Tại thủ đô đế chế có một khu vực mang tên “Bên Kia Bức Tường Vàng”.
Để mà nói thì, nơi đó đơn giản chính là một khu ổ chuột.
Nơi của những người sống ở thủ đô nhưng không thể tận hưởng sự thịnh vượng của nó, những người tàn tật thiếu tay, dân thường xuất thân thấp kém, tội phạm, thất nghiệp và những người đói khổ không đủ tiền mua một bữa ăn, tất cả đều tập trung ở đó.
Khu ổ chuột này tồn tại ở đó nhưng lại như thể không hề có ở đó.
Sự huy hoàng quá chói lọi của thủ đô đã lu mờ sự hiện hữu của khu ổ chuột. Chẳng phải thật kỳ lạ sao khi trong thành phố vĩ đại nhất lại tồn tại một “vết nhơ" như khu ổ chuột sao?
Do đó, người dân thủ đô gọi nó bằng cái tên đơn giản như “Bên Kia Bức Tường Vàng”, đối xử với nó như thể nó không hề tồn tại. Một nơi rõ ràng mồn một vì quá gần, nhưng lại bị ngó lơ, không ai muốn tìm hiểu kỹ, như thể một cái bóng bị lãng quên.
Bởi vì họ không thể đặt cho nó một cái tên, nên chỉ đơn giản gọi nó là “Bên Kia Bức Tường Vàng”.
“Paolo, hôm nay cha lại đi tới 'Bên Kia Bức Tường Vàng' sao?"
"A, người anh em. Anh đã đã làm rất tốt nhiệm vụ canh gác của mình. Tôi đang trên đường đến căng tin để phân chia khẩu phần."
"Thưa Cha, chính ngài mới là người vất vả. Mong sao những kẻ trộm cắp lười biếng đó đừng gây chuyện… Nếu tiện, ngài có muốn tôi cử một binh sĩ đi cùng không?"
"Haha, không cần đâu. Tôi có thể tự bảo vệ được mình mà."
Những người sống sau bức tường là những kẻ đã bị từ chối ngay cả ở trại tiếp tế cho người nghèo. Nói đúng hơn là họ không đủ điều kiện nhận cứu trợ vì các nguyên tắc tôn giáo nghiêm ngặt của trại.
Nguyên tắc “Ai không làm sẽ không được ăn” rất dễ để ta hình dung. Trại tiếp tế là nơi giúp đỡ người nghèo học nghề, chu cấp cho họ trong quá trình học và tìm việc làm, nhằm trao cho họ khả năng tự nuôi sống mình.
Nhưng những người trong khu ổ chuột thì lại là những kẻ hoàn toàn không làm việc gì cả.
Họ là những người thiếu khả năng làm việc hoặc không có ý chí lao động, sống ở đây “Bên Kia Bức Tường”.
Điều duy nhất họ có thể trông cậy là quán ăn từ thiện do nhà thờ và Đế chế hợp tác điều hành. Đổi lại việc nhận thức ăn tại quán, họ không dám xâm phạm “bên trong bức tường”.
Vì thế “bên trong bức tường” của Đế chế luôn được giữ sạch sẽ.
Các công dân của Đế chế vĩ đại sống trong một thành phố lý tưởng, nơi “không có người nghèo và không có tội phạm.” Thậm chí không có người khuyết tật hay người vi phạm luật. Thứ không nhìn thấy được thì sẽ không tồn tại, thế nên thủ đô của Đế chế chắc chắn là một nơi “lý tưởng”.
Người dân của Đế chế cứ bận rộn làm việc trong các nhà máy, tận hưởng bia, tạp chí và các trận đấu, sống một cuộc đời giản dị và hạnh phúc.
Thú nhân của Đế chế dù phải đối mặt với sự phân biệt đối xử trong nhiều lĩnh vực, nhưng trong xã hội của riêng họ, họ hỗ trợ lẫn nhau và tự hào về sự thịnh vượng mình đạt được.
Giới quý tộc Đế chế dù cãi vã và tranh chấp trong hội đồng, vẫn khoác lên mình vẻ trang nhã giả tạo và những phép tắc lỗi thời trong các mối quan hệ xã hội, cố gắng giữ gìn thể diện.
Các linh mục của Đế chế giúp đỡ những người gặp khó khăn trong cô nhi viện và nhà thờ, truyền bá lời Chúa.
Mỗi người đều có nỗi buồn, bất hạnh và đau khổ riêng.
Nhưng Đế chế vẫn là một xã hội lý tưởng, ngay cả khi tồn tại những nỗi buồn đó.
"Dù sao đi nữa, cha vẫn nên cẩn thận, khi đi thì đừng đi quá sâu vào những con hẻm."
"Tôi luôn đi theo đường mình quen thôi, nên không cần lo đâu."
"Vâng, vậy xin ngài bảo trọng."
"Vâng, anh cũng vậy."
Nhưng.
Trong xã hội lý tưởng này, ta chỉ cần ngó một chút sang bên cạnh…
“Tôi là Cha Paolo, linh mục của thủ đô. Tôi đã mang thức ăn đến để dùng cho quán ăn từ thiện.”
“…Cứ để ở cạnh cửa đi.”
“Nếu tôi để ở cửa, liệu có ai lấy trộm không?”
“Nếu có thằng ngu ngốc nào dám trộm thức ăn của quán, chúng đằng nào cũng không sống sót lâu ở đây đâu. Cứ để đấy.”
“…Được, tôi đã rõ.”
Một xã hội khốn khổ và dơ bẩn tồn tại dưới bóng tối, nơi những kẻ bất lực với đôi mắt đỏ ngầu đang ẩn nấp.
Cha Paolo không bao giờ có thể quen được với bầu không khí nơi đây.
Ông đã đến thăm rất nhiều lần, nhưng… dù vậy, nó luôn mang lại cho ông một cảm giác rợn người. Có lẽ đó là một kiểu ác cảm vì tôn giáo mà ông cảm nhận được với tư cách là một linh mục—một cảm giác ghê tởm và thù hận.
Những kẻ nghiện ngập, ăn xin, người yếu đuối và những kẻ đã từ bỏ niềm tin.
Những con người tệ hại này thậm chí còn nhiều hơn cả rác thải chất đống trên phố.
...
“Cha Paolo, ngài về rồi đấy à?”
“Vâng, có chuyện gì xảy ra trong lúc tôi đi vắng không?”
“Nhà thờ vừa có thêm sách mới. Nghe nói Nhà văn Homer lại có tác phẩm mới.”
“A… Thật sao?”
Thực chất, khác với các linh mục khác ở Thánh đường, Cha Paolo, một vị linh mục lại không mấy hứng thú với “Homer.”
Tất nhiên, ông vẫn tôn kính tài năng của vị tác giả này.
Ông ấy là người đã thực hiện được khát vọng muôn đời của Nhà thớ đó là “phúc lợi cho mọi trẻ em” và thậm chí tạo ra một phép màu khiến công chúng tự nguyện quyên góp cho trẻ nhỏ.
Nhưng với tư cách là một linh mục lấy sự nghèo khó và siêng năng làm đức hạnh…
“Sự hào phóng” của Homer luôn bị xem là quá nhiều. Nếu ông ấy cứ vô điều kiện cứu giúp những kẻ nghèo khổ và lười biếng, làm sao họ có thể tìm thấy con đường cứu rỗi cho chính mình đây?
Dĩ nhiên nếu một linh mục như ông dám bày tỏ những suy nghĩ này, ông sẽ bị lên án là keo kiệt, ích kỷ và thậm chí có thể bị khai trừ.
Quả nhiên.
Thật khó để ông nhìn nhận mọi chuyện một cách tích cực.
“Đây cũng phải được coi là một tội lỗi trong tư tưởng….”
Vì lẽ đó.
Có thể nói rằng tồn tại hai con người bên trong linh mục Paulo.
Một là vị linh mục tôn kính “Đấng đáng kính” Homer, người đã được Chúa ban phép lạ và một là người linh mục phản đối Homer với tư cách là một “nhà hảo tâm” điều hành một quỹ phúc lợi.
Mắc kẹt giữa cả hai, linh mục Paolo lướt bàn tay lên bìa cuốn sách mà người hầu vừa mang tới.
“…Có lẽ mình sẽ tìm thấy lời giải đáp trong cuốn sách này.”
Những đến cuối, cả hai con người đều yêu mến Nhà văn Homer.
Nếu Homer được phong thánh trong tương lai, ông ấy có lẽ sẽ trở thành vị thánh bảo trợ cho văn học.
Bất kể sở thích cá nhân hay khuynh hướng đạo đức, mỗi tác phẩm của Homer đều là một tuyệt tác thấm đẫm triết lý và tư tưởng sâu sắc.
Hơn nữa, đối với một linh mục luôn tìm kiếm lời giải thông qua sự tĩnh tâm, văn học là một thú vui giải trí vô cùng phù hợp.
Vậy nên Paolo, để tìm kiếm một giải pháp cho cuộc xung đột nội tâm của mình, quyết định gạt những lo lắng bực bội sang một bên và đọc tác phẩm mới nhất của Homer.
[Anh em nhà Karamazov]
"Độ dài này vừa ổn… Chắc là đủ để mình có cái để làm trong mấy ngày tới.”
.
.
.
Anh Em Nhà Karamazov là hình mẫu tiêu biểu cho một tiểu thuyết văn học đậm chất Nga.
Để nói rõ hơn về sự vĩ đại của tác phẩm để đời này, ta có thể nói như sau.
Anh Em Nhà Karamazov chính là tinh hoa của “văn học Nga.” Nó là một trong những đỉnh cao lý tưởng của “tiểu thuyết hoàn hảo” điều mà mọi nhà văn đều hướng tới, là một kiệt tác gói gọn cả sự thấp hèn lẫn lý tưởng của nhân loại.
"Tác phẩm này cảm thấy hơi… khó hiểu."
"Ồ? Nó kiểu như nào?"
"Trông có vẻ là một cuốn tiểu thuyết về tội lỗi, nhưng nó lại liên tục nói về tình yêu… Có cả những tội ác không thể tha thứ như giết người và tự sát, nhưng… nó cũng tràn đầy hy vọng. Hừm, tôi không diễn tả hết được, nhưng… dù các nhân vật bị đặt vào những hoàn cảnh cực kỳ khắc nghiệt, mọi thứ vẫn diễn ra tự nhiên đến đáng kinh ngạc. Nó khác với 'chủ nghĩa lãng mạn' mà ngài nói trong Nỗi đau của chàng Werther hay phong cách 'gai góc' của Dr. Jekyll và Mr. Hyde."
"Chính xác! Dù hoàn cảnh có khốn cùng đến đâu đối với những người đang sống trong đó, nó vẫn chỉ là 'cuộc sống' bình thường và chân thật. Và đó là lý do khiến cuộc sống càng trở nên đáng trân trọng."
Bản thân Dostoevsky đã từng bị tuyên án tử hình và có thời gian sống cùng các tù nhân tử tội trong trại giam.
Hoàn cảnh khắc nghiệt, tội ác tột cùng cùng với môi trường tồi tệ.
Trong những điều kiện đẩy con người đến sự độc ác và u tối, Dostoevsky đã thấu hiểu sâu sắc hơn về lòng tốt và tính người của những “phạm nhân.”
Ông học được lý do vì sao thiện và ác có thể cùng tồn tại và vì sao luật pháp của đất nước và đạo đức con người lại vốn có sự mâu thuẫn.
Và.
Bất chấp mọi sự thấp kém của nhân loại, ông đã học được về tình yêu phải là vĩnh cửu… chính là Tình yêu của Chúa. Thực ra sự ám ảnh của Dostoevsky đối với Tình yêu của Chúa có một lý do đơn giản vô cùng.
Bởi trong trại giam, Kinh Thánh là ấn phẩm duy nhất được phép đọc. Việc ông được ân xá bất ngờ ngay trước giờ hành hình khiến ông coi đó là “phép màu linh thiêng.” Hiển nhiên điều đó đã khắc sâu vào tâm trí ông.
Vì những lý do này, Anh Em Nhà Karamazov là một cuốn tiểu thuyết văn học mang đậm tính Nga và là hiện thân sống của văn học Nga.
Cuộc đời của Dostoevsky chính là tổng hòa những mâu thuẫn của nước Nga.
Và Anh Em Nhà Karamazov đã phản ánh trọn vẹn cuộc đời của ông.
["Tôi tin rằng con người ta phải yêu cuộc sống hơn bất cứ điều gì khác."]
[“Hơn cả ý nghĩa cuộc đời, là yêu cuộc đời này dù có ra sao à?”]
[“Đúng thế.”]
.
.
.
["Tôi tin tưởng vào con người. Giống như tôi tin tưởng vào anh trai tôi."]
"Anh em nhà Karamazov" là tác phẩm cuối cùng và được coi là kiệt tác vĩ đại nhất trong sự nghiệp của Dostoevsky. Ông viết tác phẩm này trong những năm cuối đời (1878-1880). Anh em nhà Karamazov là một cuốn tiểu thuyết triết lý tâm lý đồ sộ, phức tạp và có sức ảnh hưởng sâu rộng đến văn học và tư tưởng thế giới.