Nói đi nói lại chắc cũng đến mòn tai người nghe rồi, nhưng sự thật là tàu ở đây mỗi giờ chỉ có đúng một chuyến mà thôi.
Nói cách khác, trừ phi có buổi tập câu lạc bộ từ sớm, tất cả học sinh đi học bằng tuyến đường sắt Isumi đều phải lên cùng một chuyến tàu. Thế nên đương nhiên, trong lúc tôi đang mải mê đọc sách từ ga Otaki thì cô ấy sẽ lên tàu ở ga Kuniyoshi. Mọi người hiểu tình cảnh hiện tại của tôi rồi đấy.
Suốt hai tuần vừa qua, cứ mỗi khi tàu đến ga Kuniyoshi thì ngay cả một dòng sách tôi cũng không đọc nổi. Dĩ nhiên, nếu cả hai đã cùng CLB thì lúc về nhà cũng thế thôi.
Không chỉ vậy, trong quãng thời gian ấy, chính bản thân tôi cũng đã có những thay đổi.
Cuối cùng, tôi cũng được bạn cùng lớp chủ động tới bắt chuyện ngoài giờ học.
“Mitsuya này, nghe bảo cậu đang hẹn hò với Kanda Inori lớp A hả?”
Tôi như chết lặng. Có vẻ như nhờ ơn cô gái nào đó cứ vô tư bắt chuyện với tôi bất kể nơi chốn, mà tin đồn ấy đã lan ra khắp trường rồi.
Hẳn ai cũng sẽ thấy khó hiểu nếu người xinh xắn dễ thương như Inori lại bám dính lấy tên lầm lì là tôi thôi. Đã vậy đương sự còn hồn nhiên thừa nhận chuyện hẹn hò, khiến vụ lùm xùm này càng thêm chấn động. Giờ đây, dù tôi có lên tiếng phủ nhận chuyện đó thì cũng chẳng ma nào thèm nghe nữa rồi.
Cơ mà, nhờ vậy nên tôi mới có thể trò chuyện đôi chút với các bạn cùng lớp.
Có điều, chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà bọn con trai lại nhìn tôi đầy ngưỡng mộ, còn đám con gái thì cứ căng mắt dò xét xem tôi có sức hút kỳ bí nào đó không. Nếu có thật thì tôi cũng muốn biết lắm chứ.
*
Hôm nào cũng vậy, cứ tan trường là tôi lại đến phòng Vật Lý, cũng là phòng sinh hoạt CLB thiên văn học. Hoạt động của CLB chủ yếu xoay quanh việc quan sát và ghi chép lại các hiện tượng ngoài vũ trụ. Ở đây còn giữ một cuốn sổ rất thú vị, lưu lại đầy đủ các sự kiện thiên văn trong hơn mười năm qua. Chỉ riêng việc đọc cuốn sổ ấy thôi cũng đáng để tôi gia nhập vào CLB này rồi.
Chẳng hạn như mấy năm trước, cả thế giới xôn xao vì độ sáng của Betelgeuse đột ngột giảm mạnh. Đó là một ngôi sao khổng lồ đỏ thuộc chòm Orion, được cho là sắp phát nổ rồi trở thành siêu tân tinh. Qua mục ghi chú, ta có thể thấy rõ tâm trạng “nửa mừng nửa lo” của các thành viên CLB hồi đó trước những biến động khó lường của Betelgeuse, kiểu như “Chắc là sắp rồi đó!” hay “Nhất định phải tận mắt chứng kiến sự kiện thiên văn thế kỷ này mới được!”
Nhớ lại những tháng ngày khi còn ở Tokyo, đêm nào tôi cũng ngước mắt nhìn lên Betelgeuse trên bầu trời như thế.
Thi thoảng, chúng tôi làm những thí nghiệm thử thách sự kiên nhẫn như dùng các “ống nhân quang điện” để dán kín mặt trong của một thùng phuy, đổ nước vào rồi chờ xem có “bắt” được vật chất tối đầy bí ẩn hay không. Có lúc, chúng tôi còn nhờ thầy Shido giải đáp những thắc mắc về vũ trụ. Trong khi Inori liên tục đưa ra các câu hỏi, Tatsumi-senpai chỉ biết tròn mắt ngạc nhiên, còn Amamiya thì vẫn cứ ngủ gà ngủ gật như bao ngày.
Qua quan sát, tôi nhận ra chủ tịch CLB - Tatsumi-senpai gần như chẳng biết gì về vũ trụ cả. Thậm chí, anh còn “mắt chữ A mồm chữ O” khi biết rằng hố đen là hình thái cuối cùng của các ngôi sao lớn.
Nghe đâu cho đến năm ngoái, anh vẫn là thành viên của CLB bóng chày. Chẳng biết vì lý gì mà Tatsumi-senpai lại chuyển sang CLB thiên văn học, nhưng chí ít thì anh còn nhiệt huyết hơn nhiều so với Amamiya.
*
Chiều hôm ấy, như thường lệ, tôi đến phòng sinh hoạt CLB sau giờ tan học thì thấy Tatsumi-senpai đang ném bóng vào tường theo một cách khá kỳ cục. Anh không dõi theo quỹ đạo của bóng mà cứ lơ đãng nhìn đi đâu đó, nhưng vẫn khéo léo cho bóng đập vào tường. Ở bên cạnh, Inori cũng quay mặt về một hướng nào đó, trong khi miệng vẫn đang lẩm bẩm điều gì không rõ.
Nhìn cảnh tượng lạ lùng ấy, tôi cất tiếng hỏi:
“Anh đang làm gì thế ạ?”
“A, Mitsuya đấy à. Inori-chan bảo nếu cứ ném bóng vào tường liên tục mà không nhìn bóng, có khả năng nó sẽ đi xuyên tường luôn đấy.”
“Xuyên tường ấy ạ?”
Tôi nhìn xuống quả bóng nhựa đầy màu sắc trong tay Tatsumi-senpai, trông nó chẳng có gì đặc biệt.
“Ý cậu là sao?” Thắc mắc không biết dụng ý của Inori là gì, tôi bèn hỏi.
“Cậu có biết cái gọi là ‘hiệu ứng đường hầm’ không?”
Hình như trước đây tôi đã từng thấy khái niệm này trong một tạp chí vũ trụ, nhưng lúc đó chỉ mới đọc lướt qua thôi chứ chưa tìm hiểu kỹ.
“Để hiểu được hiệu ứng này thì ta phải nắm chắc kiến thức nền tảng về cơ học lượng tử.”
Đúng lúc đó, thầy Shido bước vào phòng sinh hoạt CLB rồi nhập hội trò chuyện.
Còn Amamiya thì… tất nhiên là vẫn đang say giấc nồng rồi.
Đứng trên bục giảng, thầy Shido bắt đầu giải thích:
“Cơ học lượng tử là ngành nghiên cứu đặc tính và hiện tượng của những ‘lượng tử’ - tức các hạt rất nhỏ như nguyên tử, phân tử và cả hạt sơ cấp nhỏ đến mức không thể tách rời nữa. Nói cách khác, đó là ngành cơ học nghiên cứu thế giới vi mô vô hình, đồng thời là nền tảng của vũ trụ. Nếu muốn tìm hiểu về khởi nguồn của vũ trụ thì chắc chắn không thể bỏ qua cơ học lượng tử. Nhưng mà nó lại vô cùng phức tạp. Phức tạp ở chỗ nào ư? Nôm na đại khái thế này, trong thế giới lượng tử có vô số hiện tượng đi ngược lại với thường thức ở thế giới vĩ mô. Vậy nên nó mới rất rất khó hiểu, đến mức người ta còn có câu nói mỉa mai thế này: ‘Ai tự nhận mình hoàn toàn hiểu về cơ học lượng tử thì chứng tỏ người ấy chẳng hiểu gì hết.’”
Dứt lời, thầy giơ một ngón tay lên, đoạn quay về phía Tatsumi-senpai.
“Tatsumi, em ném quả bóng kia cho thầy.”
Nghe vậy, Tatsumi liền ném quả bóng cho thầy bắt lấy.
“Giả như quả bóng này là electron đi. Electron chính là một hạt lượng tử. Trong thế giới vi mô vô hình bé xíu mà cơ học lượng tử nghiên cứu, người ta đã quan sát được những hiện tượng trái ngược với lẽ thường. Thầy tóm tắt kết quả trước: Ở thế giới vi mô, quả bóng này có thể xuyên tường.”
“Ể!” Tatsumi-senpai thảng thốt, ú ớ vì ngạc nhiên.
“Tại sao lại thế? Nguyên do nằm ở đặc tính riêng của lượng tử. Nếu quả bóng này nhỏ như electron thì ai mà chẳng nghĩ nó là hạt. Quả thực, nó cũng là hạt đấy. Chính nhà khoa học vĩ đại Einstein đã chứng minh điều đó.”
Vừa nói, thầy vừa giơ quả bóng lên cao.
“Dù là hạt nhưng nó cũng mang tính chất của sóng. Để mà giải thích chi tiết thì dài dòng văn tự lắm nên thầy nói vắn tắt thế này. Theo thí nghiệm ‘Hai khe hẹp’, hiện tượng vân giao thoa chỉ có thể xảy ra nếu vật đó là sóng. Vậy mà khi người ta tìm cách quan sát thứ ‘sóng’ đó, ngay lập tức nó co lại thành dạng hạt. Tức là khi ở ngoài tầm mắt mọi người thì nó sẽ như sóng, nhưng hễ có ai quan sát thì nó lại trở về dạng hạt. Nói nôm na thì nó giống như giọt nước lan ra thành màn sương mỏng khi không có người nhìn vậy.”
Cách nói ví von của thầy khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh giọt nước chuyển thể thành hơi rồi lơ lửng trong không khí.
“Nghe thì khó tin vậy thôi, chứ trong thế giới lượng tử, vì không biết nguyên nhân cụ thể nên người ta đã luôn mặc định ‘bản chất nó là như thế’. Thực tế, khi coi hạt lượng tử cũng là sóng rồi tính toán thì có thể diễn giải chính xác những kết quả thí nghiệm trong thế giới vi mô từ trước tới giờ.”
“Chỉ không bị nhìn thôi mà đã biến đổi thì ai mà tin được chứ!” Tatsumi-senpai lớn tiếng vì ngạc nhiên.
“Ừ, ai cũng thấy phi lý như em vậy. Nhưng đó lại là nền tảng của cơ học lượng tử. Khi không có ai quan sát, electron như biết phân thân, tồn tại chồng chập ở nhiều trạng thái khác nhau. Không phải là ‘trông nó như thế’, mà electron thực sự phân bố xác suất lan tỏa(?) như sương mù. Ngay khi bị quan sát, dạng sóng co lại thành dạng hạt, và trong vô số khả năng hiện hữu, chỉ có duy nhất một kết quả cố định mà thôi.”
Tatsumi-senpai nhíu mày, xem chừng không hiểu nổi những gì thầy nói.
“Giả dụ như em là electron và đang ngồi ở góc phải lớp đi. Khi không bị ai nhìn, em có thể một lúc ngồi ở tất cả các chỗ trong phòng, thậm chí còn ở ngoài hành lang.”
“Ể, ngoài hành lang luôn ấy ạ?”
Thầy Shido gật đầu.
“Bình thường nếu muốn đưa em hoặc quả bóng này ra ngoài bức tường kia thì phải gia tăng năng lượng để phá vỡ bức tường đúng không? Nhưng không cần thêm năng lượng làm gì cả, vì cứ thỉnh thoảng là electron lại tự ‘thoát’ khỏi chiếc hộp đang giam giữ nó, dùng thuật ngữ chuyên môn để biểu đạt thì là ‘xuyên hầm lượng tử’. Cứ như có một đường hầm vô hình thông qua tường vậy. Hiện tượng đó gọi là ‘hiệu ứng đường hầm’, xảy ra vì electron có tính chất của sóng. Khi không bị quan sát, electron trong hộp sẽ lan ra như sương, tồn tại đồng thời ở nhiều vị trí, trong đó có một xác suất cực nhỏ là lan ra cả bên ngoài bức tường. Không cần thêm năng lượng mà vẫn làm thế được thì đúng là khó tin thật. Đương nhiên, ở thế giới vĩ mô chúng ta thì gần như chẳng bao giờ có chuyện đó. Nói ‘gần như’ vì không hẳn là 100%. Mọi vật chất trong vũ trụ đều được cấu thành từ lượng tử và có tính chất của sóng. Do đó, nếu cứ ném quả bóng vào tường liên tục thì biết đâu… Ý Kanda là vậy chứ gì?”
“Vâng ạ!” Inori gật đầu cái rụp.
Ra là vậy. Nếu tôi hứng thú về khía cạnh thiên văn học thì cô ấy lại cuồng vũ trụ đến mức tìm hiểu cả về lĩnh vực cơ học lượng tử nữa. Chẳng trách tại sao Inori lại hăng say tính toán mấy cái “xác suất định mệnh” như thế.
Trong khi đó, Tatsumi-senpai vẫn làm ra bộ mặt cau có vì chẳng hiểu gì.
“Haha, Tatsumi không hiểu cũng chẳng sao đâu. Ngay cả Einstein hay tiến sĩ Schrödinger – người đưa ra giả thuyết lượng tử mang tính chất của sóng còn qua đời trước khi kịp lý giải đến nơi đến chốn mà. Thế giới lượng tử quả thực rất phi lý.”
Cách diễn giải xác suất của cơ học lượng tử, rằng “trạng thái của một vật sẽ không cố định cho đến khi được quan sát” đã từng khiến Einstein phải buông lời châm biếm: “Thượng đế không gieo xúc xắc.” Ông không thể chấp nhận sự ngang trái, phá vỡ luật nhân quả của hạt lượng tử được.
“Tiện đây, thầy sẽ kể cho các em nghe một câu chuyện nổi tiếng liên quan đến cơ học lượng tử.”
Nói đoạn, thầy ném lại quả bóng cho Tatsumi-senpai.
“Có một thí nghiệm tưởng tượng gọi là ‘Con mèo của Schrödinger’. Giả sử có một chiếc hộp kín, không thể nhìn vào bên trong. Bên trong là nguyên tử mà sau một tiếng sẽ có 50% tỉ lệ phân rã, kèm theo thiết bị đo phóng xạ. Khi phát hiện nguyên tử phân rã, thiết bị này sẽ thải khí độc cyanua.”
Vừa nói, thầy vừa vẽ một cái hộp vuông cùng thiết bị gì đó lên bảng.
“Giờ thì cho một con mèo vào chiếc hộp rồi đậy kín nắp. Sau một giờ đồng hồ, nếu nguyên tử ấy phân rã thì tất nhiên con mèo sẽ chết vì khí độc. Còn nếu không thì con mèo vẫn sẽ sống.”
Thầy vẽ tiếp hai trường hợp con mèo còn sống và đã chết lên bảng.
“Phân rã hạt nhân là hiện tượng thuộc thế giới lượng tử. Vậy nên bên trong chiếc hộp, tình trạng ‘chưa phân rã’ và ‘đã phân rã’ chồng chập lên nhau. Từ đó người ta rút ra kết luận: Cho tới khi mở hộp quan sát, con mèo sẽ ở trong trạng thái vừa sống vừa chết.”
“Có chuyện đấy thật ạ?” Tôi vô thức hỏi lại.
“Nghe vô lý đúng không? Vốn dĩ đây chỉ là thí nghiệm tưởng tượng để chỉ ra lỗ hổng của cơ học lượng tử thôi. Với công nghệ hiện nay thì không thể làm ra cái hộp đó, cũng chẳng có cách nào xác minh được. Rốt cuộc, ta vẫn không thể chứng minh sự bất toàn của cơ học lượng tử nếu chỉ lập luận dựa trên nền tảng của nó.”
Càng nghe, Tatsumi-senpai càng nhăn nhó.
Thú thực, từ nãy tôi đã từ bỏ việc cố gắng hiểu tường tận bài giảng của thầy Shido rồi. “Ai tự nhận mình hoàn toàn hiểu về cơ học lượng tử thì chứng tỏ người ấy chẳng hiểu gì hết.” Nếu đúng là vậy thì chẳng phải trên đời này chẳng ai thực sự hiểu cơ học lượng tử hay sao? Để rồi rốt cuộc, chúng ta chỉ còn cách chấp nhận “bản chất nó là như thế” thôi.
Bất chợt từ đâu, một giọng nói lạ tai vang lên từ phía sau:
“Nếu trong hộp không phải là một con mèo mà là người, rồi ai đó đem cái hộp giấu đi. Một giờ sau, có người tình cờ tìm thấy chiếc hộp, mở ra thì phát hiện người bên trong đã chết. Thế thì ai mới là kẻ giết người vậy ạ? Là người nhốt nạn nhân vào học, hay là người mở hộp vậy thầy?”
Ngoảnh lại, tôi thấy một Amamiya say ngủ nãy giờ đang uể oải chống cằm. Hiếm khi cậu ta tham gia sinh hoạt CLB mà tỉnh táo, ai dè vừa mở miệng ra đã nói chuyện sặc mùi nguy hiểm.
Trước câu hỏi của Amamiya, thầy Shido khoanh tay rồi khẽ hừ một tiếng.
“Ừm, câu hỏi hóc búa đấy. Rõ ràng kẻ đầu tiên có thể xem là phạm tội mưu sát, nhưng theo lý thuyết thì chuyện sống chết thế nào chỉ được định đoạt vào thời khắc mở hộp. Nếu người mở nắp biết về thí nghiệm ‘Con mèo của Schrödinger’ mà vẫn mở chiếc hộp thì có thể bị kết tội giết người.”
“Vậy nếu muốn cứu người trong hộp mà mở nắp thì khả năng cao sẽ bị coi là giết người ạ?” Inori tròn mắt, lặp lại lời thầy.
“Đứng trên góc nhìn của khoa học thuần túy thì đúng là không loại trừ khả năng ấy.”
“Thế mà cũng được ạ…?” Inori lẩm bẩm với vẻ bất bình.
“Vậy thì thủ phạm là kẻ mở hộp, còn người nhốt thì kể cả nạn nhân có chết cũng không bị kết tội đúng không ạ?” Amamiya tiếp tục hỏi.
Chẳng hiểu cậu ta nghĩ gì mà lại đi hỏi giáo viên Vật Lý chuyện này nữa?
“Xét trên phương diện pháp luật thì đây chỉ là giả thuyết thôi chứ trường hợp này chưa từng có tiền lệ. Thầy cũng không dám phủ định khả năng đó.”
“Nếu không bị kết tội giết người thì đây là tội ác hoàn hảo rồi còn gì.”
Vừa nói, Amamiya vừa nhếch môi, nở một nụ cười ám muội.
Nhìn nụ cười ấy, tôi tự nhủ rằng mình không nên dính dáng gì đến cậu ta.