CHAP 28 – MÀN ĐÊM NHẠT NHOÀ
Dòng chảy cuộc sống, như thường lệ sẽ khác xa so với những lời kể kỳ diệu được thêu dệt lên trong những câu chuyện cổ tích. Một sự khác biệt rõ ràng giữa hiện thực và ảo mộng, là ở hiện thực chúng ta phải giải quyết vô số là những vấn đề trần tục nhưng lại có những chi tiết thật rõ ràng mà chúng ta thường bỏ qua.
Xem xét thử xem: Liệu một con búp bê bị nguyền rủa có cần phải bảo dưỡng định kỳ các khớp nối không? Điều gì sẽ xảy ra nếu như thói quen tháo rời các khớp nối của Alice lại dẫn đến những lần rơi rớt bất thình lình trong lúc cô ấy đang đi dạo trên boong? Và còn hạn sử dụng của những miếng thịt ướp muối và những cục phô mai khô được lưu trữ trên con tàu ma này thì sao?
Ngay cả những siêu anh hùng, những người thường hay trà trộn vào thường dân vào buổi sáng và đi đánh nhau với những thế lực đen tối khi đêm xuống, thì thời gian nghỉ ngơi của bọn họ nằm ở đâu? Và những thế lực độc ác đó, sau một trận chiến long trời lở đất với những siêu anh hùng, họ có cần phải bước vào tiệm tạp hoá và mua về những vật dụng thiết yếu, tầm thường hay không?
Những câu chuyện cổ tích và truyền thuyết như thế thường rất ít khi đào sâu vào những chi tiết nhỏ nhặt này. Đối với những câu chuyện như vậy, thì các nhân vật vẫn sẽ luôn mới mẻ như một tờ giấy trắng và các ấn tượng cũng sẽ chỉ thoáng qua như một cơn gió mà thôi. Và trong câu chuyện này, cô nàng búp bê chỉ cần đột nhiên xuất hiện từ góc tối nào đó để làm các khán giả ngạc nhiên, và vị thuyền trưởng trên con tàu ma này sẽ chẳng bao giờ cần phải để ý tới những miếng thịt ướp muối và những miếng pho mát dường như đã quá hạn từ một thế kỷ trước.
Nhưng không, trái ngược với những câu chuyện ăn liền đó, thì thực tại đây lại vẽ lên một bức tranh hoàn toàn khác biệt. Sau khi bị nước biển thấm vào người, cô nàng búp bê bị nguyền rủa liền bắt đầu cảm thấy ngứa ngáy và khó chịu khắp nơi, thậm chí còn phải suy nghĩ xem làm cách nào để có thể rửa đi những hạt muối nhỏ li ti đang len lỏi trong những khớp nối ấy của cô…
Trên boong tàu, Duncan thở dài một hơi, với việc ngày càng nhận ra rõ ràng hơn, rằng nếu chỉ với một lòng quyết tâm không vững thôi thì sẽ chẳng bao giờ có thể đủ để anh có thể sống sót trên con tàu này.
Anh nhận ra rằng mình cần phải đối mặt với rất nhiều vấn đề thực tế khác nhau, đặc biệt là những thứ được nảy sinh ra kể từ khi số lượng thuyền viên trên con tàu được tăng lên.
Và giờ anh cũng mới nhận ra, rằng con tàu ma này cũng không hề được trang bị quá nhiều những tài nguyên dùng để sinh sống.
Đúng thật là con tàu có một nguồn nước sạch vô hạn. Nhưng tuy nhiên ngoài việc đó ra, thì thức ăn lại không hề có thể thần kỳ mà tự động làm đầy lại được. Và những thứ duy nhất có thể ăn được chỉ có thịt ướp muối và những miếng phô mai cứng mà thôi. Trong khi những thuộc tính độc nhất trên con tàu có thể ngăn bọn chúng không bị ôi thiu, thì Duncan cũng không thể nào mà không nghĩ tới việc bọn chúng đã ở trên này ít nhất cũng đã hơn 100 năm rồi.
Với lại trên con tàu cũng không có một bộ đồ nào để Alice có thể mặc vừa (mặc dù cô ấy không có nhu cầu), và cũng không hề có một hình thức giải trí nào cả - thậm trí một bàn cờ hay là một bộ bài cũng không hề được tìm thấy.
Lạc trôi giữa biển cả vô tận này, một con tàu hùng vĩ mang tên “Vanished” thấy rằng nó thật khó khăn để có thể tìm cho mình những nguồn hàng hoá thật thụ. Nó thiếu đi một “bến cảng”, một nơi mà nó có thể nghỉ ngơi và sửa chữa, đồng thời cũng thiếu đi một kênh liên lạc với những thành quốc nguỵ tạo nơi đất liền.
Cái đầu dê gỗ ấy thì dường như chả có vấn đề gì trước tình trạng khó khăn này cả, hoàn toàn trái ngược lại với Duncan, một người hiện phải thật sự nghiêm túc suy nghĩ về việc đó. Anh cần phải vạch ra một kế hoạch cụ thể nào đó để giải quyết tình trạng thiếu hụt này trên con tàu Vanished.
Vả lại, Duncan cũng bắt đầu cân nhắc về việc lập nên một mạng lưới kết nối giữa con tàu với những “thành quốc” trên đất liền.
Việc trôi dạt vô định giữa đại dương là một cách cực kỳ kém hiệu quả cho việc khám phá thế giới. Và sau chuyến đi linh giới trước đó, Duncan hiểu được rằng nếu như muốn có được một kiến thức toàn diện về thế giới này, thì anh cần phải tìm kiếm chúng ở trên đất liền cơ.
Cũng bởi vì sức khoẻ tinh thần và thể chất của chính anh, anh cũng cần phải tương tác nhiều hơn với những thành quốc trên đất liền và đồng thời cũng gia nhập vào một xã hội văn minh của thành quốc ấy. Nếu không thì anh lo là mình sẽ trở thành một vị thuyền trưởng tiêu cực, kỳ quặc và chống đối xã hội sau những năm tháng vô định giữa đại dương mất.
Với những kết luận này trong đầu, Duncan xoay nhẹ đầu và liếc nhìn Ai, một chú chim bồ câu đang bận rộn chải chuốt bộ lông của mình trong khi đang thoải mái đậu trên vai anh.
Anh chủ yếu hướng sự chú ý của mình về chiếc la bàn bằng đồng đang treo trên cổ của Ai. Chú bồ câu nghiêng đầu, tỉ mỉ quan sát “chủ nhân” của nó rồi cất tiếng, “Xây dựng căn cứ! Trải thảm nấm ra! Ngươi có biết làm bất cứ thứ gì không vậy?”
Duncan khẽ giật mình, đôi chân mày của anh cũng nhăn lại mà trầm ngâm. Chú chim bồ câu này, hầu hết dường như trông rất vô tư, nhưng đôi lúc nó lại đột ngột thốt ra những câu từ cũng rất phù hợp một cách đáng kinh ngạc với hoàn cảnh hiện tại. Những lời nhận xét đột ngột đó từ nó lại khiến Duncan cũng phải nghi ngờ về một mức độ thông minh đang ẩn đằng sau dáng vẻ ngu ngơ của chú chim này.
Với tình cảnh hiện tại, việc di chuyển xuyên qua linh giới lại chính là con đường duy nhất để anh có thể đến những thành quốc đó. Cho dù có là một bản chất khó đoán của cõi linh giới hoặc là một hiện diện bí ẩn của chú bồ câu “Ai” trong lần di chuyển trước, thì Duncan cũng hiểu rõ, rằng anh cũng sớm cần phải thực hiện thêm một lần chiếu nữa. Bởi việc đó không chỉ để thu thập thêm thông tin về nơi đất liền, mà cũng để anh nhanh chóng xác nhận và nắm bắt được những cơ hội có thêm được những kĩ năng mới.
Và thêm một điều thú vị không kém, là chú bồ câu Ai có một khả năng kì lạ có thể mang lưỡi dao tế lễ lên con tàu từ một nơi đất liền rất xa. Nếu như chú chim này có thể mang lưỡi dao đến đây, vậy thì mang vật phẩm từ đây đến đó thì sao? Có những quy tắc hay là một giới hạn nào đó về khả năng vận chuyển của chú chim này không? Và liệu khả năng này có thể được kiểm soát chứ?
Sau một hồi suy ngẫm, Duncan quyết định hỏi thẳng chú chim, “Mày có biết mày đem lưỡi dao này về đây bằng cách nào không?”
Chú bồ câu nghĩ ngợi một hồi rồi sau đó nghiêm túc trả lời. “Không đủ quặng pha lê.”
Duncan: “….”
Anh quyết định tạm thời dừng cuộc thảo luận với chú chim này lại, quyết định sẽ cố gắng hiểu nó trong chuyến hành trình linh giới lần tiếp theo.
…
Trong khi ấy, bên trong một căn cabin nọ, Alice cuối cùng cũng đã hiểu được cách vận hành của ống nước sau những lần thử và thất bại tương đối đáng kể. Đồng thời cũng tìm ra được một cách cơ bản để có thể tắm rửa.
Với những hạn chế trên con tàu ma, cô chỉ có thể được tắm bằng nước lạnh mà thôi – nhưng với một con búp bê như cô, việc này cũng khó mà thành vấn đề.
Tuy nhiên trước khi cô có thể tận hưởng bên trong bồn tắm, cô quyết định sẽ giới thiệu bản thân với tất cả mọi thứ xung quanh trước.
Cô nhẹ nhàng vỗ chiếc thùng gỗ sồi, gõ nhẹ vào những thanh cột chống đỡ căn cabin, tinh nghịch đá nhẹ vào sàn gỗ bằng những ngón chân của mình, và vươn tay ra để chơi đùa với những sợi dây thừng và móc treo từ trên trần cabin.
“Xin chào, tên tôi là Alice,” cô nhiệt tình chào hỏi những vật dụng lạnh lẽo, vô hồn, tương tự như cách mà cô chào đầu dê từ nhiều phút trước. “Từ giờ tôi sẽ sống ở trên con tàu này.”
Không có thứ gì đáp lại những lời chào ấm áp ấy của cô cả, nhưng Alice vẫn không hề bị lung lay.
Bởi đầu dê khi nãy có nhắc cô rằng, con tàu mang tên “Vanished” này, cùng với nhiều thứ khác, đều thực sự rất “sống”.
Cho dù có một sự thật, rằng bọn chúng dường như đều không có sở hữu một trí thông minh tương tự như đầu dê, hoặc có cho mình một khả năng trò chuyện, thì Alice cũng không hề để việc đó có thể ngăn cô khỏi việc đối xử với toàn thể tàu Vanished này như là một trong những “đồng nghiệp” cùng chung sống trên con tàu, và tất cả bọn họ đều được xứng đáng được chào hỏi một cách tử tế.
Cô là một thực thể có tri giác, và Vanished cũng thế.
Sau khi chắc chắn rằng những lời chào hỏi của cô đã đủ lịch sự và đàng hoàng, Alice cảm thấy phấn chấn hơn. Sau đó, với một đôi tay điêu luyện, cô khéo léo thả lỏng từng nút cài trên bộ váy lộng lẫy, và với từng động tác nhẹ nhàng, bộ váy bắt đầu tuôn ra từ vai cô rồi dần dần được cởi bỏ, cô thoát ra khỏi bộ váy, lúng túng bước vào một bồn tắm gỗ sồi đã đầy nước.
Điều đầu tiên cần phải làm trong quá trình tắm rửa của mình, là cô cần phải cẩn thận tháo rời cái đầu của mình ra để có thể lau chủi một cách thật kỹ lưỡng, cũng vì cô cho rằng những khớp nối tại cổ của cô lại chẳng hề được chắc chắn cho lắm.
Và đó chính là một chiến thuật tắm rửa mà quý cô búp bê này đây cho rằng là cực kì logic.
…
Trong lúc ấy, khi một ngày rộn rã tại thành quốc Pland đang dần khép lại, một “Hòn Ngọc Đại Dương” hoa lệ đang dần nhường chổ cho một màn đêm tĩnh lặng dưới một nền sao yếu ớt.
Len lỏi trong màn đêm thanh bình và tĩnh lặng, luôn luôn là những con người đang canh gác một giấc ngủ yên bình của thành phố.
Tại đỉnh kiến trúc cao nhất của thành quốc Pland, đang đứng một người phụ nữ với một vẻ ngoài tuyệt trần đang ngắm nhìn toàn cảnh thành phố từ một toà Tháp Đồng Hồ nguy nga, tráng lệ, trong khi xoã ra một mái tóc dài màu bạch kim, phấp phới trong làn gió se se lạnh của khí trời về đêm. Cô là một cô nàng cao to và cường tráng, dễ dàng vượt qua chiều cao trung bình của nhiều người đàn ông. Nhưng những gì đặc biệt về cô đều được chú ý bởi một vết sẹo rõ ràng chạy ngang qua mắt trái – một cảnh tượng gợi lên đồng thời là một sự ngưỡng mộ và sợ hãi.
Người phụ nữ ấy được trang bị lên mình một bộ giáp hạng nhẹ màu xám bạc cùng với một chân váy chuyên dùng trong chiến đấu, đồng thời hiện lên những đường cơ bắp săn chắc cho thấy một chế độ luyện tập cực kì khắc khe của mình. Bên cạnh, được nằm trong tầm với của cô là một thanh đại kiếm liên tục ánh lên những đường sáng bạch kim. Với một chuôi cầm được khắc lên những biểu tượng từa tựa những cơn sóng, và óng ánh trên lưỡi kiếm là những gợn sáng rực rỡ, tựa như những đường gợn sóng từ một giọt nước khẽ rơi trên một mặt hồ tĩnh lặng.
Phía sau cô, là một nhịp âm máy móc được vang vọng qua một không gian tưởng chừng như tĩnh lặng này – một trái tim cơ giới của toà tháp, một màn trình diễn tuyệt vời của một sức mạnh từ công nghệ hơi nước. Những chiếc bánh răng và những kết cấu cơ học, những chi tiết cấu trúc tinh xảo và những liên kết tỉ mỉ, tất cả đều được trải dài từ trần cao cho tới sàn của toà tháp, liên tục thúc đẩy sự chuyển động của bốn mặt của chiếc đồng hồ và một thiên thể bí ẩn được ẩn giấu sâu bên trong cấu trúc này.
Dựa vào một âm thanh nhất quán, thứ cỗ máy phức tạp này hẳn đang hoạt động trôi chảy trong một trạng thái từ thuở nguyên sơ, không hề bị ảnh hưởng bới bất kì những thế lực tăm tối nào đang chực chờ để làm nhơ nhuốt đi một lõi hơi nước linh thiêng. Nhưng tuy nhiên, vẫn có một cảm giác tương đối khó chịu, kích động một sự cảnh giác trong lòng của một người đang đứng trên đỉnh quan sát ấy. Cô ấy tên là Vanna, một nữ thẩm tra của thành phố Pland. Đó là một linh cảm dai dẳng đang ám chỉ về một tai hoạ đang đến gần, là một nỗi kinh hoàng mà cô có lẽ không thể nào ngăn chặn, góp phần tăng thêm một nỗi chán nản và thất vọng tự sâu trong cô.
Những tiếng bước chân vang lên, thu hút sự chú ý của cô nàng thẩm tra viên. Một người đàn ông trong một bộ lễ phục linh mục của Giáo hội Bão Tố xuất hiện, mang theo một lư hương bằng đồng với một luồng khói nhẹ nhàng cuồn cuộn xung quanh anh ta. Bước đến cột trung tâm của tháp đồng hồ, anh đổi đầu đốt thành cái mới. Mắt anh dõi theo những luồng khói, đảm bảo rằng chúng đều hoàn toàn luồn lỏi qua những bánh răng và những liên kết cơ giới trước khi cầu nguyện về cái tên của Nữ thần Bão Tố.
Xoay người lại về hướng Vanna, anh lặng lẽ chào cô. “Chào buổi tối, thẩm tra Vanna. Ngài lại canh gác đêm nay nữa nhỉ?”
“Tôi cảm thấy khó chịu bởi một điềm báo đáng ngại nào đó trong vài ngày qua, và đêm nay dường như cảm giác ấy còn rõ ràng hơn lúc trước.”
“Một cảm giác về một điềm báo sao? Cô cảm thấy như thế nào?” Vị linh mục ngước nhìn cô, dâng trào một cảm giác lo lắng qua ánh mắt của mình. “Nữ thần đã gửi thông điệp nào cho cô chưa?”
“Không phải một thông điệp rõ ràng,” nữ thẩm tra viên trẻ tuổi lắc đầu, “nó chỉ là một cảm giác mơ hồ… như rằng có một thứ gì đó đang tiến tới thành phố của chúng ta.”