Trans&Edit: BiHT
-----------------------------------
“Ngài Ludwig, Chúa có thật sự tồn tại không ạ?” Miabel hỏi.
Ngay sau khi tới lớp ngày hôm đó, cô đưa ra câu hỏi này với Ludwig, người hiếu kì quan sát cô thông qua cặp kính của mình.
“Hửm? Có chuyện gì vậy, Công chúa Điện hạ? Ngài bỗng dưng hình thành sự hứng thú đối với thần thánh à?” ông hỏi trong khi múc vài muỗng lá trà quý mà ông đã xoay sở kiếm được vào trong một cái ấm.
“Trên đường con đến đây, có ai đó đã bán một thứ tên Bình của Chúa có khả năng trao cho người ta trí tuệ của tổ tiên mình. Nó có hơi đắt, nhưng con nghĩ nếu dùng nó, có thể con sẽ mượn được đôi chút trí tuệ của Bà Mia...” cô nói, ngước nhìn ông với đôi mắt to tròn đầy mong đợi.
Ông gãi cằm và cân nhắc điều nên nói, cảm thấy nỗi lo không hề nhỏ với sự dễ dụ của cô. Việc nghĩ ra câu trả lời không phải vấn đề ở đây; chuyện đó thì dễ thôi. Đế quốc là một phần trong phạm vi ảnh hưởng tôn giáo của Nhà thờ Trung ương Chính thống. Những con người ở đây có một niềm tin ngây thơ và mù quáng vào sự tồn tại của Chúa. Do đó, lựa chọn đơn giản sẽ là chỉ việc nói có mà thôi. Trong trường hợp cô thành công lấy lại địa vị và quyền lực của một công chúa, tốt hơn hết nên để cô cũng tin tưởng như vậy.
Tuy nhiên, một mối lo ngại nào đó khiến ông phải cân nhắc. Đây là một câu trả lời đơn giản. Một câu trả lời theo quy định. Đưa nó cho cô thì rất dễ, nhưng nó sẽ không giúp ích gì cho cô về lâu về dài. Suy nghĩ cho bản thân là một kĩ năng quý giá, và ông muốn cô có nó. Vì vậy, ông không thể cứ thế trao cho cô tất cả những câu trả lời được. Mục tiêu của ông là khiến cô suy nghĩ. Thế nên, ông tổng hợp câu trả lời của mình dưới dạng một sự khảo sát logic.
“Câu hỏi hay lắm... Cá nhân ta tin rằng thực thể chúng ta gọi là Chúa có tồn tại.”
Khó có thể nói đó là một tuyên bố cấp tiến, nhưng ông bổ sung thêm cơ sở cho nhận định của mình.
“Nếu không, sẽ có quá nhiều thứ trên thế giới này mà chúng ta không thể giải thích.”
“Những thứ gì vậy ạ?”
Miabel bối rối nghiêng đầu. Ông ra hiệu về phía chiếc ghế để cô ngồi xuống rồi chỉnh lại kính.
“Để xem nào... Một ví dụ đơn giản sẽ là con người như ngài và ta.”
“Hả? Ngài Ludwig và con ư?”
Ông mỉm cười ranh mãnh trước cái chớp mắt bối rối của cô và tháo kính ra, đặt nó trước mặt cô.
“Hãy nhìn cặp kính này. Chúng được làm một cách rất công phu, đúng không? Công chúa Điện hạ đã bao giờ nghĩ về cách chúng khiến việc nhìn trở nên dễ hơn chưa?”
Bel nhặt nó lên và nhìn qua tròng kính vài lần rồi lắc đầu.
“Có các nguyên lý chi phối chức năng của công cụ mang tên kính này. Tạm thời thì ta sẽ không đi sâu vào chi tiết, nhưng có thể nói chúng đã hình thành khi những con người thông thái từ rất lâu trước kia tập trung trí tuệ của mình vào việc tìm hiểu cách hoạt động của mắt con người. Họ đã nghiên cứu cấu trúc và chức năng của nó. Thế rồi, họ bắt đầu lắp ráp nên thứ gì đó có thể chỉnh lại sai lệch của mắt. Họ làm điều này bằng cách chủ động áp dụng ý chí của họ vào một mục tiêu. Nói cách khác, chính những con người với trí tuệ vĩ đại thực hiện ý định để tạo ra một thứ như vậy của họ đã khai sinh ra món đồ mang tên kính này. Ví dụ, giả như ngài lấy những vật dụng được dùng để làm những thứ này—gương và sắt—và đặt chúng xuống đất. Liệu cơn mưa có khắc miếng gương thành tròng kính không? Hay gió có bào mòn sắt thành gọng kính không? Chúng không có ý chí, không có mục đích. Một việc như thế sẽ là bất khả thi.”
Ludwig đeo kính lên lại và tiếp tục.
“Vậy thì về con người chúng ta thì sao? Những con người đã tạo ra và sử dụng những cặp kính này? Chúng ta thậm chí còn được thiết kế phức tạp, toàn diện hơn cả những công cụ và tác phẩm nghệ thuật mà chúng ta tạo ra. Vậy thì bằng cách nào, Công chúa Điện hạ, ngài nghĩ chúng đã được tạo ra bằng cách nào? Ngài có nghĩ rằng chúng ta được tạo hình bởi mưa, gió và sỏi đá không?”
“Không, con không nghĩ vậy.” Miabel lắc đầu đáp.
Ludwig tin chắc rằng chúa tồn tại, đó là một thực thể với sức mạnh và trí tuệ lớn hơn loài người đã thiết kế nên thế giới. Đó là một kết luận mà ông đã chạm đến sau khi suy nghĩ rất nhiều. Dù không biết cách thức, ông vẫn tin vào sự tồn tại của nó—rằng nhân loại, cùng với toàn bộ thế giới, đã được tạo ra bởi một thực thể với trí tuệ uyên thâm đã thực hiện ý định tạo nên thế giới như bây giờ. Phủ nhận điều này sẽ để lại quá nhiều thứ không thể giải thích được. Không chỉ nhân loại, mà cả động vật, thực vật, và cả những sinh vật nhỏ bé của trái đất... Ai đó đã phải cẩn thận thiết kế và tạo chúng như thế. Ông thấy rằng đây là lời giải thích duy nhất.
Đột nhiên, những lời của người thầy già hiện lên trong tâm trí ông.
“Không chút suy nghĩ mà quy toàn bộ những hiện tượng thế gian cho thần thánh hay quỷ quái là một sự sỉ nhục với Chúa, người đã thiết kế nhân loại chúng ta như những sinh vật biết suy nghĩ. Điều đó đi ngược lại với niềm tin của chúng ta vào sự lộng lẫy vô khuyết của các tạo vật của Chúa. Tuy nhiên, cho rằng toàn bộ những hiện tượng thế gian không có mối liên kết nào với các vị thần, dù tốt hay xấu, cũng là một hành vi thiển cận.”
Kể từ khi nhận được một mảnh của sự khôn ngoan đó, ông đã phấn đấu để luôn nhìn vạn vật theo một cách cân bằng nhất có thể. Đó là một thứ mà ông đã cam kết bản thân thực hiện, và ông mong Miabel cũng có thể đạt được lối tư duy phản biện đó.
“Vậy...có phải thế nghĩa là cái bình là thật không ạ?! Nó thật sự có thể thực hiện những phép màu thần thánh ư?!” Miabel kêu lên, đôi mắt lấp lánh với sự phấn khích.
“Không! Đợi đã!”
Thấy ánh mắt cô hướng về phía cửa, Ludwig vội ngăn lại trước khi cô có thể chạy đi mua cái thứ vớ vẩn đó.
“Làm ơn, xin hãy bình tĩnh lại, Công chúa Điện hạ. Chúa có thể tồn tại, nhưng việc một cái bình phép màu như thế có tồn tại hay không lại là một vấn đề khác hoàn toàn.”
“Hả? Tại sao vậy, Ngài Ludwig?” cô lại lần nữa bối rối nghiêng đầu hỏi.
Điều Ludwig muốn nói là “Ý ngài khi hỏi ‘tại sao’ là gì hả? Vụ cái bình đó có chỗ nào nghe không giống lừa đảo đâu chứ?!” Điều ông thật sự nói, sau khi ép bản thân phải nghĩ ra một câu trả lời đúng đắn là “Dù chúng ta vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn, hãy cứ giả sử vì cuộc tranh luận này rằng thế giới thật sự được tạo ra bởi Chúa. Rằng nó được thiết kế với một hệ thống các nguyên tắc vũ trụ phức tạp chi phối chức năng của nó. Vậy thì, phép màu là gì? Chẳng phải nó sẽ là thứ gì đó đi ngược lại với những nguyên tắc đó sao?”
Không ai có thể giao tiếp với những tổ tiên đã chết của họ. Đó là cách thế giới này hoạt động; đó là một hệ quả của các nguyên tắc vũ trụ. Phép màu mà cái bình đó được cho là có thể thực hiện sẽ phá vỡ những nguyên tắc đó. Bel cân nhắc lý luận này một thoáng rồi thẳng cổ lại và đáp “Vâng, đúng là vậy thật!”
Nói thẳng thì giọng cô có hơi nhiệt tình quá mức để có thể tin rằng cô thật sự hiểu ý của ông. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục, chỉ cho phép bản thân nhăn mặt trong giây lát trước sự vô ích tiềm ẩn trong những nổ lực của mình.
“Sau khi cẩn thận thiết kế các nguyên tắc chi phối thế giới này, liệu Chúa có sẵn lòng làm rối loạn chúng như vậy không? Nếu đó là ta, ta dĩ nhiên sẽ do dự trước việc lật đổ một hệ thống các quy luật mà ta đã phải nỗ lực rất nhiều để tạo nên.”
Theo định nghĩa, phép màu là một sự kiện hiếm hoi. Nếu có một thời điểm phù hợp để chúng xảy ra, thì theo Ludwig, đó sẽ khi chính thế giới đang đối mặt với nguy cơ tàn lụi hoàn toàn. Nếu Chúa đã thiết kế thế giới với những quy luật cẩu thả, vậy thì mấy quy luật đó có lẽ sẽ thật sự bị phá bỏ dễ dàng. Tuy nhiên, càng nghiên cứu về các quy tắc của vũ trụ thì ông là càng kính sợ hơn trước sự hoàn hảo tinh vi của nó.
Nhưng theo như lối lý luận đó, xét đến hiện trạng của thế giới thì dù nghe có thể gây tranh cãi, thời khắc cho một phép màu thật sự đã chín mùi.... Sự tàn bạo hấp tấp của Nữ hoàng Giám mục Rafina... Những cuộc khủng hoảng của Sunkland và Tearmoon... Khi đã có rất nhiều người chết, và chính lịch sử đang dần sụp đổ ngay trước mắt chúng ta, có lẽ đây là thời điểm thích hợp... cho một phép màu để chúng ta vay mượn sự khôn ngoan của Đại hiền giả...
Ông lắc đầu và đẩy suy nghĩ đó ra phía sau tâm trí. Thế rồi ông nhìn thẳng vào Miabel.
“Các phép màu chỉ xảy ra khi chúng thật sự cần thiết. Chúng không phải thứ mà ta có thể có được một cách tự nhiên. Đó là lý do ngài nên luôn luôn cảnh giác với những kẻ nói về các phép màu đi ngược lại hoàn toàn với các nguyên tắc chi phối thế giới chúng ta. Chẳng bao giờ thiếu những kẻ lấy danh nghĩa Chúa ra để lừa gạt cả....”
Tâm trí Ludwig thẩn thờ trong lúc quan sát khung cảnh quen thuộc khi Miabel thoải mái ngủ gật giữa tiết học của mình. Ông trầm ngâm suy nghĩ về cuộc thảo luận trước đó của họ.
“Định đề một, với mỗi hiện tượng đều có một giả thuyết có thể được đưa ra để giải thích nó. Định đề hai, các phép màu của Chúa không dễ dàng xảy ra. Xét những điểm này....Hừm....” Ánh mắt ông trở nên xa xăm. “Các phép màu rất hiếm hoi.... Ta đoán nó cũng hiếm như những vùng đất được Chúa chúc phúc vậy...”
Ông từng nghĩ rằng Đảo Saint-Noel là một nơi mà không thứ thực vật độc nào có thể tồn tại do phước lành của Chúa. Hơn nữa, nó được bảo vệ bởi các biện pháp an ninh nghiêm ngặt khiến việc đem các chất độc từ bên ngoài vào là bất khả thi. Đảo Saint-Noel, nơi có đất đai được bảo vệ bởi thứ đặc ân thiêng liêng. Đảo Saint-Noel, nơi có học viện đã bị tàn phá bởi vụ đầu độc hàng loạt. Lượng sinh mạng mất đi trong sự cố kinh hoàng đó làm rúng động cả lục địa, sản sinh ra vô số giả thuyết và suy đoán. Một số lời giải thích nổi bật đã được đưa ra, như là khả năng về sự tồn tại của một lỗ hổng an ninh cho phép chất độc được tuồn vào hay việc sử dụng một loại hợp chất đặc biệt chỉ có tác dụng như chất độc trong những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, tới tận ngày hôm nay, vẫn chưa cách giải thích nào trong số đó trở thành câu trả lời được chấp nhận rộng rãi. Không lâu sau đó, cả lục địa đã bị nhấn chìm vào trong kỉ nguyên của sự hỗn loạn không ngừng, và vụ tai nạn đó phai mờ dần khỏi kí ức của mọi người. Rất có khả năng, sự thật đã bị thất lạc mãi mãi. Các sử gia tương lai có thể sẽ viết về nó như bí ẩn của thế kỉ. Tuy nhiên...
“Sự ngộ nhận...là những thứ kinh hoàng. Điều đó, có lẽ, chính là đạo lý thật sự của câu chuyện ghê rợn này.”
...Ludwig Hewitt thì không, bởi biện pháp để thực hiện cuộc thảm sát đó gần như đã rõ rành rành trước mắt ông. Không có lỗ hổng an ninh nào cả. Không có thứ chất độc cầu kì, kích hoạt theo điều kiện nào. Không phải thứ gì như thế cả. Câu trả lời tầm thường hơn nhiều. Đám thủ phạm chỉ đơn thuần là đã lợi dụng một sự ngộ nhận đơn giản.
“Không giống cây độc nào có thể sinh trưởng ở Saint-Noel, nơi nước được thanh tẩy bởi phước lành của Chúa. Ngộ nhận đó đã sai ngay từ đầu...”
Không hề tồn tại sự tích hay truyền thuyết cụ thể nào cho rằng Đảo Saint-Noel được hưởng ân điển thần thánh cả. Thánh Công quốc Belluga mới là thứ được nói là được Chúa ban phước. Do đó, ngay cả nếu Saint-Noel thật sự được chúc phúc, đó phải là kết quả từ việc hòn đảo là một phần của Belluga. Lý do người ta cho rằng nó mang sự thần thánh chỉ có thể là một hệ quả tất yếu từ nguồn gốc bao quanh nó. Vậy thì đất nước Belluga được ban phước đó có không tồn tại các loại cây độc không? Rõ ràng là không. Chỉ riêng sự tồn tại của nấm Belluga giả thôi là đã đủ chứng minh điều đó. Như tên của mình, loại nấm độc này phổ biến khắp công quốc. Nói cách khác, ngay cả ở một vùng đất được Chúa ban phước, các loại cây độc vẫn có thể sinh trưởng mà không bị ngăn trở. Do đó việc khẳng định rằng chỉ mình Đảo Saint-Noel hoàn toàn không có các loại cây độc sẽ khá là lố bịch.
“Khi nghĩ về nó một cách hợp lý thì...cái nhận định cây độc không sinh trưởng ở Saint-Noel nhất định là một lời nói dối.”
Nhưng đó là kiểu lời nói dối nào? Một sự mê tín vô thưởng vô phạt? Một câu chuyện dân gian vô giá trị? Có lẽ. Tuy nhiên, cũng có khả năng tồn tại ý định nào đó đằng sau lời nói dối. Rằng nó chứa đựng một mục đích. Trong trường hợp cái Bình của Chúa thì mục đích là để thổi phồng giá trị của nó để bán. Vậy còn trường hợp Đảo Saint-Noel thì sao?
“Để làm giảm sự cảnh giác của các lính canh....có vẻ là khả năng đáng tin nhất...”
Ngay cả khi không ai có thể đem chất độc từ bên ngoài vào, những sự cảnh giác đó sẽ là vô nghĩa nếu các loại động thực vật độc vốn đã tồn tại sẵn trên đảo. Dù vậy, sự thật đó không thu được sự chú ý từ những người phụ trách an ninh. Họ cho rằng mình chỉ việc ngăn người khác đem chúng vào. Họ hướng toàn bộ nỗ lực của mình ra ngoài, không dành chút suy nghĩ nào cho thứ nằm bên trong.
“Thứ che mắt họ....chính là niềm tin vào phép màu của phước lành được ban cho hòn đảo.”
Với cả lục địa chìm trong hỗn loạn, Ludwig đã quyết định thực hiện một cuộc điều tra sự cố. Sau cùng, ông đã có được một phát hiện khác thường. Cái suy nghĩ cho rằng không loại cây độc nào có thể sinh trưởng trên Đảo Saint-Noel mới đến bất ngờ. Ông không thể xác định chính xác thời điểm nó bắt đầu, nhưng khi học viện mới vừa thành lập, hoàn toàn không có ai nhắc đến thứ niềm tin như thế. Thật ra, đã từng có các ghi chép về việc những học sinh đời đầu bị cảnh báo rằng các loại thực vật trên đảo có khả năng có độc và phải hết sức thận trọng khi muốn tiêu thụ chúng.
Thế rồi, tới một lúc nào đó, một sự mê tín đã nổi lên. Lỡ như kẻ lan truyền tin đồn chính là người đã phát hiện ra thứ chất độc kinh khủng trên đảo thì sao? Một chuỗi những sự trùng hợp nhỏ có thể đã dẫn đến việc người này tìm ra nơi một loại chất độc mạnh mẽ sinh trưởng. Thế rồi, mong muốn che giấu phát hiện này khỏi sự xem xét kĩ lưỡng của giới cầm quyền, kẻ đó đã cố tình thêu dệt nên một tin đồn để tập trung hoàn toàn những nỗ lực của hệ thống an ninh vào sự nguy hiểm của các chất độc nhập từ ngoài vào.
“Người đã giám sát an ninh trong sự cố đó là một người đàn ông tên Santeri Bandler. Ông ta đã làm công việc đó suốt ba mươi lăm năm. Nếu tin đồn đã lan tỏa từ trước khi ông ta được bổ nhiệm vào vị trí...”
Kẻ nào đã làm vậy? Khỏi phải nói, Ludwig đã nghiên cứu vấn đề từ sớm và đưa ra một giả thuyết. Khi những vụ ám sát xảy ra, tình cờ thay con gái của một người đàn ông nào đó—sinh ra vào cuối đời ông—đã nhập học học viện.
“Công tước Yellowmoon....dòng dõi quý tộc già nhất và yếu nhất... Rốt cuộc hắn ta đã luôn cố gắng làm gì vậy chứ?”
Ông nheo mắt lại như đang cố nhìn xuyên qua màn sương của thời gian, thế rồi nhắm chúng lại với một tiếng thở dài mệt mỏi.
“Có ích gì đâu chứ? Hắn đã không còn nữa. Ngay cả khi mình lột trần sự thật, rồi sao chứ, chẳng lẽ mình lại đi nói với Rafina? Liệu nó có xoa dịu được cơn thịnh nộ của cô ta không? Không, lúc này đã chẳng còn cách nào để ngăn cô ta nữa rồi. Thật đáng tiếc... Đúng là rất, rất đáng tiếc....”
Bel tiếp tục say giấc. Cô không bao giờ nghe thấy lời than thở thầm lặng của ông.