Dragon Raja-Long Tộc

Chương kế tiếp:

Truyện tương tự

Lớp học đề cao thực lực của Hikigaya

(Đang ra)

Lớp học đề cao thực lực của Hikigaya

Tứ Cửu

Là kẻ độc hành trong kẻ độc hành, Hikigaya Hachiman chỉ muốn sống một cuộc đời học đường yên bình.Vì nên mấy boss các người có thể đừng lúc nào cũng nghĩ đến chuyện gây rối được không? Học hành tử tế

64 55

Sau Khi Bị Khai Trừ Khỏi Gia Tộc Minh Tinh Mà Tôi Đã Âm Thầm Hỗ Trợ, Tất Cả Những Gì Tôi Muốn Là Được Tận Hưởng Một Cuộc Sống Bình Thường

(Đang ra)

Sau Khi Bị Khai Trừ Khỏi Gia Tộc Minh Tinh Mà Tôi Đã Âm Thầm Hỗ Trợ, Tất Cả Những Gì Tôi Muốn Là Được Tận Hưởng Một Cuộc Sống Bình Thường

Hamabe Batol

Sau khi chuyển trường, Atsumu giờ đây quyết tâm sống một cuộc sống bình thường, nhưng khi cậu tình cờ gặp gỡ những nghệ sĩ tài năng—VTuber, idol, và người mẫu—khả năng thiên bẩm của cậu bắt đầu tỏa sá

2 8

Đại Công Tước bé nhỏ của tôi

(Đang ra)

Đại Công Tước bé nhỏ của tôi

아기소금; Babysalt

Nhưng cô ấy nhìn tôi bằng đôi mắt khác biệt

64 371

Isekai Walking

(Đang ra)

Isekai Walking

Arukuhito

Học sinh bình thường Sora đã được triệu hồi đến một thế giới khác, trở thành một trong bảy "anh hùng được chọn" để chiến đấu với Quỷ Vương. Trong khi sáu người còn lại được ban phước với những danh hi

45 48

Slayers Đặc Biệt

(Đang ra)

Slayers Đặc Biệt

Hajime Kanzaka

Tuyển tập các truyện ngắn xoay quanh thế giới Slayers.

15 245

Khải Huyền Dị Giới: Thống Trị Thế Giới Bằng Nền Văn Minh Diệt Vong

(Đang ra)

Khải Huyền Dị Giới: Thống Trị Thế Giới Bằng Nền Văn Minh Diệt Vong

Kazuno Fehu (鹿角フェフ)

Cậu thiếu niên tên Ira Takuto – người chưa từng bước ra khỏi bệnh viện từ khi sinh ra, đã khép lại cuộc đời 18 năm của mình trong bốn bức tường trắng toát ấy. Nhưng sau khi chết, cậu bất ngờ tỉnh dậy

119 731

Vol 2: Con mắt của kẻ điệu vong - Màn Mười: Người Gác Đêm - Phần 4-5-6

“Miệng thì nói 'mình là thằng hèn’, nhưng trong lòng vẫn thấy mình thật vĩ đại, cứ nghĩ chỉ cần có chuyện gì không làm được thì mình chính là kẻ có lỗi. Vì mình rất vĩ đại, người khác làm không nổi là điều hiển nhiên, còn mình không làm được thì không thể tha thứ. Coi việc liều mạng như cơm bữa hả?” 

Hạ Di nói giọng đầy khinh bỉ, “Đúng là sĩ diện! Anh tự phụ đến cỡ nào vậy?”

“Đúng, việc gì không làm được, đều là lỗi của tôi.” 

Sở Tử Hàng đáp khẽ, nét môi lạnh lùng, cứng rắn.

Hạ Di im lặng rất lâu, rồi thở dài, giọng dịu đi: 

"Anh cứ gồng mãi thế, có ngày chết thật đấy.”

“Đừng lo chuyện không liên quan đến cô.” 

Sở Tử Hàng lại nhắm mắt. 

Anh không muốn nói chuyện với cô sư muội lắm lời này nữa. 

Hạ Di đã cứu anh, anh nhất định sẽ mời cô ăn một bữa hoặc tặng một món quà để cảm ơn, nhưng anh không giỏi ứng phó với những câu chuyện phiếm kiểu này. 

Cơn mệt mỏi từng đợt kéo đến, anh chỉ mong Hạ Di yên tĩnh một chút, để anh cũng được yên tĩnh một chút.

“Ai bảo không liên quan? Đến cả việc đi thăm mộ cũng phải tốn tiền đấy!” 

Hạ Di hung dữ nói, “Nói đi, anh thích loại hoa nào đặt trên mộ?”

Sở Tử Hàng nghĩ một lát rồi nói: 

“Hoa bách hợp… hoặc cúc vàng.”

“Ừm… hay là cẩm chướng nhỉ, cẩm chướng đẹp mà…”

“Cẩm chướng là hoa biểu tượng cho tình mẫu tử, không phải hoa cúng mộ.” 

Sở Tử Hàng phải nhắc nhở cô.

“Cẩm chướng rẻ mà…”

Cuộc đối thoại này có thể nào vô lý hơn được nữa không? 

Sở Tử Hàng bỗng thấy bực bội. 

Chỉ cần Hạ Di nói một câu kiểu “Em còn việc, anh nghỉ ngơi đi”, là anh có thể đàng hoàng nhắm mắt ngủ rồi. Nhưng cô cứ lải nhải không dứt, sao sư muội này lại có thể nói nhiều đến vậy?

“Là cô thích cẩm chướng thì có.” 

Sở Tử Hàng nói. 

Anh tiếp tục gắng gượng trò chuyện với Hạ Di, chỉ vì cảm thấy cứ thế mà ngủ mất thì không lịch sự.

Trong phòng bệnh yên tĩnh chỉ còn tiếng “tít – tít –” đều đặn của máy theo dõi. 

Lần này Hạ Di lại không đáp lời.

Sự yên tĩnh đến bất ngờ khiến Sở Tử Hàng thấy hơi mừng, cô sư muội lắm lời này cuối cùng cũng hiểu được mấy lần anh nhắm mắt là có ý gì rồi? 

Chịu để cho anh yên tĩnh nghỉ ngơi rồi? 

Anh mở mắt ra định xác nhận, liền ngẩn người.

Hạ Di đang ôm gối, cuộn tròn như một con mèo nhỏ trên chiếc ghế gỗ cứng cạnh giường bệnh – rõ ràng chẳng thoải mái gì. 

Hàng mi dài rủ xuống, trong ánh sáng ban mai dày như tấm rèm.

Cô đã ngủ rồi.

“Chắc là đã 2 ngày chưa ngủ, chờ cậu tỉnh lại đấy.” 

Cô y tá đang kiểm tra ống thở đứng cạnh khẽ nói, tiện tay đắp lên vai Hạ Di một tấm chăn mỏng.

---

Ý, La Mã.

Frost Gattuso ngồi ngay ngắn sau bàn làm việc trong một vạt nắng. 

Là người điều hành thực tế của gia tộc Gattuso, ông gần như mỗi ngày đều ngồi tại đây, không cần bước chân ra khỏi cửa vẫn có thể điều hành hàng trăm ngàn nhân viên của gia tộc trên khắp thế giới.

Trên “mặt bàn quyền lực” ấy giờ đây đang đặt song song hai tấm ảnh đen trắng – một là tàn tích của nhà ga phía Nam, một là tàn tích của "Trung Đình Xà”. 

Sự tương đồng đáng kinh ngạc, gây ấn tượng mạnh.

“Mua lại công viên Six Flags, ta cần phân tích đống đổ nát đó.” 

Sau một hồi lâu, Frost giơ một ngón tay lên, ra lệnh.

“Đang đàm phán rồi ạ. Với mức giá chúng ta đưa ra, đối phương rất khó từ chối.” 

Parsi hơi cúi đầu, mái tóc vàng nhạt rũ xuống che khuất nửa gương mặt.

“Long Vương đã thức tỉnh? Kết luận này quá đỗi kinh ngạc, chắc chắn được bao nhiêu phần?”

“Trong các giáo sư trọn đời có Jean Grus và Blair Bittner – những chuyên gia hàng đầu về cơ học và ‘Solomon’ của giới toán học. Họ đều cho rằng kiểu điều khiển ứng suất chính xác đến thế này không thể do con người thực hiện, chỉ có thể là một loại ngôn linh nào đó – và phải là loại ngôn linh cao cấp chỉ có thể do Tứ Đại Quân Chủ điều khiển.” 

Parsi nói, “Vị quân chủ nắm giữ sức mạnh thuần túy – chính là Vua của Đại Địa và Núi.”

“Thú vị đấy.” 

Frost lạnh lùng nói. 

“Thật ra, so với chuyện ở công viên Six Flags, ta lại thấy vụ ga tàu phía Nam có vẻ đáng quan tâm hơn.”

“Ý ngài là?”

“Giả sử đó thật sự là Long vương. Với một sinh vật vừa cao quý vừa tàn bạo như thế, hắn không trực tiếp ra tay mà chỉ âm thầm thực hiện hai vụ ám sát – điều đó chứng tỏ hắn chưa hoàn toàn hồi phục. Anjou từng rút ra một kết luận rất quan trọng từ trận chiến với Vua của Đồng và Lửa – sau khi thức tỉnh từ Cốt Địa, các Long vương cần một khoảng thời gian để phục hồi toàn bộ sức mạnh. Giai đoạn đó, bọn chúng chẳng khác nào một đứa trẻ sơ sinh yếu ớt... Tất nhiên, so với con người thì vẫn là những vị chúa tể không thể địch nổi.”

Frost chậm rãi nói tiếp:

“Vậy thì, vì sao một Long vương vừa tỉnh giấc lại phải vội vàng ra tay? Với chút sức lực hạn chế ấy, hắn sẽ ưu tiên dùng vào việc gì?”

Parsi trầm ngâm một lát:

“Chắc hẳn... là có một kẻ thù mà hắn buộc phải loại bỏ trước tiên.”

“Đúng vậy. Là bị buộc phải ra tay.” 

Frost gật nhẹ.

“Vậy thì việc hắn đánh lén Anjou ở công viên cũng không có gì khó hiểu. Anjou là cái tên mà bất kỳ Long vương nào cũng phải dè chừng. Nhưng điều ta băn khoăn là... tại sao lại tấn công ga tàu phía Nam?”

Ông rút ra một mảnh giấy, viết hai danh sách tên rồi đưa cho Parsi.

“Anjou không phải mục tiêu thật sự. Mục tiêu của hắn là người xuất hiện trong cả hai danh sách này.”

Parsi liếc nhìn.

Danh sách thứ nhất: 

Raymond, Sở Tử Hàng, Lộ Minh Phi.

Danh sách thứ hai: 

Anjou, Sở Tử Hàng, Lộ Minh Phi, Hạ Di.

“Sở Tử Hàng và Lộ Minh Phi?” 

Parsi nhíu mày.

“Gạch Lộ Minh Phi đi.” 

Frost nói.

“Mục tiêu của hắn là Sở Tử Hàng.”

“Rõ.” 

Parsi gật đầu. 

Anh vốn đã quen với kiểu suy đoán trực giác và quyết đoán của Frost – gần như lần nào cũng trúng đích.

“Có những chuyện liên quan đến Sở Tử Hàng rất khó giải thích. Chúng ta cần đưa cậu ta vào tầm kiểm soát. Theo tài liệu từ Trung Quốc, cậu ta từng có những trải nghiệm kỳ bí liên quan đến Long tộc – ta muốn biết đó là gì.”

“Rõ!” 

Parsi đáp, rồi ngập ngừng:

“Còn về gã thợ săn tên Đường Uy, chúng ta cứ để hắn chạy à? Hình như hắn đã đặt vé bay sang Việt Nam rồi.”

“Chỉ là một quân cờ rẻ tiền, chẳng có gì quan trọng. Hắn cũng chẳng biết chuyện gì thực sự xảy ra phía sau. Người thuê hắn đã thông qua ‘Thị trường Thợ săn’ để giấu thân phận. Cái chúng ta quan tâm là chính cái chợ đó – ‘Thị trường Thợ săn’. Công nghệ của nó rất đặc biệt, không có máy chủ cố định, giống như một con ma lang thang trên mạng toàn cầu… Trước khi chúng ta rảnh tay, cứ quan sát thêm đã.”

Frost day day thái dương:

“Ta mệt rồi. Có lẽ chúng ta cần một hiệu trưởng mới.”

Parsi giật mình:

“Ý ngài là…?”

Frost chậm rãi ngước mắt nhìn:

“Anjou nghĩ chúng ta không có ai đủ sức thay ông ta. Đúng, trong toàn bộ Hội, tìm một người có thể thay thế ông ta là chuyện bất khả. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông ta không thể bị gỡ bỏ. Nếu một chấp hành viên đủ xuất sắc, ta có thể cho phép họ ‘hơi’ không nghe lời. Nhưng nếu mức ‘không nghe lời’ vượt ngoài tầm kiểm soát, thì họ đã hết giá trị. Đã đến lúc để Học viện Cassell trở thành một thể chế do Hội đồng quản trị điều hành. Dòng máu bất ổn của Sở Tử Hàng… sẽ là bằng chứng tuyệt vời để luận tội Anjou. Ta có thể giành được sự ủng hộ của hầu hết các thành viên hội đồng.”

“Rõ.” 

Parsi khẽ nói.

“Tôi sẽ lập tức bắt tay vào sắp xếp.”

“Đi đi.” 

Frost xua tay.

Parsi vừa ra tới cửa thì Frost bỗng cau mày:

“Khoan đã. Hôm nay cậu chưa từng ngẩng mặt nhìn ta. Vì sao vậy?”

Parsi do dự một lúc, rồi lặng lẽ vén mái tóc óng như lụa màu vàng lên. 

Đôi mắt lộ ra – một bên băng lam, một bên vàng tối.

Tách riêng ra thì đẹp như ngọc, nhưng cùng xuất hiện trên một gương mặt lại khiến người ta rợn người – như đang nhìn vào gương mặt của ác quỷ.

Frost tránh ánh mắt anh:

"Cậu uống thuốc chưa?”

“Thuốc không có tác dụng, chỉ làm dịu bớt khó chịu thôi.”

“Dù thế nào cậu cũng nên uống. Những người không sống được bao lâu... càng phải biết đối xử tốt với bản thân.”

Giọng Frost dịu xuống, mang theo chút ân cần như một người cha già.

“Cảm ơn.” 

Parsi khẽ nói rồi quay người rời đi.

---

Sở Tử Hàng mở mắt. 

Trước mặt anh là một chiếc khay bạc, trên đó đặt một quả lê còn nguyên vẹn. 

Một bàn tay gầy guộc, già nua cầm lấy cuống lê. 

Vỏ lê được gọt ra theo từng vòng cung mềm mại, chậm rãi rơi xuống. 

Quả lê đã gọt xong được đưa đến tay anh.

“Hiệu trưởng?” 

Sở Tử Hàng khẽ thốt lên, ngạc nhiên.

Căn phòng yên ắng lạ thường, bóng dáng của các bác sĩ và y tá vẫn thường lui tới mỗi ngày đều biến mất. 

Anjou ngồi bên mép giường, dùng khăn tay chậm rãi lau sạch lưỡi dao gấp rồi cất nó vào bao da giấu trong tay áo sơ mi.

“Em đã nắm được kỹ thuật đó bao lâu rồi?” 

Anjou hỏi khẽ, ánh mắt nhìn thẳng vào mắt anh. 

“Đừng cố che giấu. Thầy là một trong những thành viên sáng lập của Sư Tâm Hội, thầy biết rõ kỹ thuật em đang dùng. Trên đường ray tàu lượn, em đã thể hiện dấu hiệu ‘long hóa’. Điều đó vượt xa khả năng của một hỗn huyết chủng bình thường — tự ý thức tinh luyện huyết thống đến mức cao độ, tăng cường sức mạnh của ngôn linh, mở rộng lãnh địa, thậm chí cơ thể còn bắt đầu xuất hiện đặc điểm của loài rồng!”

“Hai năm ạ.” 

Sở Tử Hàng đáp.

“Nghĩa là chẳng bao lâu sau khi em trở thành hội trưởng Sư Tâm Hội, em đã nắm được kỹ thuật ấy.” 

Anjou gật gù, đứng dậy bước chậm rãi trong phòng. 

“Em tìm ra nó từ những tài liệu gốc của Sư Tâm Hội phải không?”

“Vâng.”

“Không thể tưởng tượng nổi…” 

Anjou thở dài. 

“Tư liệu tuyệt mật ấy được tích lũy từ ngày Hội được thành lập. Khi đó còn chưa có thư viện, vì vậy một số bản ghi chép không hề tồn tại trong thư viện hiện tại. Nhưng ngay cả như vậy, chúng cũng vẫn chưa trọn vẹn. Với tư cách là người sáng lập, thầy đã lấy đi phần quan trọng nhất – phần liên quan đến kỹ thuật ‘bộc huyết’. Thế mà em vẫn có thể lần ra manh mối và tái hiện được kỹ thuật cấm kỵ ấy. Phải công nhận là rất xuất sắc. Nhưng em có hiểu vì sao thầy phải lấy đi phần đó không?”

“‘Bộc huyết’ dễ khiến con người sinh ra ham muốn sát hại – hay nói cách khác là ‘sát ý’.”

“Đúng. Cái gọi là ‘sát ý’ vốn là một dạng năng lượng tinh thần đặc trưng của loài rồng. Về mặt sinh học, nó giống như bản năng của dã thú khi ngửi thấy mùi máu – được mã hóa trong gen, gọi là gen 'thị huyết’. Khi rồng nổi giận, chúng có xu hướng tấn công mọi thứ xung quanh. Còn ở hỗn huyết chủng, sau khi bộc huyết, sát ý cũng bùng phát mạnh – người hiền lành có thể trở nên tàn nhẫn như thú hoang. Nhưng đó vẫn chưa phải lý do khiến ‘bộc huyết’ trở thành kỹ thuật cấm kỵ.”

Sở Tử Hàng gật đầu: 

“Em đang lắng nghe ạ.”

Anjou trầm mặc hồi lâu rồi nói:

“Thật ra trong chương trình giảng dạy của học viện, phần liên quan đến nguồn gốc của hỗn huyết chủng bị cố ý lược bỏ. Vì có những chuyện quá bẩn thỉu, trường không muốn nhắc tới. Có những chuyện thì quá đỗi nguy hiểm, trường không dám công bố. Nhưng với em, có lẽ thầy có thể nói rồi… vì em đã bước vào vùng cấm.”

Ông khẽ thở dài:

“Thế giới này lẽ ra không nên có hỗn huyết chủng. Loài rồng vốn khinh thường việc giao phối với con người — cũng như con người không bao giờ lai giống với loài linh trưởng khác. Không ai lại đi thử sinh con với khỉ đột, cho dù có thể tạo phôi thai trong ống nghiệm đi nữa, thì điều đó cũng vượt qua ranh giới đạo đức. Nhưng hỗn huyết chủng vẫn xuất hiện – bởi vì lòng tham của con người. Do một biến cố đặc biệt, loài người đã giết Hắc Vương, cướp lại thế giới từ tay loài rồng. Đáng lẽ lúc ấy họ nên tiêu diệt hoàn toàn loài rồng để ngăn chặn hiểm họa trả thù. Nhưng một số người lại không nỡ hủy diệt chúng. Rồng là sinh vật quá mạnh mẽ và xinh đẹp, sở hữu kỹ thuật ‘luyện kim’ và ‘ngôn linh’ mà con người vô cùng khao khát. Thế là họ nghiên cứu những con rồng còn sót lại, lấy danh nghĩa tế lễ, dâng phụ nữ loài người cho rồng để sinh ra thế hệ lai — tạo nên những ‘hỗn huyết chủng’. Đó là một nghi lễ vừa dã man vừa tàn khốc.” 

Anjou nói khẽ.

“Những người phụ nữ bị hiến tế hiếm khi sống sót đến ngày sinh nở. Cơ thể họ quá yếu, còn đứa trẻ trong bụng lại quá mạnh. Họ bị nhốt trong lồng sắt, trong các hầm tối đen như mực, hoặc bị trói chặt trên bàn tế khắc đá, quằn quại trong máu và nỗi đau tột cùng, không thể sinh nở. Cuối cùng, thân thể của người mẹ sẽ bị đứa con phá toang mà chui ra. Những đứa trẻ ngoan ngoãn thì được đem đi bồi dưỡng, những đứa nguy hiểm thì bị giết bằng giáo sắt cắm xuyên qua lồng giam. Và rồi, lại tiếp tục pha trộn, đời này qua đời khác, cho đến khi huyết thống dần ổn định. Đó là lịch sử nhơ nhớp của hỗn huyết chủng.”

---

Sở Tử Hàng khẽ nhắm mắt, dường như có thể trông thấy từng vệt máu loang đỏ trên vách đá đen sì, ánh đèn leo lét lay động, tiếng phụ nữ kêu khóc và tiếng quái vật gầm rú vọng lại từ đáy địa giáo, những tế ti thời thượng cổ đang cao giọng xướng lên thánh ca.

Quá khứ ấy... thật bẩn thỉu đến mức khiến người ta muốn nôn.

“Trong đầu các em ai cũng mang một khái niệm: 'hỗn huyết chủng’. Tức là tỷ lệ máu người phải vượt trội hơn máu rồng, nếu không sẽ bị xem là dị loại. Thông thường, tỷ lệ huyết thống rồng càng cao thì ưu thế huyết thống càng rõ. Nhưng khi vượt qua một ngưỡng nhất định – trường gọi đó là 'lâm giới huyết hạn’ – mọi thứ sẽ thay đổi hoàn toàn,” Anjou nói.

“Thay đổi thế nào ạ?” 

Sở Tử Hàng hỏi.

“Tiến hóa. Trở thành một cá thể mang bản chất của rồng – một sinh vật cấp cao hơn.”

“Người mang dòng máu lai có thể tiến hóa thành long tộc thuần chủng sao?”

Anjou lắc đầu: 

“Không. Họ có thể không ngừng tiệm cận với long tộc... nhưng sẽ không bao giờ đạt được sự hoàn mỹ tuyệt đối.”

“Tại sao ạ?”

“Vì phản kháng từ gen con người.” 

Anjou nhặt lên một mẩu vụn bánh mì khô cứng từ khay, kẹp giữa hai ngón tay, nghiền nát thành những mảnh vụn rơi rả rích trở lại khay. 

“Trước gen của rồng, gen loài người yếu ớt đến đáng thương. Gen rồng áp đảo, nghiền nát gen người giống như xe lu cán đá vụn – đơn giản, triệt để. Nhưng em thử nghĩ xem: một khi đá vụn đã bị nghiền thành bụi mịn, thì sao?” 

Ông lật ngửa bàn tay ra trước mặt Sở Tử Hàng. 

Trên đầu ngón tay vẫn còn vài hạt vụn nhỏ li ti. 

Anjou lại dùng lực, nghiền tiếp, mạnh gấp nhiều lần trước. 

Rồi lại lật tay ra – bụi bánh vẫn còn đó.

“Đã là tro bụi thì không thể nghiền thêm được nữa. Em không thể xóa sạch nó, không thể biến nó thành số không,” ông khẽ nói.

Sở Tử Hàng khẽ sững người: 

“Gen con người không thể bị xóa bỏ hoàn toàn.”

“Đúng vậy. Ở khoảnh khắc cuối cùng, gen loài người sẽ phản kháng mãnh liệt. Gen rồng, dù mạnh đến mấy, cũng không thể tẩy sạch những gì nó xem là ‘tạp chất’. Những ‘cặn bã’ ấy sẽ bám trụ lại. Thế nên hỗn huyết chủng sẽ không bao giờ tiến hóa thành long tộc thuần chủng. Chúng chỉ trở thành thứ như đám ‘tử thị’. Tới giai đoạn cuối của tiến hóa, họ sẽ chết – mất đi bản ngã – trở thành những cái xác biết đi. Long tộc không xem họ là đồng loại. Loài người thì lại coi họ là kẻ địch. Nếu thế giới của long tộc là thiên đường, thế giới loài người là địa ngục, thì họ chính là những linh hồn lạc lối giữa hai cõi ấy – không thuộc về đâu cả. Họ nghe theo tiếng gọi của dòng máu mà phục tùng long tộc, còn long tộc thì dùng họ làm bia đỡ đạn trong cuộc chiến với con người. Chết cũng không sao – vì sẽ luôn có kẻ mới thay thế.”

Sở Tử Hàng trầm mặc hồi lâu, rồi khẽ gật đầu: 

“Em hiểu rồi.”

“‘Bộc huyết’ là cấm thuật – chính bởi vì nó khiến dòng máu rồng trong cơ thể bùng phát trong chớp mắt. Mà hậu quả là… rất có thể vượt qua lâm giới huyết hạn. Một khi vượt ngưỡng, em giống như rơi vào đường trượt – lao dốc không phanh. Không một sức mạnh nào kéo em trở lại được. Kỹ thuật ấy là ác ma. Khoái cảm khi huyết thống được tinh lọc trong nháy mắt sẽ khiến người ta lầm tưởng mình toàn năng. Nếu em tham vọng sức mạnh quá mức, ác ma sẽ âm thầm dẫn dắt em vượt qua ranh giới, đẩy thẳng xuống vực. Kết cục của em sẽ là trở thành một tử thị. Lúc đó, thầy buộc phải giết em. Và với em lúc ấy, cái chết… lại là cái kết tốt nhất.” 

Anjou nhìn thẳng vào mắt Sở Tử Hàng.

“Thầy định khai trừ em sao ạ?” 

Sở Tử Hàng hỏi nhỏ.

Anjou đứng dậy, quay lưng lại với anh:

“Chuyện bộc huyết… thầy có thể xem như chưa từng biết. Nhưng nếu để hội đồng quản trị phát hiện, hậu quả không cần nói chắc em cũng đoán được. Là một người làm giáo dục, thầy chưa từng phá vỡ quy tắc do chính mình đặt ra. Có lẽ đây là lần đầu tiên thầy phá lệ. Sự dũng cảm của em… khiến thầy rất ấn tượng. Đừng lạm dụng cấm thuật. Ai cũng muốn sống lâu hơn một chút đấy.”

Ông bước tới cửa, đưa tay mở, rồi nhẹ nhàng nói thêm:

“Nhớ ăn hết quả lê.”

Ông rời khỏi phòng. 

Sở Tử Hàng ngồi một mình trên giường. 

Ngoài cửa sổ, trời bắt đầu mưa.

---

Cơn mưa xối xả đập lên tháp chuông nhà nguyện nhỏ, tiếng chuông vang lên ầm ầm trong gió.

Cửa bị đẩy ra. 

Một người mặc toàn đồ đen bước vào, tay cầm chiếc ô cũng màu đen.

“Ở chỗ này không thấy khó chịu à? Ngày nào cũng nghe tiếng chuông như đưa tang.”

Người đó ngồi xuống chiếc ghế đơn ở góc phòng, ngả người tự nhiên.

“Pha cho tôi cái gì uống đi, gì cũng được.”

“Nghe quen rồi thì thôi. Vậy đến ngày làm tang lễ cho tôi, nằm trong quan tài nghe tiếng chuông ngoài kia, tôi còn tưởng mình đang ngủ trên giường nhà.”

Gã trung niên gục mặt vào màn hình máy tính, uể oải đáp.

“Anjou à, trời mưa âm u kiểu này, làm ơn đừng mặc như ông đưa đám rồi mò đến đây nghe chuông với tôi nữa được không?”

“Bộ vest đen thì sao chứ? Biết nhau bao năm, chẳng phải tôi vẫn mặc vậy à?”

Anjou tháo cà vạt, cởi hai nút cổ áo sơ mi trắng.

“Bởi vì bao năm nay, ông lúc nào cũng như đang chuẩn bị… đưa tang.”

Gã được gọi là Người Gác Đêm với tay lấy chai whisky nguyên chất trên bàn, túm đại một cái ly nhìn rất đáng ngờ, rót nửa cốc, đưa cho Anjou.

Anjou rúc người vào ghế, nhấp từng ngụm. 

Hai người chẳng nói gì thêm, chỉ ngồi lặng yên.

Đây là một căn gác lửng bừa bộn. 

Mảng tường đón nắng làm toàn bằng kính, dán chi chít poster khổ lớn mấy cô nàng ngực trễ.

Trong phòng chỉ có một cái giường không gấp, một ghế đơn, một bàn máy tính kèm ghế xoay, một tủ sách chật cứng đĩa DVD phim cao bồi. 

Tất nhiên còn có la liệt vỏ chai rượu và tạp chí người lớn ném ngổn ngang.

“Người Gác Đêm” – nhân vật ẩn danh của học viện – mấy chục năm nay vẫn sống trong cái ổ này, phong cách sống như thanh niên dậy thì bị kìm nén quá lâu.

Phong cách căn gác hoàn toàn trái ngược với thẩm mỹ của Anjou, nhưng ông vẫn rất tự nhiên ngồi vào chỗ thoải mái nhất.

Ông quen nơi này rồi – chẳng thể không quen, vì chỉ ở đây mới tìm được Người Gác Đêm.

Ai mà chẳng có một vài thằng bạn tệ hại, hẹn gặp ở mấy chỗ vệ sinh đáng ngờ, uống bia rẻ tiền, gặm mấy đĩa hải sản tanh lòm.

Thế mà vẫn mặc nguyên bộ vest Armani đặt may riêng tới gặp, cùng nó khẩu chiến, rồi lại hớn hở lần sau gặp tiếp.

Đó chắc là bạn thân thật rồi.

“Cho tôi mượn dàn loa chút.”

Anjou ném một cây bút ghi âm sang.

Tiếng rè rè của nhiễu sóng trôi qua, rồi giọng hai người đàn ông vang lên, trầm đục như nói mớ giữa mơ.

Giọng đầu tiên là của Anjou. 

Người Gác Đêm chợt khựng lại khi nghe tới giọng thứ hai.

“Lúc em lái xe lên đoạn đường cao tốc đó, có thấy chiếc xe nào không?”

“Không... không có gì cả... Im lặng. Rất im lặng. Chỉ có tiếng mưa gió.”

“Em còn nhớ tốc độ lúc đó chứ?”

“Tốc độ... như biến mất vậy.”

“Kể xem, mấy cái bóng đó là gì? Là ai?”

“Chúng đói... khát... Chúng muốn thịt tươi, nhưng chúng không ăn được... Chúng... chết rồi.”

“Khi vào đoạn cao tốc đó, em còn nhớ số hiệu không?”

“Biển đường... bị liễu che mất rồi.”

“Nhưng em có nhìn vào biển đường, đúng không? Vì em nhớ nó bị liễu che.”

“Có nhìn... nhưng không thấy... cành liễu... đung đưa trước biển chỉ đường...”

“Nghĩ kỹ lại xem... Biển màu xanh lục... bị liễu che khuất, nhưng gió làm nó lay... lộ ra vài chữ, đúng không? Vài chữ... Em có nhớ được gì không?”

Tiếng thở đột nhiên nặng nề, dội qua hệ thống âm thanh cao cấp, rung lên khắp căn gác.

Căn phòng như biến thành lồng ngực khổng lồ của một sinh vật quái dị – phồng lên, co lại, phồng lên, co lại.

Tiếng mưa ngoài kia rõ dần, như thể đêm tối không thấy trời kia lại giáng xuống lần nữa.

Đêm đó như ác quỷ, và mưa gió là sứ giả của nó.

Người Gác Đêm cau mày, liếm răng, cảm giác chẳng khác gì đang xem phim kinh dị đến đoạn cao trào – ông biết chắc gã hút máu sắp nhảy ra vồ lấy, nhưng lại chẳng buồn tránh né.

Chỉ chờ thôi. 

Háo hức mà chờ xem nó sẽ từ đâu lao đến.

“Số 000...000!”

Âm thanh hô hấp chợt ngừng bặt, như thể người đang kể bị một nhát chém cắt phăng.

Anjou tắt bút ghi âm.

“Chiều nay tôi đến gặp Sở Tử Hàng và đã thôi miên em ấy. Em ấy không hề hay biết. Ban đầu tôi chỉ định nghe thêm về hiện tượng 'bộc huyết’... không ngờ lại ghi được thứ này.”

“Nghe như một cơn ác mộng.” 

Người Gác Đêm khẽ nói.

“Tôi đã tra bản đồ rồi. Đoạn cao tốc đó, điểm bắt đầu là từ ‘001’ trở đi.”

Người Gác Đêm gật đầu:

“Tức là cái lối vào ‘000’ mà Sở Tử Hàng nói... hoàn toàn không tồn tại. Chiếc Maybach đó, tìm được chưa?”

“Tìm được rồi. Ngoài thành, trong một bãi đất hoang. Thân xe gần như tan tành, trông cứ như bị cả trăm con cá mập xâu xé. Chỗ đó cách đường cao tốc gần nhất tới 15 km, mà không có dấu vết xe cứu hộ nào cả — tức là xe tự chạy tới đó.”

Anjou đưa qua một bức ảnh đen trắng — chiếc Maybach bị vùi trong bùn lầy, thân xe đầy vết thương chằng chịt.

“Trên vô lăng chỉ có dấu vân tay của Sở Tử Hàng và cha em ấy. Người lái xe đến đó, chỉ có thể là một trong hai người — hoặc cả hai.”

“Và ở chính nơi hoang dã đó... Sở Tử Hàng đã gặp Odin — thủ lĩnh của thần tộc Aesir trong thần thoại Bắc Âu.” 

Người Gác Đêm nhai chậm một viên đá lạnh. 

“Nhưng cậu ấy lại tưởng mình đang ở trên cao tốc. Ảo giác à?”

“Lúc đó Sở Tử Hàng còn rất nhỏ. Nhưng cha em ấy sở hữu cùng loại ngôn linh với tôi: Thời Gian Zero. Đó là một ngôn linh cực kỳ khó lĩnh hội, đòi hỏi huyết thống vô cùng tinh khiết. Nếu ngay cả ông ấy cũng không nhận ra mình đang trong ảo giác… thì người tạo ra nó chắc chắn phải thuộc cấp bậc Long Vương.”

“Trong thần thoại, Odin là kẻ thù truyền kiếp của Hắc Long, tượng trưng cho chính nghĩa. Ông ta phải cưỡi ngựa bạch, dẫn theo những nữ chiến binh Valkyrie lộng lẫy chứ, sao lại kéo theo đám tử thị?”

“Đúng. Nhưng thứ mà Sở Tử Hàng miêu tả, lại rất giống đám tử thị.”

“Lạ thật... chẳng lẽ đầu óc cậu ta có vấn đề?” 

Người Gác Đêm nhăn mặt, gãi đầu cật lực.

Anjou nhìn chằm chằm vào mắt ông ấy:

“Thật ra... còn một khả năng nữa. Ông đoán ra rồi, chỉ là đang do dự không muốn nói ra, đúng không?”

Người Gác Đêm cau mặt, cơ mặt co giật, khóe mắt nhúc nhích — không rõ là sợ hãi hay đang chơi trò hù dọa:

“...Vậy là... cậu ta gặp ma?”

“Phải.” 

Anjou nói nhỏ, “Rất có thể là thật đấy.”

“Đừng nói vớ vẩn nữa!” 

Người Gác Đêm bật dậy khỏi ghế xoay. 

"Tử nhân quốc Nibelungen ấy à? Nơi ấy chẳng khác nào một thánh điện bị nguyền rủa! Suốt mấy nghìn năm, giới luyện kim thuật sư moi óc đào đất, lật tung cả lịch sử, nhưng vẫn không lần ra dấu vết, thế mà một đứa nhóc lại tình cờ bước vào được sao?”

“Hiếm khi thấy ông bất an như vậy đấy.” 

Anjou liếc xuống cái bụng phình ra dưới lớp áo sơ mi kẻ caro. 

“Bình thường tôi nói gì ông cũng lười nhác như con rắn già cuộn mình trong sofa, còn rảnh rỗi nuôi cả bụng bia nữa.”

Người Gác Đêm cúi xuống nhìn.

Bộ cơ bụng 8 múi từng khiến ông tự hào — say lên là cởi áo khoe loạn trong quán bar — giờ đây đã biến thành một cục thịt tròn lấp ló dưới vạt áo.

Ngày xưa ông từng là gã cao bồi phong trần miền Tây hoang dã, còn bây giờ... chỉ là một ông chú dở người mê đồ cao bồi, thích uống rượu mạnh và sưu tầm ảnh gái đẹp.

Nhiều thập kỷ rồi ông không còn thấy kích động, bởi chẳng có gì đáng để kích động cả. 

Những ngày tháng tê liệt vì whiskey, phim cao bồi và gái nóng bỏng, đối với ông mà nói cũng khá dễ chịu.

Nhưng nếu như... lối vào thánh điện kia thực sự đã mở lại—

Thì những ngày dễ chịu ấy, e là sắp đến hồi kết rồi.

---

"Ông kể kỹ cho tôi nghe về Nibelungen đi. Cả bí mật của luyện kim thuật lẫn long tộc. Ông biết rõ hơn tôi nhiều.” 

Anjou nói.

Người Gác Đêm trầm ngâm hồi lâu:

“Nibelungen – tử nhân quốc – có thể chỉ là một huyền thoại, chưa từng tồn tại. Mà nếu có thật, thì nó cũng đã bị phong tỏa suốt bao năm. Người cuối cùng tự nhận đã từng đặt chân tới đó là một nữ phù thủy, nhưng bà ta bị thiêu sống trên giá treo thập tự. Đó là chuyện thời Trung Cổ. Nibelungen là thánh điện mà mọi luyện kim thuật sư đều mơ được hành hương đến. Dù gọi là 'tử nhân quốc’, nó không phải là địa ngục hay âm phủ. Trong đó toàn là báu vật.”

“Báu vật?” 

Anjou cau mày.

“Nếu phải tóm gọn luyện kim thuật trong một câu,” Người Gác Đêm nói chậm rãi, “thì đó là: Giết chết vật chất… rồi làm nó tái sinh. Trong quá trình tái sinh, tạp chất sẽ bị loại bỏ, còn bản thể sẽ mang thuộc tính mới. Nhưng ‘giết chết vật chất’ không đơn giản như giết một sinh linh. Để có thể ‘giết’ kim loại, các thế hệ luyện kim thuật sư không ngừng tìm kiếm những công thức kỳ diệu và ngọn lửa có nhiệt độ cao hơn nữa.”

“Phải chết trước thì mới được sinh ra.” 

Anjou gật đầu.

“Đúng vậy. Vật chất chỉ thực sự đáng giá khi nó đã từng chết. Muốn luyện vàng, trước hết phải giết chết bạc. Muốn rèn thanh kiếm sắc, trước hết phải giết chết sắt thép. Mà trong Nibelungen – kẻ chết ở khắp nơi. Từng có một luyện kim thuật sư miêu tả nơi đó như thế này: không có ngày cũng chẳng có đêm, bầu trời lấp lánh thứ ánh sáng nửa mờ nửa tối như ánh tro than. Đất đai và núi non mang sắc đồng cổ, đều làm từ đất và kim loại đã chết. Trời thì xám xịt, là do không khí ở đó cũng đã chết. Ngọn lửa cháy màu xanh lạnh buốt, bởi nó là hỏa nguyên tố đã chết. Còn nước thì chẳng thể nâng nổi bất kỳ vật gì – vì nước cũng đã chết. Ở đó có những thành phố, được dựng lên từ xương cốt của sinh linh đã khuất. Nguyên tố thứ năm – Tinh thần – ngưng tụ dày đặc nơi ấy, và chính là điều kiện để luyện ra 'Hiền Giả Thạch'. Giờ ông hiểu tại sao giới luyện kim sẵn sàng đánh đổi tất cả chỉ để tới được nơi đó rồi chứ? Với họ, ngay cả bụi bặm trong Nibelungen cũng quý giá hơn vàng. Wagner từng viết trong vở opera Chiếc nhẫn Nibelungen, rằng bọn người lùn đã đánh cắp vàng ở xứ đó, rồi đúc thành chiếc nhẫn có thể thống trị thế giới. Câu chuyện ấy thật giống với những điều mà luyện kim thuật sư vẫn đồn đại.”

“Những thứ này… đều bắt nguồn từ thần thoại Bắc Âu phải không?” 

Anjou trầm ngâm.

"Hắc long Nidhogg canh giữ một nhánh của 'Thế Giới Thụ’ – nơi nối liền đến tử nhân quốc. Hắn chính là kẻ gác cổng. Trong Ragnarok, Khi biển cả bị xé toạc, đó không phải chỉ là tận thế – mà là ngưỡng cửa luyện kim: nơi thế giới vật chất bị xé rách, để tinh thần và linh hồn đổ tràn như thủy triều. Chiến thuyền từ móng tay – tạp chất cuối cùng của con người – trở thành phương tiện đưa linh hồn về 'Lò Luyện Cuối Cùng'.”

“Tôi đã dành nửa đời người để truy tìm truyền thuyết về Nibelungen, từng lần theo dấu vết đến tận Nam Cực, nhưng vẫn chẳng tìm được vương quốc đó.” 

Người Gác Đêm nói.

“Song điều đó không có nghĩa là nó không tồn tại.”

“Ông từng tìm được chứng cứ nào cho thấy nó có thật à?”

Người Gác Đêm lắc đầu:

“Không thể gọi là chứng cứ. Chỉ là một suy đoán thôi. Anjou, ông có từng nhận ra không – trong toàn bộ nghiên cứu của chúng ta về long tộc, luôn thiếu một mắt xích quan trọng. Chúng ta rất hiếm khi phát hiện ra tàn tích của những nơi mà long tộc từng tụ cư, đặc biệt là những di chỉ liên quan đến thời kỳ Hắc Vương – Nidhogg trị vì nhân loại dưới danh nghĩa một vị thần. Trong khi các Pharaoh Ai Cập vẫn còn để lại đầy kim tự tháp.”

Anjou khẽ gật đầu:

“Đúng vậy. Cho tới nay, chưa có một di tích nào từng thuộc về Hắc Vương Nidhogg trước khi hắn bị tiêu diệt được khai quật cả.”

“Chẳng phải rất kỳ lạ sao?” 

Người Gác Đêm hạ thấp giọng. 

"Đó là một nền văn minh rực rỡ đến nhường nào! Chúng từng nô dịch loài người, xây dựng nên những thành phố nguy nga tráng lệ. Trong các điển tịch có ghi, Vua của đồng và lửa cư ngụ tại băng nguyên phương Bắc, nơi hắn đúc nên những cung điện đồng cao vút như núi, còn có cột đồng chống trời nổi tiếng – Hắc Vương từng đóng đinh Bạch Vương trên đó. Trên chiếc cột khổng lồ ấy ghi chép lại lịch sử chinh chiến dài đằng đẵng của Hắc Vương; hắn còn từng ra lệnh xây dựng một thần đạo băng qua đại dương. Theo suy tính, thần đạo ấy rộng 400 mét, là một công trình quy mô còn đồ sộ hơn bất kỳ đường cao tốc nào ngày nay. Nhưng cùng với cái chết của Hắc Vương, những di tích vĩ đại đó cũng biến mất, tựa như Atlantis chìm xuống đáy biển chỉ sau một đêm”

“Rất nhiều dân tộc trên thế giới đều có truyền thuyết về những nền văn minh cổ đại ‘bỗng dưng biến mất’.” 

Anjoh đáp.

“Ý ông là… văn minh của long tộc cũng đã sụp đổ như vậy sao?”

“Rất có khả năng. Nếu tổ tiên của chúng ta đều kể về một nền văn minh huy hoàng rồi biến mất, có thể là vì họ thực sự từng bị nền văn minh ấy làm cho khiếp sợ. Ngày nay vẫn có người dùng Google Maps để tìm kiếm dấu tích Atlantis khắp nơi trên thế giới. Nhưng thứ họ tìm được chỉ là vài điểm cư trú cổ bị nhấn chìm. Còn nền văn minh chân chính kia... có lẽ đang ẩn trong một chiều không gian khác. Muốn đến được đó – cần phải vượt qua một cánh cổng bí ẩn.”

Anjou chậm rãi ngẩng đầu, phả ra một làn hơi rượu nồng nặc hướng lên trần nhà tối đen, trong lòng vẫn còn vương vấn cái cảm giác huyền bí như ma thuật trong lời nói của người gác đêm.

“Không gian song song à?”

Người gác đêm nhún vai:

“Tôi làm nghề luyện kim, chứ không phải nghiên cứu khoa học như mấy người, chẳng có ngôn ngữ học thuật nào để nói chuyện cho trôi chảy cả. Cùng lắm thì bàn chuyện rượu với phụ nữ thì còn hợp. ‘Tử nhân quốc’ không phải là nơi mà bản đồ vẽ ra được. Nó không chịu quy luật của không – thời gian, cũng không thể diễn giải bằng thuyết tương đối hay lượng tử. Truyền thuyết về nó không chỉ xuất hiện trong thần thoại Bắc Âu với con rồng Nidhogg và chiến thuyền của kẻ chết. Ở tận Tây Tạng Trung Quốc – nơi trời và đất tan vào khói hương – cũng có một tín ngưỡng tương tự. Sau khi chết, linh hồn con người không lập tức siêu sinh. Nó lơ lửng, lang thang trong một cõi trung gian gọi là Trung ấm – Bardo, hay theo âm Phạn: Antarabhava. Bốn mươi chín ngày ấy là hành trình khủng khiếp mà linh hồn phải vượt qua, giữa những ảo tượng, sợ hãi và vọng tưởng còn sót lại. Không vị cao tăng nào từng chỉ ra chính xác Trung ấm ở đâu – có thể nó là một không gian có thật, cũng có thể chỉ là tàn dư của ý thức hấp hối. Nhưng với giới luyện kim, những kẻ tin rằng cái chết là tiền đề của tái sinh, thì Trung ấm và Tử nhân quốc là một – cõi giữa của vật chất và linh hồn, nơi mọi nguyên tố đều từng chết, và nhờ cái chết ấy mà chúng trở nên thuần khiết..”

“Được rồi, đạo sĩ ạ,” 

Anjou giơ tay ra vẻ bất lực, “thế có sách vở nào ghi lại cách mở lối vào 'tử nhân quốc’ không?”

“Chết là vào được…”

“Đừng có nhảm!” 

Anjou ôm trán, “Tôi hỏi là sống mà vào cơ!”

“Tôi nói rồi, từ xưa tới nay bao nhiêu đại sư luyện kim đều muốn sống mà vào, nhưng không ai thành công cả… Dù sao giờ thì họ cũng vào được rồi, vì ai nấy đều chết cả rồi.”

“Nhưng Sở Tử Hàng đã từng vào.”

“Có vẻ cậu ta cũng không biết chuyện gì, chỉ là vô tình bước nhầm vào thôi.”

“Nhưng đó là manh mối duy nhất mà ta có tính đến lúc này.”

Người gác đêm im lặng một lúc.

“Đúng vậy, người từng vào thì có lẽ còn tìm được lối cũ. Giống như các linh môi — họ có thể giao tiếp giữa các thế giới, trong khoảng khắc giao thoa giữa ngày và đêm. Những kẻ có thể bước vào Nibelungen đều là người đã được rồng lựa chọn.”

Mưa bắt đầu nặng hạt, từng giọt mưa lộp bộp rơi xuống tấm kính lớn. 

Anjou quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. 

Người gác đêm lặng lẽ quan sát người bạn nhiều năm của mình — ông ngồi trên ghế sofa cạnh cửa kính sát đất, lưng thẳng tắp, bóng dáng gầy gò nhưng cứng cáp, dù chỉ mặc mỗi bộ vest nhưng lại toát ra khí chất oai nghiêm như một võ sĩ mặc giáp sắt. 

Mỗi lần ông phát ra khí thế kiểu đó, đều là lúc lòng ông bừng lên một khát khao chinh phạt mãnh liệt.

“Nếu thực sự tìm được cánh cổng dẫn vào Nibelungen, ông sẽ làm gì?”

“Trói hết bọn rồng lại, nhốt chúng vào các đền thờ của chúng, rồi nhét mỗi nơi một quả bom hạt nhân và cho nổ đồng loạt. Tôi sẽ ngồi trên cây cột đồng từng đóng đinh Bạch Vương mà nhìn thế giới loài bò sát đó sụp đổ, nhìn biển lửa đổ xuống từ trời như mưa.”

Anjou nhàn nhạt nói.

“Nghĩ thôi đã thấy đẹp rồi.”

“Ôi chao, đậm chất nghệ thuật trình diễn đấy!” 

Người gác đêm tặc lưỡi, “Nhưng đúng là phong cách của ông.”

“Dù sao ông vẫn là người hiểu tôi nhất.” 

Anjou nâng ly. 

“Thế nên khi nhận được đoạn ghi âm này, tôi lập tức tìm ông uống một chầu mừng. Nhưng mà… tôi gặp một chút phiền toái nhỏ. Để chắc chắn tôi có thể sống đến lúc tìm ra Nibelungen, ông phải giúp tôi một việc.”

“Chà, chắc là do bữa tối nay nhiều dầu quá… tự nhiên đau bụng ghê…” 

Người gác đêm ôm bụng, lùi dần.

“Lý do thoái thác có thể chuyên nghiệp hơn một chút được không?”

Người gác đêm nhăn nhó:

“Dù sao tôi mà từ chối thì ông cũng sẽ nghĩ tôi đang cố thoái thác thôi… Nói đi, lại là chuyện nguy hiểm chết người gì nữa đây?”

“Tôi vừa nhận được tin, tuần sau hội đồng trường sẽ cử đoàn điều tra đến học viện. Xem ra họ định sa thải tôi khỏi chức hiệu trưởng.”

Anjou nói thản nhiên như thể chuyện chẳng liên quan gì đến mình.

“Khoan đã khoan đã! Sa thải ông á?” 

Người gác đêm giật nảy mình.

“Ừ, tôi bị cáo buộc ba lỗi nghiêm trọng và bốn mươi tám lỗi chi tiết. Hội đồng trường cho rằng báo cáo công tác của tôi cực kỳ không đạt yêu cầu, nghi ngờ tôi không còn đủ năng lực để tiếp tục giữ chức hiệu trưởng.”

“Đừng đùa! Nếu sa thải ông rồi thì ai làm hiệu trưởng? Frost Gattuso à? Thôi đi, lão đó hói cả đầu rồi, chưa nói đến việc trông chẳng đẹp trai bằng một nửa ông đâu.”

"Đừng lảng sang chuyện khác," Anjou nói. 

"Nghe thì có vẻ bất ngờ, nhưng thực ra trong cuộc họp thường niên Hội đồng quản trị mấy tuần trước, bọn họ đã tranh cãi về chuyện này rồi. Lúc đó tôi vẫn tự tin y như ông bây giờ – nghĩ rằng họ chẳng tìm đâu ra người thay thế tôi. Nhưng giờ thì xem ra họ không thể chờ thêm được nữa."

"Lý do chính là gì?"

"Sự cố ở công viên giải trí Six Flags. Sở Tử Hàng đã thi triển 'Quân Diễm' trước mặt đám đông, nung chảy thép trong tích tắc – chuyện đó đã vượt xa giới hạn của ngôn linh thông thường. Hội đồng quản trị bắt đầu nghi ngờ huyết thống của em ấy là một mối nguy hiểm. Mà đưa một huyết thống nguy hiểm vào học viện thì chẳng khác gì đại thất trách, chỉ cần chứng minh được điều đó là họ có cớ hất tôi ra khỏi ghế. Hơn nữa, trong kế hoạch 'Nibelungen', Sở Tử Hàng lại đang bị điều tra. Trong tài liệu từ Trung Quốc, người ta nhắc đến chuyện em ấy từng đi lạc vào 'tử nhân quốc'. Quá kỳ quặc. Ai cũng có thể nhận ra chuyện đó chắc chắn có liên quan đến long tộc – mà không phải loại bình thường đâu – và em ấy đã dính vào, thậm chí còn sống sót trở ra. Như vậy thì nghi ngờ về huyết thống là chuyện tất yếu."

"Hội đồng quản trị biết vụ Nibelungen à?" 

Người Gác Đêm nhíu mày.

"Chưa. Họ vẫn chưa liên hệ được đến Nibelungen. Nhưng nếu họ bắt được Sở Tử Hàng, họ thừa sức làm như tôi – thôi miên em ấy, moi ra toàn bộ sự thật."

"Thế thì cũng chẳng sao. Có khi biết đâu Hội đồng còn tìm ra cách vào Nibelungen, tài trợ cho ông vài quả bom hạt nhân, cho ông đi nổ tung cả cái nơi đó đi. Tốt nhất là nổ luôn ông cho gọn – tôi có thể tưởng tượng được họ ghét ông đến mức nào." 

Người Gác Đêm nhún vai, "Vậy là ông mãn nguyện vì được trả thù, Hội đồng giành lại quyền lực, ai nấy đều vui vẻ cả."

"Ông cũng sẽ vui chứ?" 

Anjou cầm ly rượu, bước tới cửa sổ, nhìn ra bức tượng trên nóc "Anh linh điện” đang bị nước mưa xối ướt đẫm.

"Là bạn cũ, tôi nhất định sẽ đến dự đám tang ông. Và đảm bảo không phá rối gì cả." 

Người Gác Đêm đứng thẳng người, ngẩng đầu lên đầy nghiêm túc.

"Đám người trong Hội đồng đó không thể chống lại long tộc, ông và tôi đều rõ điều đó – chỉ có bọn họ là không biết. Họ chẳng hiểu chiến tranh tàn khốc đến mức nào, nhưng lại tự tin rằng khi long tộc bị chôn vùi hoàn toàn, quyền lực thế giới sẽ thuộc về tay họ." 

Anjou nói chậm rãi. 

"Nhưng cuộc chiến này chỉ vừa mới bắt đầu thôi."

Người Gác Đêm nhún vai, "Bọn họ là chính trị gia, mà chính trị gia thì lúc nào cũng nghĩ đến việc xây dựng tân thế giới, ngay cả khi chiến tranh còn chưa kết thúc. Giống như Mỹ và Liên Xô còn chưa chiếm được Berlin đã lo chia lại châu Âu rồi."

"Còn tôi là quân nhân. Tôi chỉ cần sống sót đến khi cuộc chiến kết thúc." 

Anjou nhìn người Gác Đêm. 

"Bạn tôi, trước khi chiến tranh kết thúc, tôi vẫn cần ông ở bên."

Người Gác Đêm thở dài, "Ông bạn già, ông sắp rụng răng xuống lỗ rồi, còn cố gắng làm gì nữa?"

"Ông biết rõ lý do, hỏi làm gì nữa?"

Người Gác Đêm khẽ gật đầu. 

"Ông là người đưa tang, nên ông luôn mặc đồ đen, trong tay áo lúc nào cũng giấu dao gập. Suốt cả trăm năm nay, từng giây từng phút ông đều nghĩ đến chuyện giết người – à không, là đồ long. Ông là loại người thù dai. Ai đã thù ông, ai đã thành kẻ địch của ông, chỉ có một con đường – chết. Trừ khi họ giết ông trước. Tôi chỉ không hiểu vì sao ông lại cứng đầu như vậy."

"Vậy còn ông thì sao? Bao nhiêu năm rồi, tại sao vẫn ở lại Học viện Cassell? Đừng nói với tôi là vì ở đây có bia ngon để ông dưỡng già nhé." 

Anjou quay đầu lại, nhìn thẳng vào ông ấy

Người Gác Đêm gãi đầu, "Tôi không nói đâu… Tôi không muốn bịa ra lời nói dối."

Anjou bật cười, "Ông mà trung thực vậy sao? Trước kia ông nói dối mấy cô gái giỏi lắm mà."

"Ông đâu phải phụ nữ, nên tôi không lừa ông được."

"Ông đúng là loại người không buông được mấy câu đùa lạnh nhạt." 

Anjou cầm lấy cây dù mang theo, định rời đi – mục đích chuyến viếng thăm này đã đạt được.

"Này, Anjou." 

Người Gác Đêm gọi phía sau lưng.

Anjou dừng lại, không đáp, cũng không quay đầu lại.

“Tôi chẳng ưa gì bọn tài phiệt và chính khách trong Hội đồng quản trị. Vì lợi ích, họ sẵn sàng hi sinh bất kỳ ai. Chính trị gia xưa nay đâu cần danh dự hay giới hạn đạo đức gì. Nhưng ít ra, họ còn đang nghĩ đến chuyện xây dựng — một kỷ nguyên mới cho hỗn huyết chủng, một thời đại mà họ có thể nắm quyền. Còn ông thì sao? Ông chỉ muốn làm người đưa tang cho long tộc… Tôi tin ông. Nếu cho ông cơ hội, chắc chắn ông sẽ không ngần ngại mà thả cả đám mây hình nấm xuống, chấm dứt giống loài đó bằng vũ khí hạt nhân. Đến khi lửa trút xuống từ trời, ông sẽ châm một điếu xì gà, rót một ly sâm panh — nâng ly tưởng niệm những người bạn cũ. Cả đời ông chỉ chờ khoảnh khắc ấy — một khoảnh khắc đậm chất… trình diễn nghệ thuật.”

Người Gác Đêm hạ giọng:

“Nhưng Anjou… hãy nghĩ cho kỹ. Ông chỉ muốn hủy diệt. Ngoài điều đó ra, ông chẳng màng gì cả. Ông đã bước vào con đường không lối thoát. Ông tưởng mình là ai? Là nữ thần báo thù chắc?”

Anjou đứng dưới hiên, chống cây dù. 

Nước mưa rơi lộp độp từ mép ô.

Ông ngẩng đầu nhìn lên bầu trời xám xịt như sắt, ánh mắt đăm chiêu.

Bóng lưng ông như bị kéo dài ra bởi màn mưa — mơ hồ, xa vắng.

“Ông nhầm rồi,” Anjou trầm giọng nói.

“Là nam thần báo thù.”