Imperfect Girl

Chương kế tiếp:

Truyện tương tự

Trùng sinh: Song sinh nhà bên mới trưởng thành

(Đang ra)

Trùng sinh: Song sinh nhà bên mới trưởng thành

Nhất Vũ Thiên Thanh; 一雨天青

"Không có ý gì cả, chỉ là thấy mẹ các em đối xử với anh rất tốt nên không muốn đổi mẹ vợ thôi."

286 1261

Tôi chuyển sinh thành một tên mob tà giáo trong con game eroge toàn một lũ cuồng dại liều chết

(Đang ra)

Tôi chuyển sinh thành một tên mob tà giáo trong con game eroge toàn một lũ cuồng dại liều chết

へぶん99

Tuy nhiên, hình như phe tôi chỉ toàn một lũ điên, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để giành chiến thắng.

22 46

Nữ chính loli lại là kẻ liếm tôi điên cuồng nhất!

(Tạm ngưng)

Nữ chính loli lại là kẻ liếm tôi điên cuồng nhất!

东海神宫龙中杰 (Đông Hải Thần Cung Long Trung Kiệt)

Một câu chuyện đầy nghịch lý, hài hước và ngọt ngào, nơi thế giới xoay ngược, chính tà lẫn lộn,và tình cảm khởi nguồn từ những điều… chẳng ai ngờ tới.

30 103

Tôi bị bạn thuở nhỏ cắm sừng nhưng tôi muốn sống một cách hạnh phúc với dàn hậu cung ở thế giới nơi quan niệm về sự trong trắng bị đảo ngược

(Đang ra)

Tôi bị bạn thuở nhỏ cắm sừng nhưng tôi muốn sống một cách hạnh phúc với dàn hậu cung ở thế giới nơi quan niệm về sự trong trắng bị đảo ngược

みどりの

Tatara Kyousuke, học sinh năm nhất cao trung, đã được Murakami-một người bạn cùng câu lạc bộ bơi lội cho xem một đoạn phim. Đó là đoạn phim làm tình của bạn gái Kyousuke, Himakawa Hina, với một người

43 371

Danshida to Omotte Ita osananajimi to No shinkon seikatsu Ga umaku Iki sugiru ken Ni tsuite

(Đang ra)

Danshida to Omotte Ita osananajimi to No shinkon seikatsu Ga umaku Iki sugiru ken Ni tsuite

Hamubane

Từng chút một, mối quan hệ của họ dần thay đổi.

52 7065

Oneshot - 10

Ngay cả mười năm trước, tôi cũng đã biết đến chuyện có những kẻ giả vờ quan tâm để lợi dụng trộm đồ của người khác. Nhưng khi đó tôi chẳng đời nào nghĩ mình sẽ là nạn nhân của một trò như vậy. Vì tôi chưa từng xem đó là khả năng có thể xảy ra, nên có lẽ khi ấy tôi vẫn còn khá ngây thơ và ít đa nghi hơn bây giờ.

Giờ đây, tôi sợ trộm đến mức không thể ngủ ở nơi công cộng. Không phải trên tàu, không phải trên máy bay, và cũng không phải ở bất kỳ chỗ nào tương tự. Nếu có lần nào tôi lăn ra ngủ vì kiệt sức giữa đường, thì việc đầu tiên tôi làm khi tỉnh dậy luôn là kiểm tra xem ví mình còn đó không.

Tất nhiên, hồi đó tôi chỉ có một mục tiêu rõ ràng: đến trường để dự ca học. Có thể vì vậy mà tôi không nghĩ đến những chuyện như thế, không phải vì tôi bao dung gì cho cam, mà đơn giản chỉ vì tôi ưu tiên việc khác hơn.

Nếu hôm ấy trong giờ học tôi có cơ hội lấy thẻ sinh viên ra dùng, chắc tôi đã phát hiện ra là nó đã bị mất. Tiếc là chẳng có dịp nào như vậy. Giờ thì tôi có thể nói luôn: trên thẻ sinh viên ấy có in địa chỉ căn hộ nơi tôi đang sống lúc đó, một chi tiết vô cùng quan trọng về sau.

Dù sao thì, tôi vẫn dắt xe đạp đến khu gửi xe (cũng khá chật vật vì bánh sau đã bị vặn méo. Tôi thấy bực mình khi nghĩ đến cảnh phải kéo nó về nhà, nhưng đó là chuyện nhỏ nhất tôi cần lo). Tôi kịp đến lớp đầu tiên trong gang tấc, rồi trải qua một ngày học hoàn toàn bình thường. Tôi không hề biết đó sẽ là lần cuối cùng tôi được tận hưởng cảm giác “bình thường” ấy trong một thời gian dài.

Tuy nhiên, để bảo vệ chút sĩ diện còn sót lại, tôi phải nói rằng tôi không hoàn toàn vô cảm trước điềm xấu. Cảm giác bất an chủ yếu đến từ cây sáo mà tôi vẫn đang cầm — thứ mà tôi nhặt được tại nơi mình ngã và ban đầu định vứt đi.

Cây sáo đã hư hỏng đến mức không còn sử dụng được, nên vứt đi mới là lựa chọn hợp lý. Nhưng tôi không phải vì quên hay lười mà giữ nó lại. Chỉ là trong đầu tôi cứ hiện lên ý nghĩ: “Tội nghiệp đứa học sinh tiểu học nào đó đã làm mất nó.”

Tôi nghĩ phần lớn mọi người đều sẽ cảm thấy áy náy khi vứt bỏ món đồ mà ai đó đánh rơi, nhất là khi chủ nhân lại là một đứa trẻ. Mà xét cho cùng, khi chính cây sáo đó đã khiến tôi ngã đau thảm hại, việc tôi vẫn thấy tội lỗi thật ra cũng chứng tỏ tôi là người khá tốt. Trong hoàn cảnh khác thì đúng là vậy. Nhưng nếu khi đó tôi biết hết sự thật, cảm giác tội lỗi ấy hẳn đã biến mất.

Trong giờ giảng, tôi đặt cây sáo lên bàn và hầu như chỉ ngồi nhìn nó, chẳng biết nên làm gì. Một phần trong tôi muốn bỏ nó lại đó, giả vờ như mình đã quên, hoặc đơn giản là mặc kệ số phận của nó.

Có lẽ tôi không nên thú nhận điều này, nhưng việc được tự do ngồi tranh cãi với chính mình về những chuyện vặt vãnh như thế trong lúc giảng viên vẫn đang nói là một trong những niềm vui lớn nhất ở đại học. Vì tôi chẳng có ai để trò chuyện, nên tôi thừa thời gian để nuôi dưỡng mọi suy nghĩ tiêu cực của bản thân.

Khi đang miên man nghĩ, tôi nhận ra có một nhãn dán nhỏ trên thân sáo, trên đó viết gì đó bằng bút đen:

[4-1, U]

Một số lớp và tên. Tất nhiên, thực tế nhãn đó không viết chữ cái tiếng Anh, nhưng tôi không thể tiết lộ tên thật (dù chỉ là chữ hiragana). Tôi từng nghĩ đến việc che cả số lớp, nhưng thấy như vậy thì chẳng khác gì vô nghĩa. Có quá nhiều lớp 4-1 trong các trường tiểu học, vài con số chẳng thể tiết lộ được gì. Và dù sao tôi cũng có thể nói rằng “số lớp đó chỉ là hư cấu”.

Sau khi nỗi đau từ cú ngã dịu dần cùng cơn choáng vì chiếc xe đạp bị hỏng, cây sáo soprano ấy bắt đầu khơi dậy trong tôi vài cảm xúc lạ.

Ban đầu, tôi chỉ thấy khó mà vứt đi món đồ ai đó đánh rơi. Cảm giác ấy chuyển thành tội lỗi vì đã làm hỏng món đồ của một đứa trẻ, rồi lại biến thành những suy nghĩ khác hẳn… về một cây sáo khác.

Tôi chợt nhớ đến tuần trước, tôi đã thoáng thấy một cây sáo trong túi vải màu xanh thò ra khỏi cặp của cô bé ấy. Tôi không nhớ rõ khuôn mặt, nhưng trí nhớ của tôi về chi tiết lại rất sát: quần áo, kiểu tóc, phụ kiện… hay trong trường hợp này, là một cây sáo. Tôi kết nối hình ảnh cô bé với hành động in sâu trong tâm trí mình với cây sáo hiện đang cầm.

Tất nhiên, điều đó cũng đồng nghĩa cô bạn đi bên cạnh cô bé kia hẳn cũng mang theo sáo trong cặp (hợp lý thôi, chắc hôm đó là tiết nhạc của lớp 4-1 “hư cấu”). Thế nên tôi không thể kết luận ngay rằng chính cô bé đó đã ném cây sáo vào bánh xe tôi. Suy luận như vậy là quá vội vã, nếu không muốn nói là tưởng tượng.

Nhưng chỉ chừng ấy cũng đủ khiến tôi tự hỏi: phải chăng ký ức thoáng thấy cô bé cúi nhìn mình khi tôi ngã là thật? Câu hỏi ấy dần biến thành một nỗi bất an mơ hồ, len lỏi trong đầu suốt buổi học.

Có lẽ gọi nó là “điềm báo” thì hơi quá, vì mọi chi tiết đều quá mơ hồ. Nhưng khi sau này nhớ lại, tôi vẫn tự hỏi: “Lẽ ra mình phải nhận ra chứ?” Có lẽ tôi chỉ đang cố tỏ ra tinh ý, cố gán cho bản thân cái giác quan thứ sáu giả tạo nào đó. Tôi đúng là hay tự huyễn hoặc, đến mức chẳng hiểu nổi tính cách mình.

Dù sao thì, khi bài giảng tiếp tục, nỗi lo trong tôi càng lớn dần. Tôi bắt đầu cảm thấy thật sự bồn chồn, như thể đã mắc sai lầm nghiêm trọng. Cảm giác ấy giống hệt như khi lỡ chọn một con đường không thể thắng trong trò chơi nhập vai, như thể mọi thứ đã vượt ngoài khả năng cứu vãn, như thể tôi đang đi lạc trong rừng mà không mang theo thứ gì để tự vệ. Cơn rùng mình ấy lan ra khắp cơ thể, đến tận đầu ngón tay, ngón chân.

Nhưng đó chỉ là một cảm xúc mà phần lý trí của tôi có thể dễ dàng gạt bỏ. Rõ ràng tôi chỉ đang lo hão, suy nghĩ quá mức. Giống như thói quen phải kiểm tra cửa khóa đi khóa lại, hay rửa tay nhiều lần liền… Vâng, tôi biết. Dù bây giờ tôi đã khá hơn, nhưng ngay cả hồi đó, sự nhút nhát của mình cũng đủ khiến chính tôi phát ngán.

Cảm giác bất an chung trong tôi ngày càng nặng theo năm tháng. Giờ ở tuổi 30, tôi vẫn thường xé phong bì ra hai ba lần để chắc rằng bản thảo bên trong không bị hư hại. Lúc nào trong nhà tôi cũng có sẵn cả trăm phong bì dự phòng. Dù mười năm trước tôi chưa đến mức đó, tôi vẫn hay mở lại thư một lần trước khi gửi vì sợ nhầm nội dung hay lẫn ghi chú cá nhân vào, và nỗi lo ấy chỉ tệ hơn theo thời gian. Dù vậy, tôi không nghĩ mình là người quá lo lắng, nên càng thấy lạ khi bản thân lại suy diễn thái quá vì một “điềm báo”. Và phía sau sự ngạc nhiên ấy là chút buồn, buồn vì mình nhỏ bé và yếu đuối đến thế.

Chính nỗi lo đó khiến tôi sợ rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở thành nhà văn được. Nhưng giờ tôi là nhà văn thật, nên có lẽ tôi đã lo lắng vô ích.

Thôi, trở lại câu chuyện. Sau khi kết thúc các ca học, tôi về nhà. Có lẽ gọi ký túc xá đại học là “nhà” thì hơi kỳ, nhưng tôi vẫn sẽ gọi thế. Khi hết ngày, ta về nhà, vậy thôi. Dù trong lòng vẫn còn cảm giác bất an, tôi vẫn đi theo con đường quen thuộc.

Nhìn lại, tôi buộc phải thừa nhận mình không giỏi thay đổi thói quen. Giờ cũng vậy thôi. Khi đã đi đến một nơi nào đó, tôi luôn chọn cùng một lộ trình. Thức ăn tôi cũng chỉ xoay quanh vài món cố định. Khi viết đến dòng này, tôi chợt nhận ra mình luôn đặt vé máy bay và tàu đúng một khung giờ. Tôi né tránh mọi khả năng xảy ra biến cố ngoài dự đoán.

Điều đó thậm chí còn đúng cả trong công việc. Tôi dậy lúc 5 giờ sáng để viết, và nếu không dậy đúng giờ ấy, tôi chẳng làm được gì cả. Nếu có ai đó bán sổ ghi chép chia thời gian thành từng mốc mười phút, tôi chắc chắn sẽ mua cả trăm cuốn. Mong muốn sống trong khuôn khổ quen thuộc, an toàn của tôi sâu đến mức ấy.

Tôi thích được người khác xem là lập dị, nhưng lại ghét mọi thay đổi trong đời sống hằng ngày. Chính tôi cũng chẳng hiểu nổi mình. Ngày xưa tôi còn ghét cả từ “gây rắc rối”, vì nghe nó quá vui tai. Trớ trêu thay, giờ tôi lại chuyên viết truyện về những kẻ gây rắc rối.

Sau tai nạn hôm đó, tai nạn của riêng tôi, dĩ nhiên một phần trong tôi muốn nghỉ học và ở nhà luôn. Lẽ ra tôi nên làm thế, nhưng tôi vẫn đến trường như thường lệ, rồi lại về như thường lệ. Cái sự bám víu vào thói quen ấy đúng là đáng nể theo cách riêng của nó.

Có lẽ nếu tôi thực sự rút ra được bài học từ những gì xảy ra sau đó, tôi đã không còn là tôi của hôm nay. Nhưng giờ tôi vẫn sống cuộc đời khuôn mẫu ấy, bất chấp tất cả. Có lẽ tôi chẳng bao giờ học được rằng bám vào thói quen quá mức chỉ đem lại rắc rối… hay ít nhất là nên cẩn thận với những “mầm rắc rối” mọc lên dọc con đường quen thuộc. Tôi có thể không kiểm soát nổi bản thân ở nhiều mặt, nhưng tôi vẫn sẽ bước đi trên cùng con đường mỗi ngày, dù có biết chắc rằng có mìn gài dưới đất. Tôi sẽ đi sát bên chúng như thể chẳng có gì thay đổi.

Và thế là, tôi quay lại căn hộ của mình, như thể chẳng có gì thay đổi cả. Ừ thì, thực ra tôi phải dắt chiếc xe đạp hỏng về thay vì đạp nó, nên nói đúng ra, thói quen đã bị phá vỡ rồi. Tôi dựng xe vào chỗ để riêng, lưỡng lự không biết nên sửa hay vứt đi (thôi thì nói thẳng: tôi đã vứt nó. Vì tôi mắc chứng không thể mang đồ đi sửa. Thứ gì hỏng, dù sửa rẻ hơn, tôi vẫn mua cái mới. Tôi ghét người khác chạm vào đồ của mình, nên tôi chẳng bao giờ mua bảo hành kéo dài cả. Sau đó, tôi mua lại đúng mẫu xe cũ). Rồi tôi bước vào tòa nhà khu căn hộ.

Dù từng sống ở đó, nhưng mười năm trôi qua khiến tôi chẳng còn nhớ rõ. Tôi không phải người lang bạt như danh họa Hokusai , nhưng từ khi sống một mình, tôi hiếm khi ở đâu quá một năm. Khu căn hộ này cũng chỉ là một trong số nhiều nơi khác, chẳng đặc biệt hơn. Tôi cố nhớ xem cửa ra vào có khóa tự động không… chắc là không, vì nếu có, thì những gì xảy ra sau đó sẽ chẳng thể nào xảy ra được.

Khi viết đến đây, tôi đã tìm lại được địa chỉ cũ, nhưng dĩ nhiên tôi sẽ không tiết lộ. Dù đã mười năm, nơi đó vẫn còn, và như vậy vẫn là tiết lộ thông tin cá nhân, ít nhất là của người đang sống ở đó bây giờ.

Tôi bước lên cầu thang. Tòa nhà sáu tầng, không có thang máy, và tôi ở tầng trên cùng. Hồi đó còn trẻ, tôi chẳng thấy vấn đề gì, nhưng giờ nghĩ lại, leo sáu tầng đúng là cực hình. Có lẽ bây giờ họ đã lắp thang máy rồi. Tôi hy vọng thế.

Khi đến trước cửa phòng, tôi thò tay vào túi tìm chìa khóa… và nhận ra nó không còn ở đó.

“Hả?”

Phản ứng đầu tiên của tôi dĩ nhiên là nghĩ đến cú ngã khi sáng, chắc chìa khóa đã văng ra lúc đó. Tôi lục tung túi áo, túi quần, rồi cẩn thận đổ hết đồ trong ba lô ra. Tôi vốn cẩn thận, hay nói đúng hơn là nhát gan, nên ít khi làm mất đồ. Dù vậy, đôi khi tôi cũng từng làm rơi ví hay đồng hồ trong những chuyến đi. Khi ấy, tôi không buồn nhiều, mà lại thấy… nhẹ nhõm. Với tôi, việc mất đồ như thể xác nhận rằng mình đã đúng khi cẩn thận, rằng mọi đề phòng là cần thiết. Thật kỳ quặc, nhưng tôi lại lấy đó làm lý do để tự hài lòng.

Dù đang viết về bản thân trong quá khứ, tôi vẫn thấy đau khi phải thành thật về điều này. Có lẽ sẽ dễ chịu hơn nếu tôi có thể tách “tôi” khi ấy khỏi “tôi” bây giờ, nhưng thực tế là, ở tuổi 30, tôi vẫn chẳng thay đổi gì.

Có thể hồi đó tôi chưa hề có sang chấn, nhưng nghĩ lại, có lẽ đầu óc tôi đã hơi… khác thường từ đầu. Trong trường hợp đó, có lẽ tôi cũng không thể trách cô bé kia quá nhiều. Không, khoan đã. Tất nhiên là tôi có thể. Tôi phải làm thế. Nhớ lại bi kịch sau đó, tôi càng thấy rằng bất cứ lời nào tôi nói về cô bé ấy, dù cay độc đến đâu, đều hoàn toàn có lý.

Lúc đó, tôi biết mình đã mất chìa khóa, nhưng vẫn chưa phát hiện mất thẻ sinh viên. Nói cách khác, tôi vẫn chưa hiểu tình cảnh của mình nghiêm trọng đến mức nào. Giá mà tôi có thể quay về cảnh báo chính mình…

Dẫu vậy, tôi vẫn khá bình tĩnh. Tôi quyết định gọi cho văn phòng quản lý của khu căn hộ để nhờ họ mở cửa bằng chìa dự phòng. Nghĩ kỹ hơn, mất chìa thì nên thay ổ khóa mới, nên tôi đề nghị họ gửi thợ khóa đến.

Sau khi kiểm tra túi thêm một lần nữa, tôi gọi cho văn phòng bằng số điện thoại tôi đã lưu sẵn cho tình huống như thế này.

Họ nói thợ khóa sẽ đến trong khoảng ba tiếng nữa, dặn tôi chuẩn bị tiền thay khóa và chờ.

Tôi chẳng làm gì đặc biệt trong ba tiếng ấy. Tôi đi đến hiệu sách gần đó (thật ra cũng phải vài cây số), mua một cuốn sách, rồi ra công viên ngồi đọc.

Có lẽ tôi đã có thể làm gì ý nghĩa hơn… Nhưng một người mơ làm nhà văn thì đâu nên xem thời gian đọc sách là phí phạm, đúng không? Dù vậy, vẫn có gì đó khiến tôi thấy thiếu.

Chắc chắn tôi đã có thể làm nhiều hơn thế, như là gọi cảnh sát, hay bất cứ việc gì khác.

Nhưng tôi chẳng thấy cần thiết. Thế là tôi đọc sách suốt ba tiếng, rồi quay về khu căn hộ, gặp thợ khóa, chờ ông ta mở cửa.

Toàn bộ quá trình thay khóa chỉ mất chưa đầy ba mươi phút.

Tôi khá hào hứng khi được tận mắt thấy cấu trúc bên trong ổ khóa, và thoáng nghĩ rằng biết đâu một ngày nào đó, kiến thức ấy sẽ hữu ích cho tiểu thuyết của mình. Nhưng đến giờ, tôi vẫn chưa viết được câu chuyện nào có cảnh thay ổ khóa cả.

Tôi trả tiền cho thợ khóa, khoảng một trăm đô, chào tạm biệt ông ta, rồi cuối cùng bước vào phòng của mình.

Căn phòng với một người đang chờ sẵn ở trong đó.

Katsushika Hokusai, là một nghệ sĩ, họa sĩ chuyên về ukiyo-e và nhà in tranh người Nhật trong thời kỳ Edo.