Tôi dán chặt mắt vào người đàn ông đang ăn trước mặt mình.
Ngay khi bữa tiệc bắt đầu, gã liền chộp lấy một miếng thịt thơm ngon và ngấu nghiến nó. Xong xuôi rồi gã bắt đầu gặm phần thịt còn sót lại trên xương để chén cho bằng sạch. Sau đó, gã hướng đến món thịt cuộn.
Thật chẳng có chút đẹp mắt nào trong cái lối ăn uống thô tục và gớm ghiếc ấy của gã cả. Cứ như thể thân xác gã đã bị bữa tiệc chiếm hữu mất rồi ấy.
Ai nấy ở đây cũng đều cắm đầu vào ăn, hệt như gã kia vậy.
Nhưng đó là tất cả mọi người, không phải tôi. Bởi tôi là khác biệt.
Tôi tự cấu vào người mình đến chảy cả máu để cố chống chọi lại sự thèm khát ma quái ấy.
Gã đàn ông trước mắt tôi đã ăn xong miếng thịt và chuyển sang món lòng nấu súp. Với khuôn mặt bị che đi gần hết, tôi chẳng thể liếc thấy được chút biểu cảm nào khi gã đang tự tận hưởng như thế này được.
Tôi đã định mở miệng mắng gã đàn ông ấy, nhưng rồi cái cảm giác quặn thắt trong bụng đã ngăn tôi làm vậy.
Tâm trí tôi thì thầm gọi tên một cô gái khi bàn tay đang siết chặt lá thư nhàu nát.
***
Đột nhiên, tôi bật dậy trên giường và chợt nhận ra mọi thứ chỉ là một giấc mơ. Tôi đã thức dậy sớm hơn mọi khi thì phải; trời vẫn còn tối om. Người tôi ướt đẫm mồ hôi dù cho khí trời đang khá là mát mẻ.
Có lẽ tôi đã mơ về điều đó, vì hôm nay chính là ngày ấy.
Tôi lau mồ hôi trên trán rồi đứng dậy đi lấy chút nước. Chồng tôi đang say giấc ở phòng bên.
Sắp kết thúc rồi.
Chắc chắn hôm nay sẽ là lần cuối cùng tôi mơ về điều đó.
Thời khắc của Kay Clear đang cận kề.
Đó là nội dung bức thư tôi viết cho hoàng gia hồi đầu tháng. Chồng tôi, đúng hơn là sức khỏe của ông ấy đã bắt đầu chuyển biến xấu vào tầm tháng thứ tư năm ngoái. Ông ấy đã cố gắng hết sức để khỏe lại, nhưng vô ích. Theo lời thầy thuốc, ông ấy đang phải chịu ảnh hưởng từ bệnh gan giai đoạn cuối. Thầy thuốc đã nhận định rằng ông ấy chỉ còn chưa đầy một năm để sống.
Mỗi ngày trôi qua, bệnh tình của ông ấy lại một trở nặng, đến nỗi chẳng thể đứng vững nổi nữa. Tôi đã quá quen với việc thông báo về tình trạng bệnh tình của ông ấy cho những người quen lâu năm, nhưng lần này cả hai quyết định gọi họ đến.
Tiếng gõ cửa đầu tiên vang lên khắp gian nhà sau khi chúng tôi vừa dùng xong bữa sáng được một lát. Mở cửa ra, tôi thấy một người mà đã nhiều năm không gặp; Saliman, chân học việc năm xưa của chồng tôi, giờ đang là một đầu bếp cung đình.
“Đã lâu rồi không gặp người, thưa phu nhân.”
Đó là một lời chào đầy ân cần và lịch thiệp khi tôi hé nhìn qua cánh cửa. Vẫn là những cử chỉ khó quên ấy, hệt như lúc tôi còn sống trong cung. Có một cậu trai trẻ lạ mặt đứng sau Saliman và cũng chào tôi theo cách tương tự. Khi dẫn cả hai đến phòng của chồng tôi, Saliman và tôi đã có đôi lời cho nhau:
“Mẹ tôi nói là bà ấy sẽ đến ngay khi có thể. Sức khỏe của thầy thế nào rồi ạ?”
“Hiện tại thì ông ấy vẫn ổn. Tính tới thời điểm này thì vẫn chưa có điều gì bất ổn cả, ông ấy có thể ăn uống bình thường rồi. Nhưng thầy thuốc bảo rằng ông ấy chỉ còn sống được một tháng nữa.”
Vẻ mặt Saliman bỗng trở nên ảm đạm sau khi nghe những lời tôi vừa nói. Tôi gõ cửa phòng chồng rồi mở cửa sau khi nghe thấy lời đáp. Ông ấy đang ngồi đọc gì đó trên giường.
“... Thầy ơi.”
“Ô, Saliman đấy à. Cũng lâu quá rồi nhỉ.”
Chồng tôi nở một nụ cười mỏi mệt khi thấy lại khuôn mặt của cậu học việc xưa. Nhưng ngược lại, Saliman lại bộc lộ một nỗi đau lặng thầm trên khuôn mặt.
“Nghe nói dạo này cậu được thăng chức hở, ổn cả chứ? Trông cậu hơi ốm thì phải. Mà cũng kỳ, tôi thế này mà lại đi chê cậu ốm cơ đấy.”
Chồng tôi, một đầu bếp cung đình, ông đã từng là một lão ông vạm vỡ khi về hưu cách đây năm năm. Vậy mà giờ đây, dù đang mặc đồ ngủ nhưng ông ấy vẫn gầy nhom, gầy hơn bất kỳ ai trong căn phòng này. Phía sau cặp mắt kính ấy là một đôi mắt sâu hoắm. Hai cánh tay ấy đã từng đùa nghịch với bao nhiêu chiếc xoong, chảo nặng nhất vậy mà giờ trông chẳng khác nào mấy que củi.
Saliman lặng im, vẻ mặt cậu ấy vẫn ủ rũ vậy trong khi chồng tôi thì đang cười hớn hở. Ngay cả lúc thầy thuốc nói về khoảng thời gian còn lại của mình, ông ấy cũng cười hệt vậy. Tôi chắc rằng chồng mình không hề muốn bỏ cuộc, chỉ là sau những gì đã trải qua thì ông ấy cũng chẳng còn thiết sợ cái chết nữa rồi.
Người thầy và cậu học trò xưa vui vẻ hội ngộ khi trò chuyện với nhau. Mãi đến lúc tôi làm xong thức uống, Saliman mới chịu nở nụ cười. Lúc tôi mời mọi người dùng thử trà hoa torj mình làm, chồng tôi điềm tĩnh nhìn chúng tôi trước khi cất lời:
“Vậy thì, như đã nói trong thư, chúng ta bắt đầu chứ?”
Cậu trai trẻ ngồi cùng chúng tôi là một ký giả hoàng gia. Có vẻ như cậu ấy đến đây là để ghi lại câu chuyện của chồng tôi.
“Vâng.”
“Xin theo lệnh thầy.”
Sau khi tôi và Saliman cùng đồng thuận, chồng tôi với tay lên bậu cửa sổ và chộp lấy tập tài liệu mà ông ấy đọc khi nãy.
Đó là cuốn nhật ký chứa đựng những năm tháng tuổi trẻ của ông ấy. Lớp da bong tróc cùng dây buộc rệu rã là minh chứng cho suốt bao nhiêu năm nó đó trải qua. Tôi đã thấy ông ấy đọc quyển nhật ký ấy vô số lần trong suốt hàng chục năm bên nhau, nhưng nay có lẽ sẽ là lần cuối cùng.
“Những gì tôi sắp sửa kể cho mọi người nghe là câu chuyện của một lão già sắp từ giã trần thế. Nhưng sẽ tốn đôi chút thời gian đấy, vậy nên hãy cứ vừa nghe vừa thư thả và tận hưởng trà hoa nhé.”
Chồng tôi mở trang bìa ra và nhìn vào những ký tự lạ ở bên trong:
Tiếng Nhật - ngôn ngữ của thế giới khác, thứ mà ở thế giới này chỉ duy nhất chồng tôi mới có thể hiểu được.
“Mọi chuyện bắt đầu vào tháng thứ năm, năm 485… trong một sa mạc gần thị trấn này. Tôi vẫn còn nhớ như in ngày hôm đó...”
Chồng tôi bắt đầu kể về những ngày đầu, trong khi cậu ký giả hoàng gia đang ghi lại.
Đó là tiểu sử của Kay Clear, những ghi chép của một lữ khách già cỗi đến từ thế giới khác, kể từ lúc anh ấy vô tình gặp được chúng tôi.
***
Vậy là mình sắp chết rồi hở?
Đó là ý nghĩ duy nhất của tôi khi tựa lưng vào tảng đá lớn.
Đã ba ngày trôi qua kể từ khi tôi nhận thức được mình bị lạc giữa sa mạc này. Không thức ăn, không bản đồ, không phương tiện liên lạc và chỉ có một mình. Tôi đã lang thang giữa cái sa mạc này suốt chỉ để tìm kiếm một khu dân cư nào đó. Nhưng mà quên người sống đi, đến nước uống còn chẳng có nữa kìa. Không biết là tôi đã đi được bao xa, nhưng ở đấy chẳng có gì ngoài cát và cát, toàn là cát.
Ánh nắng gay gắt thiêu đốt da thịt tôi, còn không khí khô nóng thì như muốn tước đi chút chất lỏng cuối cùng còn sót lại trong cái cơ thể này. Cát bên dưới cứ kiên quyết bòn rút từng chút sức lực khi tôi cố lết từng bước. Thức ăn mà tôi tìm được chỉ có hai con thằn lằn và một con gì đó trông như lai giữa chuột và chuột chũi vậy. Tôi sắp không trụ nổi nữa rồi.
Lúc ấy, chân tôi đã hoàn toàn tê cứng vì phải đi quá nhiều, cảm giác chúng cứ như mấy cái cọc vậy. Phải nhờ đến một gốc cây khô dùng tạm để làm gậy thì tôi mới có thể lết tiếp được.
Thứ cuối cùng tôi tìm thấy là một tảng đá khổng lồ, nơi tôi dùng để tránh nắng và chờ đợi đêm xuống. Thế nhưng, khi đêm xuống, tôi lại chẳng thể cất người dậy nổi. Tôi đã hoàn toàn kiệt quệ. Và rồi, tâm trí tôi như mù mờ dần đi.
Suốt ba ngày nay, đã không biết bao lần ý niệm về cái chết hiện lên trong tâm trí tôi, nhưng lần này lại rõ ràng hơn bao giờ hết. Tôi sắp chết trong cô độc giữa biển cát này.
Sao chuyện này lại xảy ra nhỉ?
Câu hỏi đó đã luôn le lói trong tôi khi lang thang khắp chốn hoang vắng này. Nhưng tiếc thay, tôi chẳng có bất kỳ câu trả lời hay suy luận nào để dẫn đến kết cục này cả.
Tất cả những gì tôi biết đó là mình vừa khai trương một nhà hàng ở Tokyo.
Sau khi tốt nghiệp trung học, tôi đã đi làm thêm và dành dụm tiền tiết kiệm để du lịch nước ngoài. Nhờ đó mà tôi mới có thể trau dồi kỹ năng nấu nướng cũng như có cơ hội được làm việc trong các nhà hàng khác nhau trên thế giới.
Tôi đã phải khổ luyện suốt mười năm, bôn ba khắp Bắc Mỹ, Châu Âu và cả Châu Á rồi mới quyết định quay trở về Nhật Bản để mở nhà hàng riêng. Đó vốn là điều tôi hằng mong ước từ khi còn bé, và nay nó đã trở thành hiện thực.
Nhưng cũng chính cái lòng nhiệt huyết đó đã khiến tôi phải lạc vào chốn địa ngục trần gian này. Điều cuối cùng tôi còn nhớ là mình đã ngã quỵ ngay giữa gian bếp. Và khi tỉnh lại, tôi đã ở giữa sa mạc tưởng chừng như vô tận này rồi.
Ban đầu, tôi nghĩ đây chắc chỉ là một giấc mơ kỳ quái thôi, nhưng rồi cái cảm giác bỏng rát trên da mặt cùng cơn đói điên cuồng cào xé dạ dày đã biến nó thành ác mộng.
Đêm nào tôi cũng vùi mình xuống cát để trốn chạy cái lạnh thấu xương và ngước nhìn lên bầu trời. Tôi đã thầm mong rằng có thể xác định được phương hướng nhờ vào việc định vị các chòm sao, thế nhưng chúng thật quá lạ lẫm. Ngoài mấy thứ có vẻ giống như mặt trăng hay mặt trời gì đó thì bầu trời này thật quá khác biệt so với thứ mà tôi đã trưởng thành cùng. Càng suy ngẫm về bầu trời đêm này, tôi lại càng chẳng thể không thắc mắc, liệu đây có còn là Trái Đất nữa không.
Xin Người, đây chỉ là một giấc mơ. Làm ơn hãy để con thức dậy.
Lúc khẩn cầu như thế, đôi mắt tôi đã dần mờ đi và thân xác hoàn toàn tê liệt. Chút hi vọng rằng mọi chuyện chỉ là một giấc mơ trong tôi đã hoàn toàn tan biến, chỉ còn lại cơn hãi hùng khi cái chết dần bủa vây. Tôi muốn kết thúc cơn ác mộng này.
Liệu có ai đó sẽ tìm thấy mình ở đây không?
Chẳng biết gia đình và bạn bè có nhớ tới tôi hay là đang nghĩ về tôi không nữa. Thật tồi tệ khi nghĩ đến mấy người đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi và cả những nhân viên mới tuyển. Nhưng hơn tất thảy, tôi lại sợ rằng mình sẽ chẳng bao giờ tìm thấy thứ mà bản thân vẫn luôn kiếm tìm suốt bấy lâu nay.
Nhưng, dù cho bao nhiêu suy nghĩ đó có lần lượt trôi qua thì mong ước đã khiến tôi trở thành một đầu bếp vẫn còn đó:
Mình muốn được thưởng thức những món ngon.
Tôi cố mở miệng để hét lên, nhưng rồi mọi thứ tối sầm lại. Tử thần đang sải những bước cuối cùng trước khi chạm đến tôi…
Và rồi, nó chạm vào lưỡi tôi.
Thơm ngon, ngọt ngào hay tinh tế. Chẳng một từ nào có thể diễn tả nổi hương vị của thứ vừa hồi sinh tôi.
Cái hương vị thơm mát, êm dịu mà lại đậm đà ấy lan tỏa khắp miệng và mũi rồi đến từng sợi dây thần kinh, thấm sâu vào từng mạch máu đang chảy dọc cơ thể tôi. Thật chẳng ngoa khi nói đó là thứ hương vị có thể đánh thức tâm can con người. Chẳng còn gì có thể ngon hơn thế được nữa.
Khi tôi mở mắt ra, đón chờ tôi vẫn là khung cảnh hoang vắng ấy, nhưng giờ đây đã có thêm một cô gái nhỏ, ngồi cạnh bên và đang nhìn tôi không chớp mắt. Đôi mắt ấy tròn xoe…
“A… a… ai… vậy...”
“...!”
Tôi cố thều thào với cái cổ họng khô khốc, và cô ấy đáp lại bằng thứ ngôn ngữ mà tôi chưa một lần nghe qua. Bằng phép màu nào đó, tôi vẫn còn sống. Và thật an lòng khi tôi được vòng tay bé nhỏ ấy níu giữ lại ở chốn thực tại này.
Bầu trời đêm ôm trọn lấy người con gái ấy vẫn còn mãi khắc sâu vào tâm trí tôi. Khoảnh khắc đó đã đánh dấu cuộc gặp đầu tiên của tôi với thế giới này, và hơn hết là với cô ấy.
Đi cùng cô gái nhỏ là một cậu thiếu niên có vẻ lớn hơn vài tuổi. Thật lòng mà nói thì họ chẳng phải là người Nhật, nhưng tôi cũng chẳng biết họ đến từ đâu. Thú cưỡi của họ là con gì đó trông như bò nhưng cũng khá giống lạc đà. Với đống hành lý cao như núi đó thì nó vừa giống bò vừa giống lạc đà cũng phải thôi.
Khi tôi tu ừng ực nước từ chiếc túi da, cậu thanh niên đã quấn cổ và che đầu tôi bằng một mảnh vải để chống nắng. Trông nó từa tựa như khăn chống nắng mà hai người họ đang mang vậy. Cuối cùng, tôi cũng có thể cảm thấy dễ chịu đôi chút sau những ngày vừa qua khi không còn bị thiêu đốt dưới ánh mặt trời nữa.
Khi đã lại sức được đôi chút, họ đẩy tôi lên lưng sinh vật lạ kia rồi đưa đến một thị trấn gần đó.
Ít lâu sau, chúng tôi đã đến một nơi trông như là một ốc đảo sa mạc. Thoạt nhìn, thị trấn trông khá hào nhoáng khi khoác lên mình một bức màn mang màu thiên nhiên, nhưng có vẻ là không. Càng ngắm nhìn thị trấn rộng lớn, trải dài những tòa nhà cũ kỹ ấy tôi lại càng thấy lạ.
Đó là những tòa nhà xây bằng bùn và đất sét, và không hề có đường nhựa. Chẳng thể tìm thấy bóng dáng chiếc xe hơi hay xe đạp nào ở đây, thay vào đó là những cỗ xe được thổ bởi đám sinh vật hệt như thứ tôi đang cưỡi.
Tôi từng nghe đâu đó rằng có vài thị trấn được thiết kế theo phong cách trung cổ để hút khách, nhưng ở đây mọi thứ không chỉ dừng lại ở mấy tòa nhà. Từ con người, công nghệ đến kiến trúc, tất cả trông cứ như thể từ hàng trăm, có khi là hàng nghìn năm trước cũng nên. Giữa thời hiện đại này, tôi chưa từng một lần nghe về thị trấn nào mà con người ở đó lại sống trong cảnh không điện, không khí đốt cả.
“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Tôi đã cố hỏi cậu thiếu niên kia bằng mọi thứ ngôn ngữ mà mình biết, nhưng vô ích.
Cái cảm giác an lòng lúc trước giờ đã bị thay thế dần bằng rối bời và hoang mang khi tôi chẳng thể nhận ra khung cảnh lạ lẫm trước mắt mình. Và khi còn đang bối rối như thế, tôi đã được đưa đến một cái chòi đất, có vẻ là một căn nhà. Cậu thiếu niên khoác vai dìu tôi bước vào và nói chuyện với ai đó ở bên trong. Người đàn ông đó có vẻ là một bác sĩ không chuyên, ông ấy đã khám cho tôi ngay sau đó.
Sau khi được kiểm tra kỹ lưỡng, cậu thanh niên dìu tôi sang nằm nghỉ ở một phòng khác có giường. Nó cứng, nhưng thoải mái hơn gấp trăm lần so với nằm cát. Thế rồi cảm giác mệt mỏi ập đến và tôi chìm sâu vào giấc ngủ.
Rất lâu sau đó, khi tôi nhìn qua ô cửa sổ thì trời đã tối. Cô gái nhỏ ngồi cạnh giường đang nhìn tôi không chớp mắt, cô ấy đã mang thức ăn đến ngay khi tôi vừa tỉnh dậy.
Tôi lao vào chiếc khay đựng hai bình sứ ấy mà chẳng buồn nghe cô ấy đang nói gì. Có vẻ đây chỉ là một bát cháo gạo, nhưng thứ sữa ăn kèm với nó thì tôi chưa bao giờ được nếm qua. Có thể là sữa của cái con đã chở tôi cũng nên, nhưng thật chẳng biết phải làm sao để hỏi.
Sữa đặc, béo và vị không như sữa bò hay dê. Cháo tuy không ngon lắm nhưng chẳng lý do nào để tôi than vãn về bữa ăn đầu tiên của mình sau ba ngày nay cả. Tôi nốc một hơi cạn sạch, chẳng buồn quan tâm có ai đang nhìn mình hay không.
Liếm sạch miệng bình, tôi quay sang nhìn cô gái nhỏ ngồi cạnh mình. Đó là một cô gái nhỏ nhắn với vẻ ngoài khá dễ thương, có lẽ đương tuổi trăng tròn. Chẳng như bao người trong thị trấn này với làn da ngăm và mái tóc đen, cô gái ấy sở hữu mái tóc bạch kim tuyệt đẹp cùng làn da trắng không tì vết. Đôi mắt xanh sáng ngời ấy cứ như thể đang phản chiếu cả một đại dương tuyệt mỹ vậy.
“À… Ừm...”
Tôi cố để nói cảm ơn cô ấy, nhưng rồi lại chợt nhớ mình chẳng thể nói được ngôn ngữ nơi đây. Nhận thấy tôi đang lưỡng lự chẳng biết phải nói gì, cô ấy tiến tới một bước rồi tự chỏ tay vào ngực:
“Aisa.”
“Hở?”
“Aisa.”
Khi cô gái nhỏ tự chỉ vào ngực và nhắc lại từ ngữ đấy, tôi liền nhận ra đó là tên của người con gái ấy.
“Kei. Kei Kuria.”
Tôi đặt chiếc khay sang cạnh bên rồi cũng tự chỉ vào ngực mình và gọi tên.
“Kay…?”
“Kei.”
“Kay!!”
Aisa nắm lấy bàn tay tôi mà cất giọng thật hào hứng. Đối với một kẻ mà trước đó sắp phải chết trong cô độc thì việc được nghe thấy thanh âm thánh thiện này thực quá an lòng.
Kể từ hôm ấy, gia đình Aisa đã nhận cưu mang và săn sóc tôi cho đến ngày khỏe lại.
Gia đình Aisa còn có bố mẹ và anh trai của cô ấy. Bố cô ấy là Sazan, người đã khám cho tôi. Và đúng như tôi đã nghĩ, ông ấy quả thực là một bác sĩ. Mỗi ngày đều có kha khá người tìm đến thăm bệnh ở chỗ ông ấy. Mẹ cô ấy tên Karajan, bà chuyên chăm lo nhà cửa và các công việc nội trợ khác. Còn anh trai cô ấy là Shizam, người đã đi cùng Aisa khi cô ấy tìm thấy tôi. Cậu ấy sống chung với một người phụ nữ cùng khu phố, không rõ là vợ hay người tình, nhưng ngày nào cô ấy cũng đến phụ giúp việc này việc nọ cho Sazan.
Sau khi được Sazan chữa cho, tôi đã có thể làm giúp vài việc tay chân và bắt đầu giao lưu với hàng xóm xung quanh. Rào cản ngôn ngữ rõ ràng là một trở ngại lớn, nhưng tôi vẫn có thể nhanh chóng vượt qua nhờ có sự chỉ dẫn của Aisa mỗi ngày.
Hàng ngày, tôi lại bỏ chút thời gian để đi dạo quanh thị trấn cùng với Aisa. Cô ấy sẽ giới thiệu tôi với bạn bè và láng giềng xung quanh, nhờ vậy mà tôi đã dần quen với cuộc sống nơi đây. Chưa bao giờ tôi hiểu được mấy cuộc trò chuyện của họ, nhưng mỗi khi nghe Aisa gọi tên “Kay,” tôi thực sự cảm thấy hồ hởi trong lòng.
Mỗi khi ra chợ, chúng tôi phải cần đến cái con vật lạ lùng ấy để thồ hàng, nhưng lại mượn của hàng xóm, vì Aisa bảo rằng nhà cô ấy không có con nào cả.
Trong chuyến hàng thứ hai, con thú đó đã liếm mặt tôi bằng cái lưỡi hôi hám của nó. Thấy vậy, Aisa phá lên cười rồi mắng:
“Dendel,” cô ấy chỉ tay vào nó.
Phải, là tên của thứ đó đấy. Nhưng đến mãi sau này tôi mới biết đó là tên loài chứ không phải của riêng nó. Mà dù sao thì lúc đó tôi cũng đã lặp đi lặp lại để cố nhớ cái tên đó.
Aisa có vẻ không bằng lòng lắm, cô ấy lắc đầu và nhắc lại. Hình như tôi phát âm sai thì phải. Tôi đã cố nói lại sao cho đúng, nhưng phải thêm mấy lần nữa thì Aisa mới chịu gật đầu hài lòng.
Những ngày như thế cứ dần trôi qua và tôi cũng dần biết thêm nhiều từ nhờ vào việc ghi chú vào một quyển sổ. Mục đích chính là để viết các ký tự và cho mọi người đọc thử xem có ai biết không. Nhưng đáng tiếc, không có bảng chữ cái, hệ chữ tiếng Trung, Ả Rập hay con số nào khả dụng. Vậy nên, tôi đành phải làm theo cách khác.
Tôi đã ghi lại mọi thứ. Từ tên của mấy người hàng xóm, tên cây cối và sinh vật, cho đến đồ đạc linh tinh và bất kì chòm sao nào được đặt tên, tôi cũng đều ghi lại hết. Và rồi, tôi đã tìm ra được tên của thị trấn này, là Asilia.
Điều khiến tôi luôn cảm thấy tò mò khi ở Asilia này, đúng hơn là với tư cách một đầu bếp, chính là ẩm thực bản xứ. Khu chợ nơi tôi cùng Aisa thường lui tới luôn tràn ngập những nguyên liệu mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ.
Có khoai tây, nhưng lại mang vô số hình dạng khác với loại tôi thường thấy, còn khoai lang thì lại có hình cầu, màu đỏ. Tôi cũng tò mò về một loại hoa quả trông như quả mơ khô và vài loại rau lá đen khác nữa.
Còn thịt thì có thịt bò, lợn, dendel và vài loại gà khác nhau. Thi thoảng người ta còn bán cả thằn lằn sống và cái con nửa chuột nửa chuột chũi mà tôi đã ăn khi lạc trong sa mạc.
Suốt thời gian ấy, khám phá khu chợ chính là công việc yêu thích của tôi. Cứ mỗi chuyến ra chợ là tôi lại cảm thấy hào hứng, nhất là khi đang ở một xứ sở hoàn toàn mới như thế này.
Trên đường về, tôi quyết định sẽ hỏi bố mẹ Aisa để mình thử nấu ăn cho họ và rồi một con đường trải dài từ đường cái lọt vào tầm mắt tôi.
Xuôi theo con đường ấy, xa thêm chút nữa là vườn cây ăn trái trải rộng hai bên. Đó cũng chính là nguồn cung cấp hoa quả cho khu chợ. Tôi đã dán mắt vào đó mất một lúc trước khi chuyển sang ngọn đồi lấp ló phía sau. Có một kiến trúc mái vòm lớn được xây dựng trên đó, và nó không hề giống bất kỳ ngôi nhà nào trong thị trấn này. Tôi đã tò mò và hỏi Aisa xem liệu có thể đến gần để xem không.
“Hông được… Chỗ đó hổng được đâu.”
“Chỉ xem thôi cũng không được sao?”
“... Hông.”
Aisa lắc đầu lia lịa khi để lộ một vẻ mặt như đang mang tội.
Không biết nơi đó là gì. Nhưng dựa vào phản ứng của Aisa, tôi đoán đó là nhà thờ hoặc thứ gì đó đại loại vậy. Với những nơi như thế thì người ngoài như tôi tốt nhất là không nên dính vào.
Thôi thì không quan tâm đến nữa vậy, tôi nghĩ thế rồi gạt đi những lo toan trong lòng.
Hôm sau là lần đầu tiên tôi thử nấu ăn. Nhưng việc tôi làm chỉ là vác rổ rau rồi lẽo đẽo đi theo Aisa và Karajan đến một hố lửa công cộng.
Trong thị trấn này, chẳng được mấy nhà có bếp riêng. Hầu hết mọi người đều nấu nướng bên ngoài. Nếu cần nước dùng thì chúng tôi phải đi gánh từ cái giếng gần nhất; và phải liên tục thêm củi để giữ lửa.
Mọi thứ thật quá thô sơ so với mấy căn bếp thời hiện đại mà tôi từng trải nghiệm. Tức là, tôi cảm thấy cực kỳ phấn khích khi đợi xem những người phụ nữ ấy dùng dao và nấu nướng thức ăn của họ.
Nhưng rồi, chỉ lát sau tôi đã khẩn cầu Aisa và mẹ cô ấy cho mình được nấu gì đó khi liên tục lặp đi lặp lại từ Sãky cho đến khi cả hai người họ hiểu được.
Nhưng vì Karajan chưa thấy tôi nấu ăn bao giờ nên bà ấy khá do dự, nhưng rồi Aisa cũng thuyết phục được bà.
Thế rồi, tôi xào chút thịt dendel hun khói cùng rau củ và một con chuột cát - thứ tôi ăn lúc bị lạc ở sa mạc. Tôi chặt đầu, moi ruột con chuột rồi chặt khúc nó bằng một con dao dày.
Tôi dùng muối và rượu để khử chua rồi băm nhuyễn thịt chuột cho đến khi đủ độ dẻo để vo viên rồi cho vào cùng với rau củ.
Mặc dù hơi mất thời gian một chút, nhưng thịt rất chi là mềm và khiến món xào dậy mùi, ngon hơn so với các loại thịt sóc, chuột có thể ăn được khác mà tôi biết.
Lần đầu ăn cái con này khi bị lạc trong sa mạc, tôi thật chẳng dám nghĩ đến việc thưởng thức vì trong đầu cứ trải đầy những lo lắng về vi rút với ký sinh trùng. Vậy nên, tôi đã rất kinh ngạc khi biết thịt của nó lại ngon đến vậy.
Gia đình Aisa đã rất ngạc nhiên và thích thú trước tài nấu nướng của tôi. Tôi rất vui khi có thể đáp lại chút lòng thành mà họ đã dành cho mình. Đó là lần đầu tiên tôi cảm thấy bản thân đã đóng góp được gì đấy cho nơi này.
Từ đấy, tôi đảm nhiệm việc nấu nướng trong gia đình Aisa, cùng với mấy việc chân tay. Với suy nghĩ rằng càng làm được việc gì đó thì tôi càng dễ hòa nhập hơn, tôi đã nhanh chóng cải thiện khả năng ngôn ngữ lên rất nhiều.
Kể từ ngày bắt đầu nấu nướng, tôi đã có thể sống thỏa nguyện mỗi ngày. Thậm chí, đã có thời điểm tôi nghĩ rằng mình sẽ tìm được một công việc thực sự như làm đầu bếp trong một quán ăn ở đây chẳng hạn. Nguyên nhân khiến tôi tạm hoãn dự định đó lại là vì có hai điều khiến tôi luôn băn khoăn.
Đầu tiên là hương vị mê hồn mà tôi được nếm lúc gần chết. Tôi chắc chắn đã chết nếu như không có nó. Thế nhưng, khi ấy cả Aisa và Shizam dường như chẳng mang theo thứ gì có thể ăn được.
“Lúc cứu anh, em có cho anh ăn gì đó không? Cái gì đó rất là ngon ấy?” Tôi đã tìm hỏi Aisa, nhưng cô ấy lại phủ nhận.
Tôi suy đoán rằng mong ước lúc cận kề cái chết của tôi đã khiến bản thân ảo tưởng ra thứ hương vị ấy. Khi ấy tôi đã quyết định tin vào điều đó, vì tôi chẳng biết phải lý giải sao về thứ hương vị thánh thần đấy.
Điều cuối cùng khiến tôi băn khoăn là một phong tục đặc biệt có liên quan đến ẩm thực nơi này. Vào thời điểm tôi đã có thể giao tiếp tương đối trôi chảy, thì tin một người lớn tuổi qua đời đã lan ra khắp khu phố. Aisa cùng mọi người trong gia đình đã đến đám tang của người đó, còn tôi thì ở lại trông nhà. Nơi tổ chức đám tang khá gần nên tôi có thể thấy họ hỏa táng. Thế nhưng, khi thấy khói cuồn cuộn bốc lên từ trong nhà, tôi chợt nhận ra rằng:
Mình chưa từng thấy ngôi mộ nào trong thị trấn này.
Phải thừa nhận rằng cũng may là tôi chưa từng đến nghĩa trang, vì biết đâu mấy ngôi mộ lại chẳng như tưởng tượng. Có khi kiến trúc mái vòm trên ngọn núi đó là một nghĩa trang cũng nên.
Mà, mấy chuyện này đâu thể bô bô mà hỏi được, vậy nên tôi đã tìm đến Aisa để giải đáp sau đó.
“Người ta chôn người đã khuất ở đâu nhỉ?”
“... Chôn ấy ạ? Chúng em không chôn bất cứ ai cả.”
Tôi đã hỏi sau khi cô ấy trở về từ đám tang, nhưng đáp lại chỉ là một câu trả lời mơ hồ.
“Thì tại tụi em ăn họ mà.”
Và rồi, tôi được biết đến tiệc tang ganzara, một phong tục mà thi thể người quá cố được xử lý như thịt của bao loài động vật khác; mổ sẻ, nấu chín và bày biện ra cho toàn thể họ hàng thân thích tham dự lễ tang.
“Được rồi, nhưng... sao lại ăn họ chứ?”
Dù lạnh buốt sống lưng, nhưng tôi vẫn hỏi tiếp. Lần này, Aisa trả lời mà chẳng một chút đắn đo:
“Vì, kể từ hôm nay, ông nội sẽ là một phần trong em. Anh không hài lòng khi biết người thân thiết nào đó sẽ hòa làm một với mình sao?” Aisa vừa xoa xoa bụng, vừa giải thích. Có lẽ, cô ấy cũng đã ăn thịt người đó trong đám tang rồi.
Ăn thịt người. Đó là điều cấm kỵ mà hầu như mọi quốc gia trên cõi đời này đều muốn loại bỏ. Vậy mà cô gái nhỏ này lại nói về nó với một ánh mắt giàu xúc cảm cùng nụ cười ấm áp đến thế.
Tôi thực sự cảm thấy kinh hoàng khi phát hiện ra sự thật ấy, nhưng khi nhớ đến lần bố mẹ bắt mình phải sờ mặt ông nội khi mất, tôi lại thấy cảm thông cho phong tục này. Tôi gần như có thể hiểu việc này đến từ quan niệm tín ngưỡng của họ. Nhưng dù vậy, tôi vẫn chẳng thể làm ngơ trước việc nấu và ăn tử thi.
“Anh cũng muốn vậy chứ, Kay?”
“Nhưng những người khác trong lễ tang cũng đã ăn ông nội em đó.”
Không tài nào tôi hình dung được việc mình có thể ăn một cái xác đã được nấu chín cả.
Như cảm nhận được sự chối từ kiên quyết trong lời nói của tôi, vẻ mặt Aisa thoáng buồn. Không hiểu sao tôi cảm thấy như có ẩn ý gì đó trong câu hỏi của cô ấy, chỉ là mãi đến sau này tôi mới biết về nó.
Nhưng trước khi tôi biết về điều đó thì đã có chuyện khác xảy đến, thứ đã khiến cả cuộc đời tôi thay đổi. Mọi chuyện bắt đầu khi đoàn sứ thần hoàng gia từ miền đông xa xôi tìm đến đây.
Ngày nọ, một đám người kỳ dị chợt tìm gặp tôi.
Ai nấy đều mang trang phục bắt mắt, đầu đội mũ tua rua, những thứ mà tôi chưa từng thấy khi ở Asilia này. Họ hỏi tôi có phải là Kay Clear không rồi tự công bố vai trò sứ thần của đức vua sau khi nghe tôi xác nhận.
“Bệ hạ đã nghe về kẻ vô danh xuất hiện ở Asilia này và yêu cầu ngươi đến diện kiến. Bọn ta sẽ đưa ngươi đến hoàng cung.”
Đó là lần đầu tiên tôi phải cảm thấy lo lắng kể từ khi đến đây, nhưng đồng thời đấy cũng là một cơ hội. Tiếp xúc với đầu não của đất nước này chính là cách tốt nhất để tôi tìm được lời giải về nơi đây. Rốt cuộc thì tôi vẫn chẳng biết nơi mình đang sống là đâu và làm sao mình có thể đến được đây.
Nhưng dù cho đã đè nén nỗi lo trong lòng thì tôi vẫn không dám mở miệng nói đồng ý, cho đến khi Aisa cất lời:
“Không sao đâu, Kay. Em sẽ đi cùng anh.”
“Ừ-ừm, nhưng em đâu thể cứ muốn là đi được...”
Đời nào mấy người này lại chịu dẫn theo thường dân vào hoàng cung cơ chứ. Mà phải không nhỉ?
“Aisa điện hạ vốn sống trong hoàng cung,” một trong những sứ thần lên tiếng giải thích như thể đã nhìn thấu điều tôi đang băn khoăn.
“Em ấy sống trong hoàng cung sao?”
“Chính xác. Aisa điện hạ chỉ nán lại Asilia này ít lâu. Mục đích ban đầu của bọn ta là đưa điện hạ trở về và mang ngươi theo nếu tìm thấy ngươi ở nơi này.”
“Đúng rồi đó. Vậy nên chúng ta sẽ đi cùng nhau đó, Kay à.”
Tôi chẳng hiểu gì cả. Nếu Aisa là một công chúa hay gì đó tương tự thì thật chẳng đúng với việc em ấy được sinh ra tại thị trấn này. Chưa kể, những người quen của Aisa cũng tỏ ra rất thân thiết với em ấy nữa.
Nhưng rồi tôi đành tuân theo lời của những sứ thần và chuẩn bị cho chuyến đi khi chẳng thể nắm bắt được điều gì. Dù sao thì tôi cũng đâu có quyền để từ chối, vậy nên chỉ có thể tự động viên bản thân mình phấn chấn lên mà thôi.
Tối đó, chúng tôi đã tổ chức một bữa tiệc nho nhỏ, với tôi là người chuẩn bị thực đơn cho gia đình Aisa và hàng xóm của em ấy. Thịt dendel hầm, rau thơm xào và gà nhồi nướng; bữa tiệc tối ấy tôi đã hăng hái hơn mọi khi, cũng vì một phần muốn mọi người được thưởng thức thử sữa chua lên men từ sữa dendel tôi làm. Đó quả là một đêm vui vẻ và sôi động.
Ngày hôm sau, chúng tôi băng qua sa mạc và đến thị trấn ở ven một con sông lớn. Khá dễ dàng để vượt qua cái nơi từng khiến tôi suýt phải bỏ mạng khi đã chuẩn bị đầy đủ nhu yếu phẩm và thêm cả một con dendel để cưỡi.
Con sông này là tuyến đường huyết mạch chảy qua toàn bộ đất nước. Cả đoàn khởi hành từ thị trấn ven sông trên một con tàu và mất khoảng hai ngày thì mới cập bến. Trên đoạn đường cuối cùng, chúng tôi đã ngồi xe ngựa để về đến kinh đô Ishq Band.
Theo những gì tôi được biết thì kinh đô này đã được xây dựng từ năm trăm năm trước. Đó là thời điểm mà một bộ lạc du mục đã lật đổ triều đại của vị vua thứ năm cai trị vùng đất này và lập nên chế độ quân chủ riêng tại nơi đây.
Từ trên cao nhìn xuống, mọi thứ cứ như một bức họa; thị trấn trắng tinh tươm men theo đường bờ biển uốn lượn; những con tàu lớn nhỏ nhấp nhô nơi bến cảng. Ai đó trong đoàn sứ thần đã từng khoe rằng kinh đô được mệnh danh là “cầu nối toàn cầu”, rõ ràng nó là một trung tâm thương mại quốc tế.
Nổi lên giữa thị trấn trắng tinh tươm ấy là hai tòa kiến trúc đồ sộ mang sắc đỏ và lam.
Đỏ là nhà thờ nằm trên những ngọn đồi gần bến cảng, còn lam là hoàng cung được xây dựng ngay giữa kinh đô, và cũng là đích đến cuối cùng của chúng tôi.
Bao quanh hoàng cung là một bức tường cao. Cách duy nhất để vào trong là đi qua Cổng Sư Tử khổng lồ. Đúng như tên gọi của nó, mặt sư tử được chạm khắc bên trên đó. Sau khi đi qua lối vào được cảnh vệ bởi lính vũ trang, đón chờ tôi là khung cảnh của một thị trấn thu nhỏ, nơi những tòa nhà lớn nhỏ nối đuôi nhau.
Lúc bước đi trên con đường dẫn đến chính điện, một mùi hương ngào ngạt chợt tràn vào mũi tôi.
“Anh có muốn biết đó là mùi gì hông, Kay?”
“Hửm, có chứ… Mùi gì thế?”
Dù hỏi vậy nhưng Aisa lại chẳng nói gì mà chỉ để lộ một nụ cười tinh nghịch.
Chính điện thật quá đỗi nguy nga, chỉ ngước nhìn thôi cũng đủ khiến tôi phải cảm thấy choáng ngợp.
Xen giữa các bức tường màu lam sạch đẹp là những bức tranh kính trong mờ và óng ánh, khắc họa cây cỏ cùng muông thú đẹp lộng lẫy. Nội thất được trang trí tỉ mỉ bởi những món đồ tinh tế, ngay cả mặt sàn cũng sáng bóng với bao hoa văn tinh xảo. Lâu đài hay cung điện càng nguy nga hùng vĩ thì lại càng thể hiện được sự vĩ đại và quyền uy của chủ nhân nó với các bậc đế vương khác. Đó là thứ vô cùng xa xỉ đối với một tên dân đen như tôi; thực sự tôi chẳng tài nào bình tĩnh nổi kể từ khi bước vào đây.
“Em sẽ đi chào Isela và Hattie một tiếng. Gặp anh sau nhé, Kay.”
Nói rồi Aisa chia tay đám người chúng tôi. Kế đó, tôi được dẫn đến một căn phòng trông như ở khách sạn thương mại để kiểm tra sức khỏe rồi được họ yêu cầu thay lễ phục hoàng triều, gồm quần dài đen và áo khoác trắng.
Thay đồ xong xuôi thì họ bảo tôi rạch ngón tay để nhỏ máu vào một cái lọ. Khi tôi hỏi thì mấy người đó giải thích rằng đó là việc mà bất kỳ kẻ ngoại lai cũng cần khi yết kiến đức vua. Việc này tượng trưng cho lời thề trung thực và không bất kính trước bệ hạ. Nói chung là cắt máu ăn thề.
Phải mất kha khá thời gian tôi mới dám tự rạch ngón tay mình, dù đã có lúc bó tay đầu hàng.
Tiếp đến, tôi được dạy cách cúi chào và phải lặp đi lặp lại suốt hai mươi phút rồi mới được dẫn đến chính điện. Thật sự phải nói rằng, đại sảnh này hoàn toàn khác biệt với bất kỳ nơi nào trong cung điện.
Nó rất là rộng, nhưng chỉ có vậy thôi. Những bức tường, những cột trụ và gần như mọi thứ tại đây đều chẳng được trang hoàng gì cả. Chỉ duy nhất một chiếc ghế nhỏ được đặt ở giữa sảnh. Phía đối diện là một người đàn ông đang ngồi với binh lính và hầu cận đứng ở hai bên.
“Kay Clear.”
“D-Dạ.”
Nghe tên mình được xướng lên một cách trịnh trọng, tôi vô thức đứng thẳng lưng.
“Ngồi xuống đó.”
“... Dạ.”
Tôi tiến đến chỗ chiếc ghế đệm tròn một cách vụng về rồi ngồi xuống sau khi cúi đầu như đã được dạy.
“Ngươi có thể ngẩng đầu.”
“Dạ?”
“Ngẩng đầu lên.”
“D-Dạ!”
Người đàn ông đang đối diện với tôi chắc chắn là vua của đất nước này.
“Ta là vị vua thứ mười bảy của đất nước này, Shayde.”
Ngay cả bản thân đức vua Shayde cũng ăn mặc rất giản dị. Chiếc áo choàng đỏ thẫm trông như yukata cùng quần trắng; không hề có trang sức gì cả.
Trông ông ta khá già, nhưng cánh tay vạm vỡ lộ ra từ ống tay áo kia thì lại không nói vậy. Mái tóc đỏ đặc trưng của ông ta duỗi dài như bờm sư tử trong khi ánh mắt mãnh liệt ấy thì thể hiện rõ sự tự tôn cùng niềm kiêu hãnh ngút trời của ông ta.
“Kay Clear.”
“... Dạ.”
“Không cần phải căng thẳng. Uống trà đi.”
“Dạ.”
Dạ là từ duy nhất tôi nói được từ đầu tới cuối. Đức vua đã phải phì cười khi thấy tôi cứ luống cuống như vậy.
Tôi với lấy tách trà trước mặt rồi hớp một ngụm. Nó có mùi như trà Trung Hoa vậy. Không biết nó có công dụng giảm căng thẳng hay không, nhưng tôi đã cảm thấy thoải mái đôi chút sau khi uống. Đức vua đợi tôi đặt tách trà xuống rồi mới nói tiếp.
“Ngươi dường như có thể hiểu được ngôn ngữ của đất nước ta.”
“Vâng, chỉ đủ dùng thôi ạ.”
“Ra vậy…”
Một khoảng lặng chợt buông xuống đại sảnh trước khi đức vua tiếp lời. Ông ấy chầm chậm nói khi lựa từ để tôi có thể hiểu.
“Ngươi là một đầu bếp đến từ đất nước có tên là Nhật Bản. Ngươi vô tình lạc đến sa mạc Asilian và được Aisa cứu mạng. Có phải vậy không?”
“Đúng như lời người nói, thưa bệ hạ.”
Sau khi gật đầu xác nhận, đức vua trao đổi ánh mắt với một ông lão đứng gần những người lính. Ông già ấy liền bưng thứ gì đó đến cái bàn gần chỗ tôi.
Là một khối cầu trông như quả địa cầu.
“Đây là mô hình thế giới. Bản đồ mô phỏng dựa trên những phát kiến của một nhà hiền triết phương Tây, rằng thế giới này vốn là một quả cầu khổng lồ. Nó thể hiện cấu trúc của thế giới dựa trên kết quả từ những cuộc thám hiểm kỹ lưỡng và phương pháp khoa học chuẩn xác.”
Quả địa cầu này rõ ràng là một mảnh ghép mật thiết, nhưng điều khiến tôi bận tâm là chẳng có gì giống như ở Trái Đất cả. Không có trục quay và các lục địa trông cũng thật khác thường.
“Ngươi có biết vùng đất nào trên mô hình này không, Kay Clear?”
“... Thưa, không.”
Cấu trúc địa lý vốn dĩ khá phức tạp. Vậy nên, kỹ thuật khoa học của họ phải rất tiên tiến thì mới có thể tạo ra thứ này. Khi nhìn quả địa cầu ấy, mối băn khoăn đeo bám tôi cho đến tận ngày hôm nay cuối cùng cũng được giải tỏa.
“Vậy là ngươi vốn không xuất thân từ thế giới này.”
Đức vua tuyên bố điều đó như thể nhìn thấu tâm can tôi. Tôi chẳng thể phủ nhận. Đây không phải là Trái Đất mà tôi biết. Kể từ ngày lạc giữa sa mạc đó, tôi đã đặt chân đến một thế giới khác rồi.
Thật lòng thì, ngay từ những ngày đầu tiên đến đây tôi vốn đã lường trước được chuyện này. Chỉ là, tôi đã cất nó vào một góc trong tâm trí để tránh cho sự thật ấy bị phơi bày. Nhưng giờ, tôi phải đối diện với nó khi nhận ra cơ hội trở về của mình vốn bằng không.
“Thưa Bệ hạ.”
“Nói.”
“Người có biết rằng tôi thật sự đến từ thế giới khác không?”
Đức vua gật đầu. Tôi đã sớm đoán được chuyện này từ vẻ điềm đạm cùng cách nói chuyện của ông ấy.
“Ta biết về ngươi thông qua những lá thư của Aisa. Rằng có một tên đàn ông mặc trang phục kỳ lạ, nói thứ ngôn ngữ bí ẩn đã xuất hiện ở Asilia, và kẻ đó nhắc đến một quốc gia chưa từng được biết đến.”
Ra là thư từ Aisa. Vậy cô ấy chính là nguyên nhân cho việc tôi được triệu kiến. Thế nhưng, vẫn còn có điều khiến tôi băn khoăn. Đáng lẽ họ nên lấy làm lạ khi nghe tôi nói bản thân đến từ thế giới khác chứ. Trừ phi đã từng có chuyện tương tự xảy ra thì họ mới dễ dàng chấp nhận như vậy. Nếu chỉ dựa vào những bức thư của Aisa thì đức vua dĩ nhiên nên phán rằng tôi là một kẻ ảo tưởng mới phải. Đó vốn dĩ là những gì ông ấy cần nói, thế nhưng đức vua lại chẳng tỏ ra chút ngạc nhiên nào khi nghe câu chuyện của tôi.
Phải có điều gì đó khiến ông ta tin.
“Phải chăng tôi không phải là người đầu tiên?”
“Ồ, ngươi cũng tinh ý đấy nhỉ?”
Xem ra tôi chẳng sai một ly một tí nào.
Hài lòng trước suy đoán của tôi, đức vua mỉm cười rồi nhấm một ngụm rượu.
“Ngươi có biết là Asilia chính là cái nôi của đất nước này không?”
“Có ạ.”
“Hừm… Thời ấy, từng có một giai thoại về một người đàn ông.”
Năm trăm năm trước, tù trưởng của bộ lạc du mục sa mạc đã bắt gặp một kẻ xa lạ.
Hắn nói những lời mà chẳng ai hiểu được; dáng vẻ và trang phục cũng không hợp với người sống ở miền cát nóng. Hắn ta là một kẻ khôn ngoan đã sớm học ngôn ngữ ngay khi hòa nhập với bộ lạc. Hắn nói rằng chẳng biết vì sao lại lạc đến sa mạc này và cũng nhắc đến tên một đất nước mà chẳng ai biết tới.
Suốt cái khoảng thời gian luôn mong mỏi tìm đường trở về ấy, hắn đã chia sẻ sự thông thái và tri thức của bản thân cho bộ lạc cưu mang mình. Từ chiến thuật quân sự, tâm lý học, ngôn ngữ hình thể cho đến tổ chức và quản lý chính phủ. Hắn đã dạy họ mọi thứ để trở thành kẻ thống trị.
Cả bộ lạc đã tuân theo lời của kẻ ấy và ngày càng trở nên hùng mạnh. Điều này hiển nhiên khiến Shadin muốn giữ người đàn ông đó lại để phò trợ cho mình, thậm chí ông còn gả con gái mình cho gã.
Thế rồi, bộ lạc đã chiếm lĩnh được ốc đảo Asilian, từ đó tạo dựng nên vương triều của riêng mình. Đó chính là sự trỗi dậy của chế độ quân quyền do vị vua đầu tiên gầy dựng.
“Vậy nên, cư dân miền sa mạc Asilian tin rằng kẻ lang thang giữa sa mạc sẽ mang đến vận may cho họ. Đó chính là lý do tại sao họ lại đối tốt với ngươi.”
“Người đàn ông… còn người đàn ông thì sao? Chuyện gì đã xảy ra với anh ta?”
“Ta có thể hiểu nỗi băn khoăn của ngươi, nhưng ngươi cần nhẫn nại.”
Tôi chỉ chợt nhận ra mình đã nhổm hẳn người dậy khi thấy bệ hạ nhấc tay lên để bảo tôi nên yên vị. Thế rồi, Người uống cạn cốc rượu, trong khi tôi cũng chẳng chừa lại chút trà nào để chuẩn bị cho những gì sắp đến.
“Về người đàn ông thì, người ta bảo rằng hắn ta đã biến mất.”
“Biến mất sao?”
“Người ta bảo rằng, ngày Shadin đăng cơ và cũng là ngày cử hành hôn lễ của con gái ông ấy, người đàn ông đó đã biến mất cùng vợ mới cưới và chẳng bao giờ trở lại.”
“V-Vậy, tức là…”
“Chẳng có gì xảy sau đó cả. Điều đáng nói duy nhất là đất nước mà kẻ đó nhắc tên, hoàn toàn không tồn tại trên bản đồ mô phỏng mà các nhà hiền triết tạo nên. Thậm chí, người ta còn chẳng biết liệu hắn có phải là con người hay không. Vài kẻ thì đồn rằng hắn có thể là một nhà tiên tri được Chúa trời phái xuống. Nhưng dù sao thì, những điều ngươi đã nói lại tương đồng với câu chuyện này, đó mới chính là vấn đề.”
Đức vua kết thúc câu chuyện bằng một cái chống cằm.
“Vậy tức là người đàn ông đó cũng đến từ thế giới khác?”
“Nếu những phát ngôn của ngươi là sự thật, thì chuyện đó có thể xảy ra.”
Những gì cần làm lúc này là xác nhận xem người đàn ông đó có phải đến từ Trái Đất không. Ít ra thì tôi cũng biết rằng trước đó từng có một người cũng lạc đến sa mạc Asilian từ thế giới khác. Nếu đây là sự thật thì mọi chuyện đang bắt đầu sáng tỏ dần. Thậm chí, nếu là vậy thì hi vọng tìm đường trở về trong tôi có thể sẽ trở thành hiện thực.
“Ông ta đã trở về thế giới cũ rồi sao?”
“Người ta nói rằng: Hắn đã biến mất. Chỉ có Chúa trời mới biết chuyện gì đã xảy ra với hai vợ chồng hắn.”
“... Chúa trời sao?”
Có lẽ dòng máu Nhật Bản thấm nhuần trong huyết quản tôi đã luôn chối từ sự tồn tại của Chúa trời. Nhưng sau những gì đã xảy ra, dù không muốn tin rằng có vị thần nào đó đứng sau tất cả thì cũng chẳng thể. Vậy nên, biết đâu sau này tôi có thể được đưa trở lại thế giới cũ.
“Không hiểu sao người đó lại biến mất nhỉ?”
“Nếu Chúa trời phái hắn xuống, thì cũng đưa hắn trở lại sau khi hoàn thành việc được giao phó.”
“Một nhiệm vụ ư…”
“Hắn đã phò trợ vị vua đầu tiên bằng sự thông thái của bản thân và là người đặt nền móng cho chế độ quân quyền này. Và khi đất nước trở nên yên bình ổn định, thì hắn biến mất. Có lẽ, ngươi cũng đã được giao phó việc gì đó.”
Đức vua ngừng nói và trao cho tôi một ánh mắt đầy mong chờ.
Có lẽ ngươi được gửi đến đây để cứu giúp vương quốc này.
Thế nhưng, tôi không tin mình sở hữu thứ gì đó có thể cứu giúp một quốc gia. Dù rằng tôi đã từng sống trong một thế giới tân tiến, nhưng lại chẳng am hiểu chính trị, kinh tế hay công nghệ nào để có thể giúp cho đất nước này phát triển.
“Tôi không hề thông thái như người trong chuyện kể… Tôi chỉ là một đầu bếp thôi.”
“Không thành vấn đề. Aisa!”
Ngay khi đức vua cất tiếng gọi, Aisa liền bước ra từ cánh cửa đối diện đại sảnh.
“E he he, đợi mãi, em nhớ anh đó, Kay.”
“À, ừm…”
Mới không gặp có một tiếng đồng hồ mà Aisa trông như một người khác vậy.
Một lớp trang điểm mỏng cùng kẹp bạc trên mái tóc dài mượt mà. Đôi mắt to và bờ môi son ấy như tôn lên nước da trắng ngần của em ấy.
“Em mặc như vầy anh thấy sao nà?”
Em dang tay rồi xoay một vòng, làm cho gấu váy với những đường chỉ vàng nhẹ sóng sánh theo.
“... Trông em… đẹp lắm…”
“C-Cảm ơn anh.”
Aisa khẽ cúi đầu khi đôi gò má trắng nõn đang dần ửng hồng. Em ấy trông dễ thương quá đi mất. Đúng là cái biểu cảm đáng mong chờ ở một cô bé mới chỉ mười ba tuổi. Còn chiếc váy kia chỉ như tô điểm thêm nét trẻ con nơi em.
“Ta biết cả hai đều đã biết nhau, nhưng dù sao ta vẫn sẽ giới thiệu con bé lại cho ngươi. Đây là Aisa, một sakla, và là tri kỷ của con gái ta.”
Sakla. Dạo trước tôi đã từng nghe Aisa nói về nó. Đó chắc hẳn là danh xưng thể hiện địa vị của em ấy trong hoàng cung. Có lẽ là từ việc em là tri kỷ của công chúa. Tôi tiếp tục cuộc trò chuyện trong khi thầm suy đoán về chức danh của em.
“Ta nghe Aisa nói ngươi là một đầu bếp giỏi. Quốc gia ta rất chú trọng văn hóa ẩm thực. Ta chắc ngươi cũng đã thấy tòa nhà trắng lớn trên đường đến đây. Đấy chính là nhà bếp hoàng cung, nơi quản lý mọi vấn đề liên quan đến ẩm thực trong cung điện.”
Giờ thì tôi đã hiểu được nụ cười ẩn ý của Aisa. Dám cá là giờ nhỏ cũng đang cười như thế cho mà xem.
“Ta mong ngươi có thể chia sẻ ẩm thức thế giới ngươi với đất nước ta. Đổi lại, ta sẽ đảm bảo cho ngươi một chỗ ở tiện nghi cho đến khi ngươi trở về thế giới cũ. Tuy nhiên, nếu ngươi không chấp nhận thì hoàng cung vẫn rộng cửa đón chào ngươi.”
“Tôi…”
Giả sử câu chuyện về người đàn ông nọ là thật thì việc tôi bị gửi trả về ngay sau khi hoàn thành sứ mệnh, đó vẫn là một kết quả tốt đẹp.
Kể cả vậy thì tôi cũng đâu thể nói sứ mệnh của mình là nấu ăn cho đất nước này.
Dù cho bao nhiêu câu hỏi đang bủa vây tâm trí thì tôi vẫn chỉ có thể chấp nhận số phận của mình và hi vọng những điều tốt đẹp hơn sẽ đến. Nhân tiện, nếu như có vị thần nào đó đã đưa tôi đến đây để chia sẻ những kỹ năng nấu nướng này, thì đó thực sự là điều đáng mừng.
“Tôi hiểu rồi. Tôi sẽ cố hết sức để hoàn thành sứ mệnh của mình.”
“Tuyệt!” Aisa vô tay reo lên mừng rỡ. Giọng của em lớn tới mức khiến tôi giật nảy mình.
Kể từ hôm ấy, tôi đã trở thành một đầu bếp cung đình; một bữa tiệc mừng đã được tổ chức vào đêm đó.
Những người tham gia chỉ có tôi, Aisa, đức vua và công chúa. Công chúa Isela bằng tuổi với Aisa và sở hữu mái tóc đỏ y hệt cha mình. Cô ấy còn có ba người anh trai chẳng mấy khi xuất hiện trong hoàng cung nên hầu hết thời gian đều ở bên Aisa.
Dường như cô ấy hơi khó chịu khi được đức vua giới thiệu với tôi; nhưng dù vậy lại rất hòa hợp với Aisa. Khi ngồi cạnh nhau, Isela đã chia sẻ món cá hấp cô ấy thích cho bạn mình. Thực sự thì thực đơn của bữa tiệc này quả là những món ăn tính tế nhất kể từ khi tôi bắt đầu cuộc sống ở Asilia.
“Mấy món Kay nấu cũng ngon lắm đó. Sao cậu không thử ăn xem sao, Isela?”
Aisa nói về công việc nấu nướng của tôi cho công chúa nghe và nhìn tôi với ánh mắt như thể đang ủng hộ tôi vậy.
Tôi đã đắn đo giây lát vì chẳng biết phải mở lời như thế nào, rồi ngay lúc định nói ra thì lại bị ngắt lời.
“Thôi khỏi… Tớ ăn vầy được rồi.”
“Trời ạ…”
Isela lườm tôi một giây rồi ngoảnh mặt sang chỗ khác. Tôi đã cảm thấy có chút thù ghét trong cái nhìn đó.
Tôi bắt đầu khóa học nấu ăn vào hôm sau.
Những kiến thức và kỹ năng tôi mài dũa được khi còn ở Trái Đất đều phụ thuộc vào nguyên liệu, thiết bị và dụng cụ của thế giới cũ. Vậy nên, tôi chẳng thể áp dụng được chúng một khi vẫn chưa làm quen được với văn hóa ẩm thực của thế giới này.
Thật không hổ danh là trung tâm thương mại của cả một nền quân quyền, nguyên liệu ở vương đô này đa dạng hơn ở Asilia gấp vạn lần. Đủ mọi loại thực phẩm từ khắp mọi miền đất nước, hàng nhập khẩu và cả bày bán trong chợ. Chưa kể đến vô số loại hải sản mà ở Asilia không hề có.
Tôi đã thử thăm dò mấy tay bán hàng rong lân cận để có thể nắm rõ hơn về thực phẩm được ưa chuộng ở trong và ngoài cung điện.
Ông lão với bộ râu bạc phơ đứng cạnh đức vua lần ấy, là Hagan; ông ấy là thầy truyền thụ nghệ thuật ẩm thực mới nhất của tôi.
Trông ông ta còn già hơn cả đức vua, nhưng vẫn chưa hề còng lưng. Cách ông ta nấu ăn trông thật sắc xảo và đẹp đẽ. Nếu tôi có thể so sánh thế giới này với Trái Đất một cách thẳng thắn, thì thật sự chẳng có mấy người được như ông ấy.
Hằng ngày, tôi tập luyện những kỹ thuật nấu nướng mà ông ấy truyền dạy, khi rảnh còn vào bếp quan sát các đầu bếp khác nữa. Tôi đã làm như thế trong suốt ba tháng cho đến khi chính thức trở thành đầu bếp cung đình.
Đấy chính là sự kiện thay đổi cuộc sống mới của tôi tại thế giới này.
Đức vua, Hagan, Aisa và cả Isela đã cùng tham dự buổi tiệc nhậm chức của tôi. Đó là tiệc buffet do chính tay tôi chuẩn bị.
Thịt dendel hầm, gà nhồi nướng, sashimi, gà hấp rong biển, hải sản hấp rượu và cuối cùng là món tráng miệng ngọt ngào từ bột gạo, mật mía và sữa. Tôi bày biện thành quả học tập của mình trên bàn tiệc bằng những món ngon nổi tiếng nhất nơi kinh đô. Bữa tiệc ấy giống như một bài kiểm tra tốt nghiệp đối với tôi vậy.
Cả đức vua và Hagan đầu gật gù hài lòng khi nếm thử món hầm. Còn Aisa thì xẻ đôi con gà nhồi nướng - món trứ danh của Asilia, rồi nếm một miếng trước khi mời Isela dùng thử.
Lúc liếc nhìn bờ môi miễn cưỡng của Isela dần chạm đến miếng thịt gà, tôi chỉ mong mùi vị không quá tệ. Thực sự thì suốt ba tháng qua, lần nào tôi chào hỏi cô ấy cũng đều bị phớt lờ cả. Vậy nên, chắc vì lý do nào đó mà tôi bị ghét rồi cũng nên.
May mắn thay, tôi chỉ toàn lo nghĩ mấy chuyện không đâu. Isela ăn hết phần gà nhồi nướng rồi lại với tay sang các dĩa thức ăn khác; cô nàng đã bị mê hoặc mất rồi.
Thở ra một hơi nhẹ nhõm, tôi cùng mọi người hòa mình vào yến tiệc. Khi được tận hưởng những món ngon ấy, bao nhiêu lo toan về tương lai trong tôi như phai nhòa dần. Nhưng niềm hân hoan ấy thật chẳng tày gang khi một sự thật kinh hoàng được hé lộ.
“Anh còn nhớ lần em và anh trai tìm thấy anh trong sa mạc không?” Aisa đột nhiên hỏi.
“Dĩ nhiên rồi. Nhờ có em nên giờ anh vẫn sống tốt được đây này,” tôi thản nhiên đáp lại, nhưng rồi lại nhanh chóng nhận ra sự thật mà em đang hướng đến.
“Anh từng hỏi là em đã cho anh ăn gì lúc anh sắp chết, nhỉ?”
“... Đúng rồi, anh từng hỏi vậy.”
“Em đã nói là chẳng cho anh ăn gì cả, nhưng đó không phải là sự thật. Vì đó là điều mà em không được phép làm, nên em đã phải nói dối.”
Tôi tròn xoe mắt ngạc nhiên. Hương vị đã đánh thức tâm can tôi, thứ hương vị mà tôi cứ ngỡ rằng mình chỉ có thể nếm trải được trong mơ, hóa ra lại có thật.
Tôi nhìn mọi người quanh bàn. Vẻ mặt Hagan vẫn nghiêm nghị như mọi khi; đức vua thì nở một nụ cười rạng rỡ; Isela lại chẳng thể hiện gì nhiều.
Ngực tôi thắt lại. Cẩn trọng từng lời nói, tôi cố gắng chế ngự cái dự cảm về một điều khủng khiếp sắp sửa ập đến:
“... Vậy, em đã cho anh ăn gì?”
“Máu. Là máu của em.”
Phải mất giây lát để tôi hiểu được những gì em nói. Và rồi em đưa cổ tay lên cho tôi xem, có một vết sẹo nhỏ ở đó.
Tôi đã phải vắt óc để mường tượng cảnh Aisa rạch cổ tay cho tôi uống máu và khiến tôi hồi tỉnh.
Thật không thể tin nổi thứ hương vị ấy lại đến từ máu của em ấy, là máu người.
“Ở Asilia có một phong tục, đó là cha mẹ sẽ nếm thử máu của đứa con mới sinh để xem nó có phải là một sakla hay không. Sakla là những đứa trẻ hiếm khi được sinh ra đã sở hữu dòng máu có mùi vị vô cùng thơm ngon, được cho rằng có thể hồi sinh cả người đã chết. Aisa chính là một đứa trẻ như vậy. Con bé là một sakla.”
Vua Shayde đã giải tỏa phút bối rối trong tôi bằng những lời giải thích ấy. Đó vốn dĩ chẳng phải chuyện dễ tin, nhưng khi đã tự mình nếm trải, tôi tuyệt nhiên không thể phủ nhận.
“Em chưa khi nào tự nếm thử máu của mình cả, nhưng em thực sự mừng khi nghe anh nói nó rất ngon đó, Kay.”
Tôi vẫn còn nhớ như in thứ hương vị đó.
“Sakla được xem là phước lành của thần linh và sẽ được đưa vào cung cho đến khi chúng chín muồi.”
“C-Chín muồi…?”
Chuyện gì sẽ xảy ra khi họ “chín muồi” chứ?
Tôi đã mường tượng ra lời giải hợp lý nhất, nhưng nó đáng sợ đến nỗi tôi chẳng dám thốt ra thành lời. Đức vua đã đoán được suy nghĩ trong tôi, ông không nói một lời nào như thể khẳng định điều đó là thật.
Tôi chợt nhớ lại cuộc trò chuyện khi trước với Aisa, lần mà tôi khám phá ra văn hóa tiệc tang buffet, ganzara. Có lẽ, khuôn mặt buồn bã khi ấy của Aisa không phải vì tôi đã chối bỏ phong tục của đồng bào cô ấy, mà là vì điều gì đó… cá nhân hơn chăng?
“Kay này.”
Aisa gọi tên tôi. Và khi quay sang, tôi thấy em đang nhìn thẳng vào mắt mình với một nụ cười rạng rỡ và đầy vui tươi.
“Hãy… biến em thành món gì ngon ngon nhé.”