ chết.
Và đó sẽ là lỗi của tôi.
Không.
Không được.
Không thể như thế.
"Otto... con là niềm tự hào của ta."
Không hiểu sao, giọng nói và gương mặt người thầy quá cố bỗng hiện lên trong đầu.
Và rồi...
Cơ thể tôi tự chuyển động.
Trước khi kịp nhận ra…
Tôi đã đứng chắn trước vị kỵ sĩ truyền thuyết, hai tay dang rộng, như muốn chắn cả một thế giới đang sụp đổ.
“...Cô nghĩ mình đang làm gì vậy?”
“Tôi sẽ không để ông qua.”
Tôi biết rõ đây là một nước cờ tự sát.
Biết luôn mình chẳng có một cơ hội sống sót nào trước mặt người được gọi là hiệp sĩ mạnh nhất thế giới này.
Nếu là bình thường, tôi đã quay đầu bỏ chạy như chuột gặp mèo rồi. Nhưng giờ thì không.
Cô ấy đang ở đây.
Cô gái bị thương vì cứu tôi.
Bỏ chạy bây giờ, khác nào vứt luôn cái gọi là lòng tự trọng vào sọt rác.
Thầy ơi… nếu thầy còn sống, chắc thầy cũng sẽ cười mỉm khi thấy tôi thế này.
Vậy nên, đây là canh bạc tất tay.
Tránh ra. Nếu không thì…
Giờ rồi!
Glow!
Không cần niệm chú.
Tôi xả phép thẳng luôn.
Một tia sáng phóng ra từ lòng bàn tay, bắn thẳng vào ngực Farrenberger.
Nhưng…
Vô ích.
Khi ánh sáng tan đi, ông ta vẫn đứng đó, không một vết xước.
Bộ giáp kia rõ ràng là được làm từ vật liệu kháng ma lực.
Tôi biết rồi, nhưng vẫn liều. Vì khoảng cách gần thế này, hơn nữa ông ta không đội mũ giáp, ít nhất cũng phải khiến ông ta giật mình chứ.
Không hề.
(Chắc ma thuật của mình hỏng rồi...)
Tôi thầm nghĩ như vậy, pha chút mỉa mai trong tuyệt vọng. Tật xấu cũ mỗi khi bị dồn vào đường cùng.
Aah... chắc tôi sắp chết thật rồi.
Xin lỗi thầy… Có lẽ con sẽ không thực hiện được lời hứa với thầy.
“Thật là trò trẻ con ngốc nghếch…”
Ông ta nhấc chân, bước thêm một bước nữa.
(...?)
Một tiếng huýt gió vang lên.
Âm thanh chói tai, ngắn ngủi. Nhưng ngay sau đó là một thứ tôi chẳng ngờ tới
Một tiếng hí ngựa.
Và rồi, một con ngựa đen, chính là con mà Farrenberger cưỡi lúc trước - xuất hiện và chắn ngay trước mặt tôi.
“Nuh-uh…”
Lão hiệp sĩ dừng tay.
Ông ta rút thanh đại kiếm lại, và bước lùi một bước.
Chắc ông ấy... không nỡ chém con chiến mã mình yêu quý.
Y…
“Kya...!”
Chuyện xảy ra quá bất ngờ.
Cơ thể tôi bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất như một cái túi đồ, và rồi…
“Ha!”
Cô gái với chiếc băng mắt thô bạo ôm lấy tôi, nhảy thẳng lên con ngựa đen, nắm dây cương và phi nước đại không chút chần chừ.
Farrenberger vung kiếm đuổi theo nhưng có vẻ cuối cùng ông ta nghĩ lại, có thể sẽ chém trúng con chiến mã thân yêu của mình, nên lưỡi kiếm lặng lẽ hạ xuống.
“Khoan đã…!”
Isabella hét lên từ phía sau, nhưng lúc đó thì chúng tôi đã thành một dấu chấm mờ trên nền trời xa tít.
Con ngựa phóng qua thành phố như một cơn lốc.
Mang theo tôi và cô ấy, xuyên qua từng con phố đang còn bốc bụi.
Tôi chỉ còn biết gắt gao ôm lấy cơ thể mảnh mai phía trước, cố không để bị văng ra ngoài khi mái tóc bạc óng ánh đập vào mặt, còn hình bóng của lão kỵ sĩ phía sau thì mờ dần theo từng cú phi nước đại.
Tôi không rõ chúng tôi đã chạy bao lâu.
Chỉ biết là, khi dừng lại, chúng tôi đã ở rất xa thành phố lâu đài, vùng ngoại ô hoang vắng trải dài không bóng người.
Con ngựa cuối cùng cũng dừng chân.
Tôi, người nãy giờ vẫn ôm cứng như bám vào mạng sống, mới dám thở ra một tiếng, rồi từ từ buông tay.
Trước mắt tôi là nửa thân trên của cô ấy, ướt đẫm máu. Tất cả là máu,máu của chính cô gái này đã chảy ướt cả áo tôi.
“Này, cô... vẫn còn đang chảy máu…”
Tôi chưa kịp nói hết câu thì
Cô gái mang băng mắt đổ người xuống, rơi khỏi lưng ngựa như một khúc gỗ bị mất trọng tâm.
“Ơ-Ơi này!”
Tôi nhào tới như bản năng thúc đẩy.
Nhưng cơ thể cô ấy đã ngã sõng soài trên mặt đất, tay chân vô lực như con rối bị cắt dây. Hoàn toàn bất tỉnh.
Chỉ có vệt máu đỏ dưới người là vẫn đang lan ra một cách lặng lẽ nhưng đáng sợ.
(Chết tiệt...!)
Tôi kiểm tra chỉ số ma lực.
Vẫn còn. Đủ! Vậy thì còn gì phải chờ?
“Lee Lubra Entul Lane…”
Tôi niệm chú như người sắp thi rớt kỳ cuối.
“Kết giới!”
“Chống trôi máu!”
“Phép nâng nhẹ!”
Ba phép được kích hoạt liên tiếp, không thở nổi.
Với “Kết giới”, một quầng sáng bao quanh thân thể cô ấy, tạm thời ngăn máu chảy nhờ ma lực.
Rồi dùng “Chống trôi máu” và “Phép nâng nhẹ”, tôi từ từ nâng cô gái lên không trung.
(Phải tìm nơi nào đó... Ơ... chỗ kia kìa!)
Tôi không biết là do chiến tranh hay do lốc xoáy, nhưng đằng kia có một tòa nhà với mái và tường gần như sụp đổ hoàn toàn. Có lẽ từng là nhà kho, hoặc chuồng ngựa, giờ thì chỉ còn lại đống đổ nát hoang tàn.
Tôi đưa cô gái vào trong.
Dù cơ thể đã được bao phủ bằng phép “Kết giới”, nhưng máu vẫn rỉ ra từ những kẽ hở, từng vệt đỏ thẫm loang lổ trên nền đất bụi bặm.
“Đỡ lên nào…”
Tôi nhẹ nhàng đặt cô ấy lên một bó rơm khô. Có lẽ đây từng là chuồng ngựa thật.
“Xin lỗi nhé, nhưng không sao đâu, vì… chúng ta đều là con gái cả!”
Tôi vừa nói vừa cởi bộ giáp dày cộp của cô ấy ra. Rồi đến lớp quần áo bên trong.
Trước hết, phải cầm máu đã, rồi khử trùng, khâu lại, sau đó truyền máu.
Khoan! Truyền máu á!? Có phép tạo máu không nhỉ?
Không không không, bình tĩnh, xếp thứ tự trước đã! Đầu óc rối loạn hết cả rồi!
Máu từ khắp nơi trên người cô ấy vẫn đang chảy.
Vết thương lớn nhất là sau lưng (và vâng, là lỗi của tôi), ngoài ra còn hàng tá vết chém khác, cả nông lẫn sâu. Nếu tính thêm cả sẹo cũ thì... chắc đến sáng cũng không đếm hết được.
“Đỡ lên…”
Tôi lại nhẹ giọng niệm chú, từ từ nâng cơ thể cô ấy lên, rồi tháo nốt giày và quần áo lót.
(Đã bao lâu rồi mình mới gặp một bệnh nhân bị thương nặng như thế này nhỉ…)
“Otto, hãy lắng nghe…”
Bất ngờ, một ký ức xưa cũ ùa về.
Là giọng của sư phụ.
Ngày ấy, người bệnh nặng.
Tôivới tất cả ma thuật chữa trị của mìnhvẫn không thể cứu nổi.
Người qua đời ngay trước mắt tôi.
Lần đó… là lần tôi hận cái thân nửa người hầu – nửa pháp sư của mình nhất.
(Lần này… mình sẽ không để mất nữa.)
Tôi chỉ mới gặp cô ấy hôm qua.
Tôi biết cô ấy là một hiệp sĩ của Revelwein, và có vẻ quen biết với Farrenberger từ trước.
Có lẽ còn đang bị truy nã bởi vương quốc.
Nhưng mà, không phải chuyện đó.
Người này đã cứu mạng tôi.
Vậy nên tôi phải cứu lại cô ấy, dù có phải đánh đổi bằng mạng sống của mình.
Tôi tin sư phụ cũng sẽ làm như vậy.
Nếu bỏ mặc cô ấy ở đây… thì ở kiếp sau chắc tôi cũng chẳng được siêu thoát đâu.
“Con không giỏi chiến đấu, nhưng con là thiên tài trong chữa trị.”
Nhớ lại câu nói ấy, tôi gom toàn bộ lượng ma lực còn lại vào lòng bàn tay.
(Chắc lại rút ngắn tuổi thọ vài năm nữa cho xem...)
Lại cái tật suy nghĩ kiểu buôn sỉ giữa lúc cấp bách. Một thói quen xấu, thiệt.
“Otto Hauptmann! Đệ tử xuất sắc của đại pháp sư Curios Le Moon!”
(Thưa sư phụ... xin người hãy cho con mượn sức mạnhchỉ lần này thôi!)
Tôi triệu hồi, như thể đang cất tiếng cầu nguyện.
“Hỡi Ý Niệm – Đại Thư Tịch!”
Ngay khi tôi hô to, một cuốn sách sáng lấp lánh hiện ra trước mắt tôi. Không cần lật, các trang tự động mở ra, ánh sáng trắng nhảy múa giữa các dòng ký tự ma pháp cổ xưa.
“Chương Máu và Thịt – Mục 36 – Đệ Thất Thuật Pháp… Sát Khâu!”
Tôi đọc to.
Ngay tức thì, một luồng ánh sáng như sợi chỉ bạc bay lượn trên không, rồi bám chặt lấy những vết thương sâu hoắm trên cơ thể cô ấy, khâu từng lớp da thịt bị rách nát như thể đang may vá một tấm áo rách tả tơi.
Đêm hôm đó… tôi không ngủ một giây nào.
Toàn bộ thời gian, toàn bộ ma lực, tôi đổ hết vào việc giành giật sinh mạng cho cô ấy từ tay thần chết.