Em ấy nấp dưới gầm bàn của tôi.
Tôi cho rằng mình sẽ cần phải miêu tả nội thất phòng mình để bạn có thể hiểu được. Bây giờ tôi đã đổi loại bàn, mặc dù tôi vẫn sử dụng chính xác cùng một kiểu bàn làm việc kể từ lần thay đổi đó (công việc không phải là thói quen nhất quán duy nhất của tôi). Cái bàn trong căn hộ tôi hồi đó lại là kiểu bàn làm việc mà học sinh tiểu học hay dùng. Lý do chính là vì nó nhẹ và sẽ dễ dàng kê một chiếc kệ sách ra đằng trước nó… không, đợi đã, cái lý do đó phải mãi sau này tôi mới nghĩ ra. Nếu phải nói thật, thì lý do mà một sinh viên đại học lại dùng cái bàn đó thì là vì, “Dùng lâu rồi nên quen.”
Cái bàn đó chẳng gây phiền hà đến ai, và tôi không gặp vấn đề gì với nó, nên chẳng làm sao cả. Không ai có quyền phàn nàn về cái bàn thân yêu của tôi.
Với kiểu bàn đó, khả năng một đứa trẻ trốn ở dưới cũng không có gì thay đổi. Dù cho nó có làm bằng thủy tinh trong suốt thì em ấy vẫn có thể trốn ở nơi khác.
Dưới gầm giường. Trong tủ quần áo. Trong nhà tắm, Trên mái nhà. Một đứa trẻ có thể trốn ở bất kỳ đâu. Chỉ là em ấy lại chọn cái bàn của tôi vào ngày hôm đó.
Ngay khi về đến nhà, tôi đã quẳng chiếc áo khoác của mình đi đâu đó (thêm một thói xấu nữa của tôi cho đến ngày hôm nay, bạ đâu vứt đấy), rửa tay và súc miệng, rồi giải quyết một số nhu cầu thiết yếu hàng ngày khác. Sau khi xong xuôi, tôi ngồi vào bàn làm việc, khởi động máy đánh chữ.
Ngày đó, tôi vẫn sử dụng một chiếc máy đánh chữ cá nhân để viết tiểu thuyết… hoặc ít nhất, là để gửi đến những cuộc thi trong tạp chí. Tôi không dùng máy tính… hoặc nói đúng hơn, tôi còn không dám thử. Với những người đề cao tính truyền thống, công nghệ hiện đại cần phải được tránh như tránh tà. Ngồi đánh một lúc là tôi lại vớ lấy chiếc điện thoại. Ở một mức độ nào đó, tôi không thể chối bỏ một phần khao khát muốn trở thành một tên lập dị lỗi mốt. Những cái mới thì tôi cũng thích, nhưng khi không chịu nổi nữa và tậu những thiết bị mới về, thì tôi hầu như chỉ dùng chúng trong công việc, hay nói cách khác là để tham khảo cho việc viết lách.
Một ngày nọ, nghiên cứu của tôi cho thấy máy đánh chữ cá nhân không còn được phát triển nữa. Dù cho những chiếc máy tính hiện nay có quá nhiều tính năng mà một đời người dùng không hết, tôi vẫn cảm thấy việc có thể truy cập vào tất cả mọi thứ trong lúc làm việc rất dễ gây mất tập trung. Xung quanh phải yên tĩnh tuyệt đối thì tôi mới làm việc được. Tôi từng nghe nói về những nhà văn vừa làm việc vừa xem TV hay nghe radio, nhưng tôi thấy chuyện đó khá khó tin. Tôi nhạy cảm với âm thanh đến mức nghe thấy tiếng công trường ở nơi mình sống là đã vội vàng đi nơi khác. Một ngày nào đó tôi sẽ cách âm phòng mình để cho dễ làm việc. Việc được bao quanh bởi tiếng gõ lách cách của bàn phím sẽ rất dễ chịu.
Tôi hi vọng những chiếc máy đánh chữ cá nhân sẽ xuất hiện trở lại. Có khi nào nhờ việc viết cuốn sách này, tôi có thể thuyết phục những nhà sản xuất rằng vẫn có tệp khán giả đang mong ngóng sản phẩm của họ thì sao.
Quay trở lại với chủ đề chính.
Ngay khi bật máy đánh chữ lên, tôi cảm thấy một cơn đau nhói ở cổ chân trái dưới bàn làm việc.
Suy nghĩ đầu tiên tôi có là mình đã vô tình giẫm vào một chiếc ghim, hậu quả cho cái thói vứt đồ đạc lung tung của mình, nhưng tôi nhận ra nếu vậy thì sao tôi lại cảm thấy đau ở cổ chân được.
Tôi ngồi lùi lại theo phản xạ, nhìn xuống gầm bàn… và thấy em ấy ở đó.
Một cô bé tiểu học ngây ngô, nấp dưới gầm bàn của tôi như một con quái vật, đâm một nhát vào cổ chân tôi với một con dao.
Em ấy chẳng hề để tâm tới con dao của mình, hay cái cổ chân đang chảy máu của tôi, hay cái quần mà em ấy đã đâm rách. Em ấy chỉ nhìn tôi với một sự im lặng khó chịu.
Như thể em ấy đang quan sát tôi để ghi chép vậy.
Đó là khoảnh khắc tôi cuối cùng cũng nhận ra em ấy chính là cô bé từ một tuần trước, là cô bé vào buổi sáng hôm đó và là cô bé đã thọc cây sáo vào bánh xe của tôi. Tất cả đều được xâu chuỗi với nhau một cách muộn màng.
Những khả năng mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới dần hiện ra. Như là việc tôi quá cẩn thận để có thể đánh rơi chìa khóa của mình, và chính em ấy là người đánh cắp chúng. Phải là vậy, vì em ấy đang ở trong phòng tôi. Em ấy đã đột nhập vào và đợi tôi về.
Sau khi nhận ra, chẳng cần kiểm tra ví cũng biết thẻ sinh viên của tôi đã biến mất. Nếu không phải thì cũng là cái gì đó với địa chỉ nhà của tôi trên đó. Em ấy đã tính toán hết mọi thứ, ngồi đợi trong phòng tối và tấn công lúc tôi mất cảnh giác.
Nhưng làm gì có chuyện em ấy tính toán đến mức đó được.
Vì sau cùng, em ấy phải cực kỳ may mắn khi mọi chuyện đều xảy ra đúng theo ý em ấy muốn. Trong viễn cảnh tồi tệ nhất, tôi có thể đã chết vì ngã xe ngày hôm đó. Việc trộm chìa khóa và thẻ sinh viên của tôi là cực kỳ hậu đậu và rủi ro. Chưa kể đến rủi ro khi ngồi đợi trong phòng tôi lâu đến vậy. Trước đó còn có một bên thứ ba, ông thợ sửa khóa. Sẽ ra sao nếu tôi mời ông ấy vào uống trà (nói thật thì, tôi khó mà tưởng tượng bản thân có thể xã giao đến mức đấy, nhưng tôi thỉnh thoảng cũng bày tỏ sự thân thiện với người lạ mà)? Em ấy kiểu gì cũng sẽ bị phát hiện. Có thể đó là một nơi trốn tìm khá hoàn hảo, nhưng đó là khi không có ai ở gần. Chưa kể đến khả năng tôi đưa bạn về phòng nữa, dù cho chuyện đó khó mà xảy ra… Được rồi, tôi chưa bao giờ mời ai về phòng mình hết.
Ngay cả việc nghĩ đến cảnh em ấy ngồi đó, rình rập dưới gầm bàn của tôi trong khi có người thứ ba đang đứng ngoài cửa, lăm lăm con dao trong tay chờ đợi... ý nghĩ đó đã làm tôi nghẹt thở.
“…” Em ấy lẩm bẩm một cái gì đó. Giọng em ấy rất nhỏ, trái ngược hoàn toàn với lúc em ấy gào khóc trước cái chết của bạn mình một tuần trước.
Tôi biết em ấy đã nói gì đó, chỉ là không nghe ra. Phần nào là vì sự căng thẳng đang ngày một dâng lên cùng với sự im lặng kéo dài của em ấy.
Tôi khá chắc em ấy đã nói gì đó đen tối, hoặc kinh khủng. Chắc chắn không thể là một câu rập khuôn vô hại như, “Rất vui được gặp anh” được. Hoặc là tôi đã nghĩ vậy.
“…”
Em ấy lại lẩm bẩm một mình như vậy, rồi rút ra con dao thứ hai ở tay còn lại, và trong khi dao đầu tiên vẫn cắm chặt ở cổ chân tôi, em ấy chĩa con dao còn lại vào mặt tôi.