Chiếc bàn họp bằng gỗ sồi khổng lồ được đặt giữa những giá sách sừng sững, vây quanh chiếc bàn ấy là những người có gương mặt già nua.
Phần lớn trong số họ chưa từng xuất hiện tại khuôn viên Học viện Cassell, từng gương mặt đều trắng bệch như thể vừa được khai quật từ cổ mộ.
Tất cả đều mặc lễ phục đuôi tôm màu đen kiểu cũ, ngón út tay trái đeo một chiếc nhẫn bạc cổ xưa.
Những giáo sư trẻ chỉ có thể đứng một bên dự thính, cả trăm người chen chúc khiến tầng trệt văn phòng hiệu trưởng chật kín không còn chỗ trống.
Đây là một giếng trời trong nhà, không gian thông suốt lên đến tận mái, ánh nắng trút xuống từ ô cửa kính trời, rọi sáng gương mặt hiệu trưởng Anjou đang ngồi ở đầu bàn họp.
Cái gọi là “giáo sư trẻ” chính là ám chỉ những người như Guderian.
Ông bị ép vào một góc, phấn khích đến phát run, nắm chặt ngón út trống không của mình.
Mỗi vị “giáo sư trẻ” đều khao khát có được chiếc nhẫn bạc cổ ấy – biểu tượng danh dự của “giáo sư trọn đời” tại Học viện Cassell.
Mà để trở thành “giáo sư trọn đời”, người ta thường phải cống hiến nửa thế kỷ cho giảng dạy tại đây.
Nếu những nhà khoa học già lão kia là người bình thường… họ đáng ra đã sa sút trí tuệ vì tuổi già từ lâu rồi.
“Trời ơi! Đó là Doug Jones! Một cột mốc trong lịch sử vật lý hạt nhân! Không có ông ấy, nước Mỹ không thể chế tạo bom nguyên tử! Cả thế giới đều tưởng ông ta đã chết rồi!”
Guderian giọng run rẩy, “Và kia là Jean Grus! Chính ông giúp nước Mỹ vượt mặt Liên Xô để đặt chân lên mặt trăng! Ông ấy từng từ chối giải Nobel! Người Mỹ tưởng ông đã cải đạo làm Lạt-ma và ẩn tu ở Tây Tạng ba mươi năm trước rồi!”
“Á á á á á! Đó là ‘Solomon của giới toán học’ Blair Bittner! Một thiên tài ngang tầm Einstein trong lĩnh vực toán học!” Guderian thúc cùi chỏ vào Manstein.
“Đừng làm như bị thần tượng làm cho mê muội thế! Giờ tôi có thể thấy hình trái tim màu hồng trong mắt ông rồi đấy!”
Manstein thấp giọng quát.
“Chẳng lẽ ông không kích động sao? Bọn mình đang họp cùng với những cột mốc sống trong lịch sử khoa học cận đại… mà họ lẽ ra đều đã trở thành bia mộ cả rồi… Nếu tin họ còn sống bị truyền thông phát hiện, những bậc thầy đương đại trong mọi lĩnh vực chắc chắn sẽ đổ về đây, để bái kiến thầy của thầy của thầy của thầy họ…”
Guderian xoa xoa hai tay, “Hy vọng sau buổi họp còn cơ hội xin chữ ký.”
“Chụp ảnh kỷ niệm chẳng phải tốt hơn sao?”
“Ôi bạn già, câu đó đúng lắm! Giúp tôi chụp một tấm nhé? Ông nói xem nếu tôi khoác vai họ lúc chụp thì có bị coi là quá lỗ mãng không?”
Guderian đập tay vào tay kia đầy hứng khởi
“Chụp hình kỷ niệm với đám điên sao? Có ý nghĩa gì không?”
Manstein lạnh nhạt nói.
“Điên?”
Guderian sững người.
Manstein khẽ thở dài:
“Cái gọi là mốc son trong lịch sử khoa học, chẳng qua chỉ là vật tế mà nhân loại dâng lên con quái vật mang tên khoa học. Nhìn họ đi, da dẻ trắng bệch héo quắt, nhưng con ngươi lại rực sáng như ngọn đuốc. Trong số họ, có kẻ đã nửa thế kỷ chưa từng rời khỏi phòng thí nghiệm, dành toàn bộ cuộc đời để nghiên cứu, chỉ mong trước lúc chết có thể tiến gần hơn vài bước đến miền đất của chân lý. Thân thể họ không ngừng suy tàn, chỉ còn bộ não là phát triển. Tất nhiên, họ có lẽ chẳng mấy bận tâm đến việc tay chân thoái hóa, miễn là còn giữ được bộ óc để tư duy, vì cuộc đời họ, ngoài suy nghĩ ra chẳng còn gì khác. Họ… là một đám tín đồ mộng tưởng của khoa học, một lũ điên đội lốt thiên tài. Ông có bao giờ nghĩ đến cuộc sống như thế chưa?”
“Cái đó thì tôi thật sự không muốn……”
Guderian gãi đầu.
Manstein gật gù, tỏ ý tán thưởng vì người bạn già vẫn còn giữ được chút lý trí.
“Tôi sao xứng đáng được như họ chứ?”
Guderian ngượng ngùng như một thiếu nữ xuân tâm rung động trước thần tượng, “Chỉ mong có thể rót trà bưng nước cho những kẻ điên cuồng truy đuổi chân lý…”
Manstein lặng lẽ lấy tay che mặt, không biết nên hình dung nỗi bất lực trong lòng mình như thế nào cho đúng.
“Yên lặng.”
Anjou thấp giọng nói.
Hai người lập tức thức thời ngậm miệng.
Thực ra, từ lúc bước vào phòng họp đến giờ, chỉ có hai người họ là líu ríu thì thầm.
Những “giáo sư trẻ” khác đều giữ nét mặt nghiêm túc như thể vừa mới mất cha mẹ, còn những “giáo sư trọn đời” – thỉnh thoảng mới rời khỏi điện thờ học thuật để “đổi gió” – thì mặt vô cảm… chẳng khác nào những ông bà cha mẹ đã chết thật.
“Mọi người đã đến đông đủ, cuộc họp bắt đầu. Blair, người bạn già của tôi, đã nửa thế kỷ rồi không gặp, được tận mắt nhìn thấy ông vẫn còn sống khiến tôi rất vui.”
Anjou nhìn “Solomon của giới toán học”, “Còn có những người bạn già khác nữa – các chủ nhiệm đáng kính của chúng ta – rất vinh hạnh được đối mặt cùng các vị. Nhưng tôi cũng rất xin lỗi vì đã cắt ngang nghiên cứu của các vị. Do có lý do bất khả kháng, báo cáo đã được gửi tới các vị, chắc hẳn các vị đã xem qua rồi.”
Những người có thể ngồi vào chiếc bàn hội nghị này đều là các trưởng khoa của Học viện Cassell.
Đối với đại đa số sinh viên mà nói, họ chỉ biết mình thuộc khoa nào chứ hoàn toàn không biết rằng còn có một nhân vật tên là "chủ nhiệm”.
“Xét theo vật lý học, con người hiện tại chưa thể làm được việc đó.”
Chủ nhiệm khoa Vật lý, Doug Jones, khẽ nói.
Ông ta gù lưng, cột sống lão hóa gần như cong thành vòng tròn, vừa nói vừa ho liên hồi, trông như thể chỉ cần hụt một hơi là sẽ ngạt thở ngay.
Ông ta thao tác trên bảng điều khiển cảm ứng trên bàn, hai bức ảnh đen trắng được chiếu lơ lửng giữa không trung – lần lượt là đống đổ nát của nhà ga phía nam và của “Trung Đình Xà”.
Những thanh nhôm và đường ray bị vặn xoắn lộ ra một vẻ đẹp kỳ dị và dữ tợn, giống như bộ xương rắn bị lột sạch da thịt rồi vặn ngược.
“Cả hai tòa kiến trúc đều sụp đổ do áp lực nội tại – loại ‘ứng suất như hồn ma’ ấy, một khi bộc phát thì dễ dàng phá hủy công trình kim loại có thể chịu được động đất cấp 9.”
Doug Jones lắc đầu, “Nếu con người hiểu được cách nào để kích phát loại ứng suất ấy, thì chỉ cần chọt một ngón tay cũng có thể hủy diệt đập Hoover.”
“Ứng suất như hồn ma?”
Các “giáo sư trẻ” nhìn nhau – tuy rằng đây là lời của những đại cao thủ học thuật, nhưng quả thực cũng quá hoang đường rồi.
“Chúng tôi đã tra bản thiết kế của ‘Trung Đình Xà', đây là một trong ba tàu lượn có cấp độ cao nhất thế giới. Vì trước đây chưa từng thiết kế tàu lượn khó như vậy, nên để đảm bảo an toàn, chỗ nào lẽ ra chỉ cần dùng thép dày một inch thì họ tăng lên đến năm inch – ngay cả một chiếc chiến đấu cơ F-22 đâm thẳng vào cũng chưa chắc làm nó đổ.”
Chủ nhiệm khoa Cơ giới chính xác, Jean Grus, nói.
“Thế nhưng nó lại sụp đổ vì ứng suất – loại ứng suất im lặng ấy mạnh hơn động năng của một chiếc F-22 đang bay hành trình siêu thanh, vì vậy chúng tôi mới gọi nó là ‘ứng suất như hồn ma’.”
Blair Bittner nhíu mày: “Grus, bọn trẻ bây giờ nền tảng cơ học hơi kém, ông nên giải thích khái niệm cơ bản về ứng suất trước đi!”
Danh xưng “Solomon của giới toán học” quả thật không phải hư danh.
Ông chống hai tay lên một cây gậy đen có khảm ngà, thẳng lưng ngồi trên chiếc ghế gỗ cứng, đầu tóc như sư tử, trông chẳng khác gì một võ sĩ Nhật Bản chuẩn bị mổ bụng – thật sự toát ra khí chất vương giả.
Những “giáo sư trẻ” – tuổi trung bình năm mươi – đều lộ ra vẻ xấu hổ.
“Nói đơn giản thì: khi một lực tác động lên kết cấu kim loại, phản lực mà kết cấu đó tạo ra để chống lại lực ấy chính là ‘ứng suất’.” Jean Grus nói tiếp, “Nếu đó là lực xoắn, thì phản lực là ‘ứng suất cắt’. Ứng suất cắt hình thành dòng ứng suất cắt – sức mạnh khổng lồ chảy bên trong bộ phận kim loại như nước, ở những nơi mỏng yếu hoặc hẹp, mật độ lực sẽ cực kỳ cao. Khi mật độ vượt quá ngưỡng cho phép, kết cấu kim loại sẽ bắt đầu tan rã.”
“Vậy thì, ứng suất cắt lẽ ra phải là kẻ thù chung của mọi công trình xây dựng, tại sao lại thể hiện sức phá hoại kinh khủng như vậy trên hai tòa kiến trúc kia?”
Có người đặt câu hỏi.
“Câu hỏi hay,” Solomon gật đầu, “Chúng ta từng nói rằng ứng suất cắt chảy như nước trong các bộ phận kim loại, nhưng không hề đồng đều – mà hỗn loạn như dòng xoáy loạn lưu. Giống như nước lũ vặn xoắn qua những khe hẹp, dòng ứng suất cũng cuộn xoáy quanh các điểm bất thường trong cấu trúc: vết nứt siêu nhỏ, mối hàn, góc gấp, hay lỗi chế tạo. Thông thường, những dòng ứng suất cắt nhỏ sẽ triệt tiêu lẫn nhau như sóng gợn trên mặt hồ – một loại tự cân bằng bên trong vật liệu. Khi đó, kết cấu vẫn ổn định, không có gì vượt quá giới hạn cho phép. Nhưng cũng có ngoại lệ.”
Ông liếc nhìn Grus, “Kỹ sư cơ giới tiên sinh, đây là lĩnh vực chuyên môn của ông.”
Grus gật đầu: “Đúng vậy, Loại ngoại lệ này có một cái tên lạnh lùng nhưng chuẩn xác: tập trung ứng suất. Trong khoảnh khắc, những dòng ứng suất cắt tưởng như vô hại bỗng hội tụ vào một điểm liên kết yếu – một lỗ bu-lông, một khe hàn, một vết nứt siêu nhỏ – giống như mọi dòng xoáy trong biển sâu bất ngờ gặp nhau nơi tâm bão. Tại điểm đó, chúng không còn triệt tiêu, mà chồng lên nhau, nhấn chìm cấu trúc bằng một "hợp lực" kinh hoàng. Kim loại bị xé rách từ trong ra ngoài, không phải do ngoại lực lớn – mà bởi chính sức mạnh bên trong nó, như hồn ma thức tỉnh trong lòng sắt thép. Nhưng để dẫn dắt sự tập trung ứng suất ấy, hoặc "đánh thức hồn ma trong kim loại", ta phải nhìn thấu toàn bộ kết cấu – từng thanh giằng, từng điểm tựa, từng nút giao chịu lực. Đó là một lượng tính toán khủng khiếp, ngay cả Norma cũng không làm được. Vậy nên mới nói điều đó nằm ngoài năng lực của loài người.”
Ông ta đưa mắt nhìn quanh, “Ở đây có ai hiểu về cổ quyền pháp phương Đông không?”
Cả phòng họp im lặng.
Grus gật đầu:
“Gần đây tôi vẫn luôn nghiên cứu một môn võ cổ của Trung Quốc, tên gọi là ‘Kim Cương Nhất Chỉ Thiền’.”
Vẫn im lặng như tờ.
Tư duy của thiên tài học giới quả nhiên như rồng thấy đầu không thấy đuôi, những người khác cứ như bị sương mù vây quanh, không ai hiểu ông ta đang muốn nói gì — chỉ có Solomon hơi gật đầu, dường như cũng là một bạn đạo yêu quyền pháp.
Grus giơ lên một ngón tay thô ngắn, ánh mắt sáng rực:
“‘Kim Cương Nhất Chỉ Thiền’ là một loại võ thuật Thiếu Lâm, nghe nói người luyện thành có thể dùng một ngón tay chọc vỡ bia đá. Điều này khiến tôi vô cùng hiếu kỳ. Đốt ngón tay được cấu tạo bởi nước, protein và một lượng nhỏ canxi, thật ra vô cùng mong manh, chỉ cần bẻ nhẹ đã gãy, sao có thể tạo ra hiệu quả như một mũi khoan hợp kim siêu cứng? Nhưng có bằng chứng cho thấy từng có người luyện thành môn quyền pháp cổ này. Sau sáu tháng nghiên cứu, hàng nghìn lần thử nghiệm, mấy đồng nghiệp của tôi còn bị gãy ngón tay trỏ… cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra bí quyết. Bí mật nằm ở vị trí đánh và cách dùng lực — phải dùng lực tinh chuẩn nhất để đánh vào điểm yếu nhất. Người Trung Quốc gọi vị trí đó là ‘nhãn’ hoặc ‘huyệt’. Đá có nhãn của đá, thép có nhãn của thép — phải khiến lực chảy như dòng nước vào đúng nhãn đó, dẫn dắt thứ ứng suất như hồn ma ấy. Hậu quả của sự tập trung ứng suất là toàn bộ mục tiêu tan vỡ, thậm chí lập tức hóa thành bột mịn.”
“Nói như vậy…”
Anjou lên tiếng, “Trong hai cuộc phục kích ở ga Nam và công viên giải trí Six Flags, kẻ địch của chúng ta là một quyền sư thần bí, người có thể khống chế năng lượng đến mức cực hạn. Nếu hắn muốn, thậm chí có thể hủy diệt Tòa nhà Quốc hội hay Lầu Năm Góc chỉ bằng một cú đánh?”
“Hóa ra là một lão quyền sư.”
Guderian ra chiều suy nghĩ.
“Một quyền sư có thể đập vỡ bia đá thì được,” Manstein thấp giọng nói, “nhưng Trung đình xà là một công trình thép cường độ cao đấy.”
“Họ nói ‘lão quyền sư’ đó là một tồn tại khác…”
Solomon vương nhẹ giọng.
“Trong Tứ Đại Quân Chủ — chính là… Vua của Đại Địa và Núi!”
Ông nói khẽ.
Cả phòng họp rơi vào tĩnh lặng chết chóc.
Tên gọi cổ xưa đó từ thời Thái cổ vang lên khiến tất cả đều chết lặng.
Dù từ lâu họ đã biết đến sự tồn tại của vị long vương này qua các cổ tịch, và lần này hắn còn hiện lên với hình tượng hài hước như một “quyền sư phương Đông”, nhưng chẳng ai cười nổi.
Cảm giác như có một cái bóng khổng lồ phủ xuống trên họ, nặng như núi.
"Hắn là chủ tể của đại địa, nguyên tố mà hắn nắm giữ là ‘thổ’.”
Anjou nhẹ nhàng nói.
"Hắn là loài long tộc tinh thông điều khiển sức mạnh nhất trên thế giới. Điển tịch ghi rằng: ‘Sóng ngầm nơi nham thạch báo hiệu tư thế duỗi thân trước lúc ngài tỉnh mộng; đến ngày ngài thức tỉnh trọn vẹn, sơn lăng ắt hóa thâm uyên.’ Hắn thậm chí có thể xuyên thủng lớp vỏ Trái đất.”
“Nếu hắn đã tỉnh lại... vậy tại sao không trực tiếp xuất hiện trước mặt chúng ta? Với khả năng khống chế 'lực' của hắn, trong chúng ta không ai có thể chống đỡ, chỉ có thể mặc cho hắn chém giết.”
Có người hỏi.
---
“Không biết nữa,” Anjou lắc đầu, “có lẽ vẫn còn điều gì đó khiến hắn e ngại chăng? Cũng có thể lần này không phải bản thân Long vương thức tỉnh, mà chỉ là con cháu của hắn – một hậu duệ tôn quý nào đó. Nhưng dù thế nào đi nữa, đứng sau hai sự kiện kia chắc chắn là một cá thể tân long tộc vừa tỉnh giấc. Bất kỳ long tộc nào cũng là kẻ địch của chúng ta, chỉ cần cho chúng cơ hội, chúng sẽ nghiền nát tất cả chúng ta thành tro bụi! So với việc khoanh tay chờ chết, chi bằng mài giũa kiếm đao. Lần này, chúng ta phải đối mặt với một con rồng đã tỉnh giấc – mà phụ thân của nó, có thể chính là Hắc Vương vĩ đại: Nidhogg! Cuộc họp hôm nay là một cuộc họp chuẩn bị chiến tranh. Sau khi kết thúc, cảnh báo nguy cơ long tộc cấp cao nhất sẽ được phát ra toàn thế giới. Một cuộc chiến mới... sắp bắt đầu rồi.”
Các giáo sư trọn đời lần lượt đứng dậy, cùng với các “giáo sư trẻ” đồng thanh đặt tay lên ngực, giọng nói trang nghiêm:
“Thiện tất thắng ác, nơi ánh sáng chiếu đến, bóng tối không thể ẩn mình.”
Sau khi tiễn bước các giáo sư trọn đời, Anjou quay lại bàn làm việc ở tầng ba.
Trên bàn đặt một bình trà sứ xương cùng hai tách trà, trà đen Darjeeling trong bình vẫn còn ấm.
Một nam sinh viên lười nhác đang ngồi cạnh bàn.
Các giáo sư tham dự cuộc họp ở tầng một ban nãy không ai nhận ra có một sinh viên đã dự thính cả buổi, mà thậm chí còn có cả chỗ ngồi, trà nóng và điểm tâm.
Phải biết rằng ngay cả Chủ nhiệm Ủy ban Kỷ luật Manstein cũng phải đứng.
“Minh Phi, em không thử bánh xốp à? Vị hạt phỉ đấy.”
Anjou ngồi xuống đối diện, châm một điếu xì gà, nhấc tách trà lên.
“Em làm gì còn tâm trạng mà ăn…”
Lộ Minh Phi thở dài, “Hiệu trưởng à, em nghe lén buổi họp như thế có được không ạ? Thầy biết em mà, miệng em thỉnh thoảng hơi to, lỡ em lỡ lời…”
“Cuộc họp này trùng với giờ ‘trà chiều của hiệu trưởng’, và em là sinh viên được thầy mời đến uống trà hôm nay. Rất xin lỗi vì cuộc họp đã làm gián đoạn trà chiều của chúng ta. Thầy chỉ bảo em chờ ở đây một lát thôi.”
Anjou nhún vai.
“Nhưng những chuyện các thầy nói… toàn là cơ mật mà.”
“Còn có những cơ mật hơn nữa, em có muốn nghe không?”
Lộ Minh Phi bịt tai lại:
“Thôi thôi thôi, dù em có thể giữ mồm giữ miệng đi nữa, lỡ lúc ngủ nói mớ thì sao ạ? Với lại mấy chuyện đó đâu có liên quan đến em… Em nói thật đấy, nếu đúng là Long vương thức tỉnh thì trong đội trừ long lần này đừng có gọi em nữa nhé? Em từng liều mạng đi chơi ở nhà Long vương đấy, việc tổn đức như thế mà làm hai lần thì em phải tích đức trăm năm mới bù lại nổi!”
“Không còn cách nào. Đã đến lúc tiết lộ cho em một vài bí mật rồi. Là sinh viên cấp ‘S’ duy nhất của chúng ta, có những chuyện sớm muộn em cũng phải biết.”
Anjou đặt tách trà xuống, nhẹ nhàng nhấn vào một nút đỏ ẩn trong ngăn kéo.
Lộ Minh Phi cảm thấy cả chiếc ghế và sàn nhà bên dưới đang rung nhẹ, rồi cậu, Anjou, chiếc bàn làm việc lớn bằng gỗ nam mộc và cả ấm trà vẫn còn bốc hơi nóng… cùng chìm vào trong bóng tối vô biên.
“Á! Động đất à? Động đất rồi sao ạ?”
Lộ Minh Phi hét lên.
“Không, chúng ta chỉ đang hạ xuống.”
Trong bóng tối, tàn lửa nơi điếu xì gà của Anjou chớp tắt mờ mờ.
“Hạ xuống?” Lộ Minh Phi sững người, “Hạ xuống đâu cơ ạ?”
“Phần còn lại của Học viện Cassell.”
Sàn nhà và bàn lại rung lên một lần nữa, tốc độ từ từ chậm lại, cuối cùng thì dừng hẳn.
Bốn phía bất chợt sáng lên, Lộ Minh Phi ngẩng đầu nhìn, lại thấy một con cá mập!
Không chỉ là con cá mập đầu búa khổng lồ kia, bên trái cậu còn có thể thấy rùa biển đang bơi lười biếng, bên phải là cá ngừ vây xanh dài hơn hai mét, đàn cá thu khổng lồ đang bơi cuộn quanh, ánh nước và bóng cá dao động bốn bề, không nơi nào không lung linh sóng sáng.
“Đây là bể cá của trường.”
Anjou giải thích.
“Hiện tại, chúng ta đang ở trong đường hầm dưới đáy bể cá.”
“Bể... bể cá?”
Lộ Minh Phi ngẩn người.
“Sao chúng ta lại ở trong bể cá được ạ?”
“Chính xác mà nói, chúng ta đang ở trong một thang máy. Thang máy VIP chuyên dụng của hiệu trưởng.”
Anjou nói.
“Thang máy?”
Lộ Minh Phi càng thêm mơ hồ.
“Chính là cái khu vực rộng bằng sàn nhà này, bốn phía là tường kính trong suốt. Đây chính là thang máy của thầy.”
Anjou nói.
“Thang máy của thầy vừa mới chìm xuống đường hầm dưới nước.”
“Thang máy VIP cỡ nào mà cho cả bàn làm việc vào được? Xa xỉ quá rồi đấy ạ?”
Lộ Minh Phi lẩm bẩm, chỉ riêng cái bàn làm việc to tướng của Anjou cũng lớn hơn cả diện tích của một thang máy bình thường, thế mà lúc họ chìm xuống, ngay cả tủ rượu của Anjou cũng bị đưa xuống theo!
“Người ôm mộng cứu thế giới thì có bận tâm mấy đồng tiêu vặt này đâu?”
Ông già uể oải phản bác.
Thang máy đột nhiên bắt đầu chuyển động, không phải lên xuống mà là trượt ngang, lao qua khỏi đàn cá thu lớn đang bủa vây xung quanh.
Cá mập đầu búa và rùa biển đối với chiếc “phòng kính” này chẳng mấy bận tâm, có vẻ đã quen nhìn thấy rồi.
“Trong bể cá nuôi đủ loại sinh vật biển, đây là ngân hàng gen của học viện, nghiên cứu về chủng loài rồng cần vô số mẫu gen để đối chiếu.”
Anjou giải thích.
“Tất nhiên, bể cá chỉ là một phần của không gian ngầm này. Giờ chúng ta sẽ tham quan các khu vực khác. Trong khoảng thời gian tiếp theo, em sẽ được tham quan khu vực có mức bảo mật cao nhất của học viện Cassell – nơi đó được gọi là 'băng khiếu’.”
“Băng khiếu?”
Lộ Minh Phi nghi ngờ tai mình nghe nhầm.
Hiếm có sinh viên nào được phép vào băng khiếu, đó là nơi truyền thuyết bảo rằng học viện Cassell cất giữ thiết bị luyện kim và vũ khí nguy hiểm, những người từng vào đều giữ im lặng.
“Mọi người đều nghĩ băng khiếu chỉ là một cái kho hay phòng trưng bày? Đó chỉ là một phần của nó thôi. ‘Băng khiếu’ là tên gọi chung của tổ hợp công trình dưới lòng đất của học viện, không gian nơi này rộng lớn hơn nhiều so với phần nổi trên mặt đất. Những chủ nhiệm mà em chưa từng gặp, đúng chứ? Với một học viện bình thường, việc chủ nhiệm không xuất hiện trong khuôn viên là điều không tưởng. Nhưng ở học viện Cassell, công việc thực sự của các chủ nhiệm là nghiên cứu, và tất cả phòng thí nghiệm của họ đều nằm dưới lòng đất. Ở đây còn có máy chủ của Norma, thiết bị thí nghiệm hạng nặng, thậm chí còn có cả một tuyến tàu điện ngầm nối với thế giới bên ngoài!”
Anjou đầy tự hào nói.
“Không gian ngầm này là sự kết hợp của công nghệ điện tử, cơ khí và luyện kim, không một con người nào có thể xâm nhập vào.”
“Vậy… long tộc thì sao ạ?”
Anjou khựng lại, có chút lúng túng:
“Long tộc thì chưa từng xâm nhập… nhưng trường từng phát hiện có chuột… Không biết làm cách nào mà nó chui vào được.”
“Thế thì có gì đáng tin đâu!”
“Phía trước là vườn thực vật của trường.”
Anjou nói.
Lộ Minh Phi thấy phía dưới chân hiện ra một mảng xanh tươi um tùm, nhưng đó không phải bãi cỏ hay vườn hoa, mà là… một khu rừng!
Hai đường ray sắt được treo lơ lửng vắt ngang qua ngọn cây, thang máy của họ đang vượt qua một cánh rừng cận nhiệt đới!
Mà trên đỉnh đầu họ, lại có cả ánh mặt trời!
“Ánh sáng nhân tạo, dùng để cung cấp năng lượng quang hợp cho thực vật nơi này. Đây là một khe nứt khổng lồ trong địa tầng, thật ra không gian cũng không quá lớn, nhưng ở đây bảo tồn hơn 120.000 loài thực vật.”
Anjou nói.
“Bên cạnh còn có cả vườn thú, nơi lưu giữ hơn 8.000 loài động vật, từ heo cho đến gấu trúc, nhưng không bao giờ mở cửa cho bất kỳ du khách nào.”
Thang máy chui vào một khe nứt trong lòng đá núi, rồi rất nhanh lại chui ra ngoài.
“Cái kia là gì vậy ạ? Nhìn giống như một kim tự tháp!”
Lộ Minh Phi kinh ngạc chỉ tay về phía trước.
“À, đúng là một kim tự tháp.”
Ông già đáp nhẹ bẫng
“Trường cho nhổ cả công trình ấy lên từ rừng rậm Nam Mỹ – nguyên một kim tự tháp cổ bị rễ cây và đất đỏ nuốt chửng suốt hàng ngàn năm. Trường tháo rời từng khối đá, đánh số cẩn thận, rồi đóng container đặc chủng chuyển về bằng một tàu hàng siêu trọng tải 70.000 tấn. Chuyến hàng ấy kéo dài hơn một tháng, vượt nửa vòng Trái Đất. Khi đến nơi, trường dựng lại công trình y như cũ – từng khe hở, từng vết mòn trên đá đều khớp hoàn hảo..”
Thang máy của hiệu trưởng dừng lại trước kim tự tháp, họ bước xuống bằng thang cuốn kim loại, đi tới bệ xi măng khổng lồ nơi đặt kim tự tháp.
“Em có nhận ra nó khác gì với kim tự tháp bình thường không?”
Anjou dẫn Lộ Minh Phi đi vòng quanh kim tự tháp.
Toàn bộ công trình được xây bằng đá đen nguyên khối, không dùng bất kỳ chất kết dính nào, cứ như trò xếp hình vậy, dựa vào chính sức nặng và kỹ thuật cắt ghép chuẩn xác để giữ vững kết cấu.
Dù đã có chút hao mòn, nhưng các hoa văn trên bề mặt vẫn còn rất rõ nét.
Người xây kim tự tháp này đã khắc họa tiết lên đá đen cứng rắn, rồi dùng đồng nung chảy đổ vào các rãnh khắc rất sâu đó.
“Giống như… nhiều hơn một mặt ạ?”
Lộ Minh Phi nói.
“Đúng vậy, khác với tất cả kim tự tháp khác, nó có năm mặt bên. Mỗi mặt có 133 bậc đá, mỗi bậc đều khắc đầy chữ cổ của người Maya, chính xác mà nói, là các con số. Cả kim tự tháp này, chính là một quyển lịch sử – quyển lịch sử của người Maya, là lịch sử của toàn bộ thế giới trong lòng họ.”
Anjou vuốt tay lên bề mặt đá đen.
"Nhưng cái gọi là ‘lịch sử’ của người Maya, không chỉ bao gồm quá khứ… mà còn bao gồm cả tương lai.”
Lộ Minh Phi sững người.
“Nó là quyển sách của quá khứ, cũng là quyển sách của hiện tại, và là quyển sách của tương lai. Nó vừa là sử ký, lại vừa là sách tiên tri.”
Anjou nói.
“Thâm sâu quá rồi.”
Lộ Minh Phi gãi đầu.
“Em xem phim 2012 chưa?”
“Em xem rồi ạ”
Lộ Minh Phi gật đầu.
"Câu chuyện nhà văn khoa học viễn tưởng cứu vợ cũ khi tận thế ập đến.”
“Đạo diễn mượn mốc thời gian 2012 từ lịch của người Maya. Đó là thời điểm quan trọng nhất trong lịch pháp của người Maya, năm đó kết thúc kỷ nguyên Mặt Trời thứ năm.”
Lộ Minh Phi gật đầu một cách nửa hiểu nửa không.
“Người Maya thật kỳ lạ. Họ là những nhà thiên văn học chính xác nhất của thế giới cổ đại — thậm chí được cho là có thể quan sát cả mặt khuất của Mặt Trăng, phần không bao giờ xoay về phía Trái Đất. Họ không chỉ nhìn thấy bầu trời, mà còn nhìn thấy tương lai. Người Maya sáng tạo ra Thái Dương lịch — một cuốn lịch, một bản sử thi, cũng là một quyển sách tiên tri. Họ viết tương lai ngay trong lịch sử, bởi vì họ tin rằng: mọi thứ đều đã được định sẵn. Lịch sử của thế giới này có giới hạn. Không cần kéo dài vô tận. Toàn bộ chỉ gồm năm kỷ nguyên Mặt Trời. Matlactli – bị hủy diệt bởi đại hồng thủy. Ehecatl – bị tiêu diệt bởi phong xà. Quiahuitl – bị thiêu rụi bởi hỏa vũ. Xochitl – bị xé nát trong biến động đất đai. Bốn nền văn minh từng rực rỡ, đều tan biến theo cách riêng của chúng. May mắn thay, sau mỗi đại họa vẫn còn tàn tích — đủ để nhen nhóm ánh sáng cho kỷ nguyên kế tiếp. Nhưng sẽ không có cái thứ sáu. Khi Mặt Trời thứ năm lụi tàn, mọi thứ sẽ kết thúc. Không còn khởi đầu mới. Chỉ còn số 0. Hư vô. Sự hủy diệt tuyệt đối..”
Anjou nói
“Cả loài người và long tộc đều không thể sống sót đến điểm kết thúc đó.”
Lộ Minh Phi bỗng nhiên nhớ ra điều gì đó, bất giác rùng mình một cái:
“Khoan đã, khoan đã… bốn lần hủy diệt trước đó… đại hồng thủy, phong xà, hoả vũ… rồi biến động đất đai…”
“Đúng vậy, địa, thủy, phong, hoả – chúng là đại diện của tứ đại quân chủ trên ngai vàng Long tộc. Bốn lần hủy diệt đầu tiên, đều do bốn vị quân chủ gây ra, còn lần thứ năm thì không ai biết được là do ai.”
“Hắc Vương ạ?”
Lộ Minh Phi cảm thấy lạnh cả sống lưng.
“Người Maya không nói. Có thể là Hắc Vương, cũng có thể là Bạch Vương, hoặc có thể là cả tứ đại quân chủ cùng nhau.”
Anjou nhún vai.
“Em nhập học năm 2009, nếu chúng ta không giải quyết được tai nạn lần này, thầy nghĩ em sẽ không lấy được bằng tốt nghiệp đâu.”
“Này này này, đây chẳng phải tà thuyết à? Sao lại phải tin mấy lời của người Maya ạ?”
Lộ Minh Phi hoàn hồn lại.
“Họ cũng chỉ là người nguyên thủy thôi mà? Nếu người Maya giỏi giang thế thì sao lại bị diệt vong? Là ai diệt họ ạ? Người Tây Ban Nha với súng ống đại bác à?”
“Nền văn minh Maya cổ đã suy tàn từ thế kỷ thứ tám. Cùng với sự chia rẽ của các quốc gia, các tư tế dần mất đi truyền thừa, trước cả khi người Tây Ban Nha tới, họ đã đánh mất toàn bộ lịch pháp cổ và tri thức huyền bí rồi.”
Anjou nhún vai.
“Nhưng điều đó không có nghĩa là lời tiên tri của người Maya là không đáng tin. Bởi vì có thể nói rằng, trong lịch sử, tất cả các sách tiên tri… đều không phải do loài người viết ra. Loài người chỉ là người truyền đạt mà thôi.”
“Long tộc sao ạ?”
Anjou gật đầu:
"Đây là thứ mà Long tộc để lại.”
“Khoan đã, thầy vừa nói loài người và Long tộc đều không thể sống sót qua kỷ nguyên Mặt Trời thứ năm… mà quyển lịch Maya lại là do Long tộc lập ra, vậy chẳng phải là…”
Lộ Minh Phi hỏi.
“Long tộc đã tiên đoán về chính sự diệt vong của mình sao?”
---
“Đúng vậy. Lời tiên tri của Long tộc, thực chất là lời tiên tri về sự hủy diệt, bởi trong thế giới quan của Long tộc, hủy diệt là cái kết tất yếu của thế giới. Thần thoại Bắc Âu chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa Long tộc – các thi nhân ghi chép nó không hề mô tả gì về ‘luân hồi’ hay ‘thiên đường’ – những viễn cảnh khiến con người khát khao, mà họ chỉ trực tiếp mô tả về 'tử vong’. Ragnarok là ngày tận diệt đã được định sẵn, khi bầy cự nhân và vong linh phản công lãnh địa của các vị thần. Vì vậy, thần chủ Odin xây dựng ‘Anh Linh điện’, sai các nữ võ thần Valkyrie dẫn linh hồn các võ sĩ dũng cảm về đó. Không ai trong Anh Linh điện thực sự tin mình sẽ sống sót sau Ragnarok. Nhưng mỗi sáng, họ vẫn giáp chiến bằng tất cả những gì mình có – bởi vì sống là chiến đấu, và chết cũng là một phần của bổn phận. Trong tiếng gươm va chạm và rượu mật ong nồng nặc, họ cười vang – như thể đang thách thức chính định mệnh. Họ ngày ngày luyện tập võ nghệ, uống rượu, giao đấu, rồi chết đi sống lại, chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng khi ngày tận thế đến. Nhưng cho dù có như vậy, kết cục cũng không thể thay đổi. Thần thoại ghi lại rất rõ ràng cái chết của các vị thần, ai sẽ bị ai giết chết – ngay cả Odin cũng không ngoại lệ. Diễn tiến của thần thoại Bắc Âu là một chiều, không có luân hồi, không có ngả rẽ, giống như sợi tơ do ba nữ thần Vận Mệnh dệt ra – kéo thẳng một đường… hướng đến cái chết! Đó cũng là thế giới quan của Long tộc. Mỗi vị Long Vương đều đã biết trước kết cục của mình, nhưng họ vẫn không ngừng kết kén rồi thức tỉnh, nỗ lực phản kháng lại vận mệnh ấy.”
“Nghe thật là bi ai…”
Lộ Minh Phi khẽ nói.
“Đó cũng là thế giới quan của chúng ta.”
“Thế thì không phải bi ai mà là bi thảm luôn rồi…”
Lộ Minh Phi mặt mày khổ sở.
“Hủy diệt là một chủ đề được lặp đi lặp lại trong thần thoại khắp thế giới – chỉ là có nơi nói khéo hơn, ẩn dụ hơn, còn người Bắc Âu thì không giấu giếm: họ đối diện thẳng thắn với tận diệt, không một tia hy vọng.”
Anjou nói
“Em từng đọc Tây Du Ký chưa?”
“Một cuốn sách vui vẻ như vậy cũng kéo dính đến ngày tận thế sao ạ?”
Lộ Minh Phi tròn xoe mắt.
“Trong Tây Du Ký, tổ sư Bồ Đề từng nói với Tôn Ngộ Không rằng, người tu đạo đáng sợ nhất là cái gọi là ‘tam tai lợi hại’ – đó là ba kiếp nạn không thể tránh khỏi, kỳ thực là ba thảm họa trong thần thoại Phật giáo. Kinh Lăng Nghiêm viết về ba tai kiếp ấy: tai kiếp đầu tiên là hỏa tai – bảy mặt trời cùng xuất hiện trên trời, thiêu rụi cả thế giới, từ địa ngục vô gián cho đến tầng thiền thứ nhất của sắc giới đều bị hủy diệt. Tai kiếp thứ hai là thủy tai – nước lũ nhấn chìm từ địa ngục vô gián đến tầng thiền thứ hai. Tai kiếp thứ ba là phong tai – từ địa ngục vô gián đến tầng thiền thứ ba, tất cả vật chất đều tan biến theo gió.”
Anjou liếc nhìn Lộ Minh Phi.
“Em nghĩ đến điều gì rồi đúng không?”
“Rất giống với thần thoại Maya.”
Lộ Minh Phi đáp.
“Địa, thủy, phong, hoả.”
“Đúng vậy, còn có cả trận đại hồng thủy được nhắc đến trong nhiều thần thoại khác nhau – những con người sống cách nhau hàng vạn dặm ở hai đầu thế giới đều tin rằng từng có một trận lụt tiêu diệt thế giới. Người Trung Quốc kể chuyện Đại Vũ trị thủy, Kinh Thánh thì nói Thượng Đế bảo Noah đóng tàu bằng gỗ gopher để tránh nạn lụt. Ghi chép sớm nhất là những bản đất sét của người Sumer được khai quật, có niên đại từ năm 3500 trước Công nguyên. Tuy giới học thuật còn tranh cãi, nhưng có quá nhiều bằng chứng cho thấy từng có một trận lũ nhấn chìm phần lớn Trái Đất – nó đã cắt đứt lịch sử nhân loại thành một đoạn đứt gãy.”
Anjou nói.
“Những lời tiên tri của Long tộc về hủy diệt đã được chứng thực lặp đi lặp lại. Còn năm 2012 sẽ thế nào, không ai biết. Thực ra, trường vẫn luôn chờ đợi… chờ xem điều gì sẽ xảy ra. Rồi điều đó đã thực sự xảy ra – các Long Vương vốn chìm trong giấc ngủ dài bỗng nhiên đồng loạt thức tỉnh – đây là lần thức tỉnh tập thể chưa từng có trong lịch sử. Minh Phi, giờ em đã hiểu mình cần làm gì rồi chứ?”
“Không hiểu mà! Nghe thầy nói mà em hoảng quá đấy, thầy hiệu trưởng! Cho hỏi mấy người có đóng con tàu lớn nào ở dãy Himalaya không? Vé tàu có bán giảm giá không vậy ạ?”
Lộ Minh Phi mặt không cảm xúc, thật sự không biết biểu cảm nào phù hợp với kiểu đối thoại này nữa. Cuộc đời còn chưa kịp bắt đầu cho đẹp đẽ, mà hình như sắp kết thúc mất rồi.
“Cassell chính là một tòa Anh linh điện đấy. Từ một trăm năm trước, trường đã bắt đầu tổ chức một đội quân – một đội quân tập hợp các huyết duệ ưu tú nhất. Trường không biết mình sẽ phải đối mặt với điều gì, nhưng đội quân này nhất định phải thật mạnh, đủ sức thích ứng với bất kỳ chiến trường nào.”
Anjou vỗ vai Lộ Minh Phi.
“Mà em, chính là một trong những người xuất sắc nhất của đội quân ấy.”
“Em là người xuất sắc nhất đấy à? Em phải nói thật là, kế hoạch ứng phó tận thế của thầy nghe không đáng tin chút nào! En nói ví dụ nhé, giống như người ngoài hành tinh xâm lược Trái Đất, tổng thống phát biểu một bài diễn văn hùng hồn xong rồi giao vị trí tổng tư lệnh quân đội cho Nobi Nobita... mà còn là Nobita không có Doraemon đi theo ấy! Nếu thất bại thì sao? Nếu thế giới bị hủy diệt thì sao ạ? Nghe còn không bằng đi đóng tàu lớn cho chắc ăn ấy chứ!”
“Đây chính là con tàu lớn đó.”
Anjou chỉ xung quanh, “Trên thế giới có tổng cộng năm không gian ngầm như thế này, có cái nằm sâu trong mỏ khoáng, có cái ở dưới lớp băng vĩnh cửu. Mỗi không gian tự nhiên sau khi được khoét rỗng đều lưu giữ một lượng lớn động thực vật, còn có phôi thai, phấn hoa và hạt giống. Tất cả văn minh nhân loại, cộng thêm kiến thức về luyện kim và ngôn linh, đều được phong kín ở đây. Kho chứa đầy đủ máy móc đồng bộ, tất nhiên còn có cả lương thực và nước uống. Dưới băng khiếu còn có một lò phản ứng hạt nhân siêu nhỏ, năng lượng của nó đủ để duy trì hoạt động ở đây trong 500 năm. Nếu các em thất bại, thầy sẽ ở lại đây dưỡng già vậy.”
“Nghe cứ như kiểu tướng quân Quốc dân đảng bị tiếng kèn xung phong của quân ta dọa cho choáng váng, bắn vài phát chỉ thiên rồi chui thẳng vào hầm trú ẩn vậy...”
Lộ Minh Phi ôm mặt.
“Luôn có người phải ra chiến trường, và cũng phải có người sống sót,” Anjou tựa vào lan can cạnh bệ xi măng, gió thổi tung mái tóc bạc của ông, “cũng có thể người chết là thầy, còn em sống để dưỡng già.”
“Nghe vậy còn có chút nghĩa khí đấy!”
“Em còn nhớ không, thầy từng kể với em về bạn thầy, Manecke.”
Anjou nói khẽ, “Hồi mới cùng nhau thành lập Sư Tâm Hội, bọn thầy hay uống rượu, rồi cậu ta bảo nếu một ngày nào đó chúng ta phải đối mặt với Long Vương, lúc tất cả đều chết hết rồi thì người cuối cùng nên bỏ chạy. ‘Dù sao cũng cần có người kế thừa linh hồn của Sư Tâm Hội chứ?’ Cậu ta luôn nói thế. ‘Vậy thì ai nên sống sót đây? Ồ, thật ra tôi cũng khá muốn sống đấy, nhưng tôi nghĩ Anjou nên sống thì hơn. Cậu ta là kiểu đàn ông phụ nữ thích mà, theo di truyền học thì người được phụ nữ thích thường có gen tốt hơn, cậu ta có tiềm năng trở thành một tay sát gái, sinh ra vô số đứa con với vô số mỹ nữ, rồi đào tạo họ thành hội viên mới của Sư Tâm Hội, hahahaha.’”
Anjou bắt chước tiếng cười của người đàn ông ấy, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời được thắp sáng bằng ánh sáng nhân tạo, “Cuối cùng, đúng là cậu ấy chết, còn thầy sống sót.”
“Hồi thầy mới vào học ở Cambridge, sống bằng học bổng, chẳng có tiền. Có tiền thì đi may vài bộ đồ đẹp để gây chú ý với mấy cô gái, nhưng thường là phải nhịn đói. Manecke khi ấy là sư huynh của thầy, luôn mời thầy đến ăn cơm. Cậu ấy rất giỏi làm gan ngỗng, hay tự mình vào bếp. Thầy ngồi bên vừa uống rượu vang vừa nhìn cậu ấy bận rộn. Thầy nói ‘Manecke, cậu giỏi quá’, cậu ấy bảo ‘Cậu không cần cảm ơn tôi đâu, sau này tôi có thể nấu cho sư đệ của cậu ăn. Nếu sư đệ của cậu cũng nấu cho sư đệ của nó, thì thật tuyệt vời… hahahaha.’”
Anjou bật cười, “Em không biết cậu ấy cười nhiều đến mức nào đâu.”
“Lúc nãy thầy đùa đấy,” ông quay sang nhìn Lộ Minh Phi, “thầy sẽ không sống dưỡng già ở đây đâu. Thầy đã từng là ‘người cuối cùng’ sống sót một lần rồi, thế là đủ.”
Lộ Minh Phi im lặng rất lâu, ngẩng đầu nhìn lên phía trên, một chiếc hộp sắt đen đang được vận chuyển theo đường ray treo lơ lửng xuống sâu trong lòng đất, “Chúng ta thật sự có cơ hội sao ạ?”
“Không biết nữa,” Anjou nhún vai, “Em còn nhớ hồi ở Chicago thầy từng nói gì với em không? Đó là thứ duy nhất mà thầy có, và vì nó, thầy không tiếc bất cứ cái giá nào.”
Ông liếc nhìn chiếc hộp sắt màu đen treo lơ lửng giữa không trung, “Hài cốt của Long Vương Constantine – cây ‘Thập Tự Long Cốt’ duy nhất trên thế giới được xác nhận cho đến hiện tại. Vốn vẫn đang được phân tích trong phòng thí nghiệm luyện kim, nhưng cuối cùng vẫn phải chuyển xuống tận đáy để chôn giấu. Có quá nhiều người quan tâm đến nó.”
---
Sở Tử Hàng chậm rãi mở mắt, trước mắt là một mảng trắng tinh khiết, mọi thứ đều mơ hồ.
Anh không tin vào thần linh, càng không tin có thiên đường, nhưng gương mặt đang tiến lại gần ấy trong trẻo không tì vết, phủ lên một tầng ánh sáng ấm áp, như thể một thiên sứ cúi đầu hôn lên trán của kẻ tội đồ.
Chớp mắt, anh bỗng cảm thấy ngơ ngẩn, cố gắng nghiêng người tới gần hơn để nhìn rõ gương mặt ấy.
Anh ngửi thấy trên người “thiên sứ” mùi hương ấm áp và ẩm ướt, phảng phất hương lá cây sau cơn mưa.
“Anh vừa tỉnh lại mà đã giở trò lưu manh rồi hả, sư huynh?”
Đúng lúc anh gần như dí sát mặt vào thì đối phương lười biếng lên tiếng.
“Hạ Di?”
Tầm nhìn của Sở Tử Hàng dần dần rõ nét, anh đang nằm trong một phòng chăm sóc đặc biệt, ánh nắng xuyên qua rèm cửa màu trắng chiếu vào trong.
Toàn thân anh được kết nối với đủ loại ống dẫn và thiết bị, bác sĩ y tá qua lại không ngừng.
“Đúng! Không phải thiên sứ tỷ tỷ đâu, là sư muội đây, vì anh chưa chết.”
Hạ Di như thể giun trong bụng anh.
“Chưa chết?”
Sở Tử Hàng thử cử động tay chân, ngoài cảm giác đau nhức lan khắp cơ thể, xương cốt hoàn toàn lành lặn.
Chuyện này thật quá kỳ lạ, lúc anh mất ý thức và rơi xuống là từ điểm cao nhất của đường ray, mà bên dưới không hề có đệm khí hay gì cả.
Cho dù huyết thống có cao tới đâu, thì cơ thể con người vẫn là bộ xương chủ yếu cấu thành từ canxi cacbonat, không thể nào rơi thẳng từ độ cao 200 mét mà không hề hấn gì.
“Cảm thấy đau à? Đó là do dòng điện cao áp chạy qua cơ thể anh, khiến toàn bộ cơ bắp bị co rút và tê liệt, nghỉ ngơi rồi sẽ ổn thôi. Anh đúng là may mắn đấy, nếu luồng điện ấy chạy qua tim thì người đón anh giờ đúng là thiên sứ tỷ tỷ rồi.”
Hạ Di chống cằm, nghiêng đầu nhìn anh, “Đây là phòng chăm sóc đặc biệt của Học viện, anh đã hôn mê suốt mười ngày, sống được đều nhờ truyền dung dịch dinh dưỡng.”
“Thật sự… không chết sao.”
Sở Tử Hàng khẽ nói.
“Nghe như tiếc nuối lắm ấy,” Hạ Di trợn mắt, “Làm ơn đi sư huynh, anh là kẻ thoát chết trong gang tấc đó! Có thể đừng mặt liệt như thế được không, nở một nụ cười vui vẻ đi mà!”
Sở Tử Hàng ngây người một lúc, rồi khẽ cong môi cười không tiếng động.
“Cười như chẳng có chút thành ý nào cả!”
Hạ Di bĩu môi, “Phải nói cảm ơn chứ! Anh không chết là nhờ sư muội đây dũng cảm vô song, lao lên ôm lấy anh đấy!”
Sở Tử Hàng đưa tay xoa trán.
Ký ức của anh rất hỗn loạn, nhưng trong giấc mơ dài vô tận trước lúc tỉnh lại, anh mơ hồ cảm thấy mình đã được ai đó ôm lấy, mũi lẩn quẩn hương thơm nhè nhẹ của cây cỏ, khiến anh an tâm tiếp tục chìm vào giấc ngủ.
“Nhờ vào ngôn linh ‘Phong Vương Đồng’ của em đấy.”
Hạ Di nói.
Sở Tử Hàng gật đầu, “Thì ra ngôn linh của em là ‘Phong Vương Đồng’, bảo sao lúc chơi tàu lượn em chẳng hề sợ hãi.”
Ngôn linh Phong Vương Đồng, số hiệu 74, trong lãnh địa lấy người thi triển làm trung tâm, điều khiển luồng khí hình thành xoáy khí; nếu khống chế tốt, người thi triển có thể lơ lửng trong không khí, thậm chí di chuyển ngắn trên không.
“Làm gì có chuyện đó, lúc ấy em sợ chết khiếp, chỉ là ngại nói ra thôi. Anh tưởng ‘Phong Vương Đồng’ dùng được như đôi cánh chắc? Điều khiển luồng khí để thay đổi quỹ đạo rơi thì còn tạm được, nhưng có hạ cánh an toàn được không thì phải xem vận may. Hai ta rơi trúng khu vực nước sâu của 'Thuyền vượt thác’ đấy.”
Hạ Di hừ một tiếng, “Anh nói nghe dễ dàng lắm! Em thì liều mạng đó! Nếu em thật sự biết bay thì cần gì phải mua vé máy bay sang Mỹ hả?”
Sở Tử Hàng lười đôi co với cô nàng về mấy lời vớ vẩn vô nghĩa.
Anh thấy hơi mệt, mí mắt nặng trĩu, bèn nhắm mắt lại.
“Cứu anh đúng là chẳng có chút cảm giác thành tựu gì cả.”
Hạ Di có vẻ hơi giận rồi.
“Sao vậy?”
“Em chưa từng thấy ai xem nhẹ mạng sống của mình như anh! Ngay cả bản thân anh cũng cho rằng mình là một mạng rách thì em liều mạng đi cứu anh để làm gì?”
Hạ Di tức giận hừ một tiếng.
“Tôi không muốn chết.”
Sở Tử Hàng vẫn nhắm mắt, “Chỉ là tôi không nghĩ ra cách nào khác.”
“Anh thích cosplay anh hùng đến thế sao?”
“Không.”
Sở Tử Hàng nhẹ giọng nói, “Là vì trước đây có một lần, có người chết ngay sau lưng tôi, tôi chẳng làm gì cả, chỉ biết cắm đầu lái xe chạy về phía trước… Đợi đến khi tôi nhận ra mình là một kẻ hèn nhát, liều mạng quay lại tìm người ấy, thì đã không còn tìm thấy nữa rồi.”
“Cô có hiểu cảm giác đó không? Nếu như tôi vẫn còn mạng để liều, thì đừng đợi đến lúc hối hận mới bắt đầu liều.”
“Cảm giác gì ạ?”
“Cảm giác ‘mình là một thằng hèn’.”
Sở Tử Hàng mở mắt ra, nhìn chằm chằm lên trần nhà.