Hai trăm bảy mươi ngày thoạt nghe tưởng dài, nhưng với Trương Hằng, quãng thời gian đó trôi qua như cát lọt kẽ tay. Mỗi ngày đều chất đầy những manh mối mới, những vụ việc kỳ lạ, và những chuyến rong ruổi khắp London cùng Holmes. Khi tâm trí luôn bị kéo căng bởi các câu đố của đời, người ta chẳng còn để ý thời gian đã vội vã thế nào.
Sau vụ án giết người hàng loạt ở Whitechapel, cậu và Holmes lại cùng nhau trải qua thêm hơn chục vụ án lớn nhỏ. Có vụ bắt đầu bằng một bức thư dọa giết được giấu trong chai rượu, kết thúc ở tận một biệt thự bên bờ sông Thames. Có vụ chỉ là mất một món nữ trang, nhưng kéo theo cả một đường dây buôn lậu đá quý xuyên biên giới. Không ít câu chuyện trong số đó đủ ly kỳ và rối rắm để, nếu viết lại, có lẽ cậu còn có cơ hội cạnh tranh ngôi vị tiểu thuyết gia trinh thám số một thời Victoria với chính Conan Doyle.
Nhưng cậu không viết. Cậu sống trong chúng.
Về sau, Trương Hằng bắt đầu tự mình xử lý một số vụ án. Ban đầu chỉ là những việc lặt vặt mà Holmes không rảnh để làm, nhưng chẳng bao lâu, cậu đã đứng mũi chịu sào ở những vụ đòi hỏi sự tỉnh táo và nhạy bén thực sự. Kỹ năng điều tra hình sự của cậu đã lên cấp lv2 nghĩa là không chỉ biết đặt câu hỏi đúng chỗ, mà còn đọc được những chi tiết người thường sẽ bỏ qua. Theo sát là kỹ năng hóa trang, nhờ những buổi “thử vai” do Holmes bày ra để cả hai có thể tiếp cận hiện trường mà không bị nhận diện.
Nhưng hóa trang giỏi thôi chưa đủ. Từ khi Irene Adler xuất hiện, Trương Hằng nhận ra mình còn thiếu một thứ quan trọng hơn: khả năng thuyết phục người khác tin vào nhân vật mình đang đóng. Irene gọi đó là “nghệ thuật diễn”.
Ban đầu, cậu không mấy hứng thú. Nhưng Irene là người không dễ từ bỏ. Nữ ca sĩ opera với ánh mắt như biết rõ mọi bí mật của người đối diện đã kiên nhẫn và đôi khi cố tình khiêu khích để kéo cậu vào những buổi “tập diễn” ngẫu hứng. Có lần, cô ép cậu đóng vai một quý ông Ý lãng mạn trong quán cà phê ở Soho, nói chuyện với cô bằng thứ tiếng Ý lơ lớ suýt làm phục vụ phá lên cười. Có lần khác, cô lại đóng vai một góa phụ giàu có, còn cậu phải giả làm người tình trẻ tuổi khao khát gia sản.
“Anh diễn như đang đọc báo cáo cảnh sát,” Irene mỉm cười, hạ giọng ngay khi cả hai vừa bước ra khỏi quán. “Nhớ nhé, Trương Hằng, đôi khi lời nói chỉ chiếm một phần nhỏ. Ánh mắt, nhịp thở, cách anh cầm ly rượu tất cả phải kể cùng một câu chuyện.”
Cậu miễn cưỡng công nhận cô nói đúng. Nhưng dù kỹ năng diễn xuất của cậu mới ở lv0, nó vẫn đủ giúp cậu có thêm vài bước đi đáng giá trong một số vụ án sau đó. Và quan trọng hơn, cậu nhận ra Irene không đơn thuần dạy cậu để cậu “giỏi hơn” mà cô đang thử thách xem cậu có thể thoát khỏi cái bóng khô khan của Holmes hay không.
Trong những ngày hiếm hoi không phải theo dấu vụ án, Trương Hằng vẫn gặp Irene. Có khi ở nhà kịch, có khi ở quán rượu nhỏ nơi cô hát không lấy thù lao chỉ vì thích khán giả ở đó. Mỗi lần, cô đều như một con mèo kiêu kỳ không bao giờ cho người khác biết liệu mình sẽ cào hay vuốt ve. Còn cậu, chẳng rõ từ bao giờ, đã quen với trò chơi đó.
Và thế là, thời gian tiếp tục trôi. Những vụ án mới, những khuôn mặt mới, những trò hóa trang bất ngờ… và cả những buổi tối ở London mà sương mù dày đến mức đèn đường trông như những đốm lửa nhỏ mắc kẹt trong thủy tinh.
Tuy nhiên, trong suốt nhiệm vụ phụ này, cậu vẫn chưa tìm được chút manh mối nào về đạo cụ.
Cho đến ngày cuối cùng, cậu và Holmes hẹn nhau ở trường đua ngựa phía ngoại ô. Bầu trời mùa thu kéo mây xám xịt, nhưng trên đường đua, những con tuấn mã vẫn tung vó, bờm bay như sóng bạc trong gió. Holmes, với đôi mắt luôn căng như dây đàn, hôm nay lại bất ngờ tỏ ra thư giãn; còn cậu, thay vì để ý kết quả trận đua, lại quan sát kỹ cách những tay kỵ sĩ điều khiển ngựa giống như một cuộc đấu trí thầm lặng giữa người và thú.
Sau khi trận đua kết thúc, cả hai bỏ mặc đám đông đang reo hò để men theo bờ sông Thames. Nước sông mùa này đục ngầu và lạnh buốt, nhưng vẫn phản chiếu ánh đèn gas vàng nhạt dọc bờ kè. Họ nói chuyện đủ thứ từ một nghệ sĩ violin đang nổi danh ở Nhà hát Nữ Hoàng cho đến những tên cướp biển ở Nassau thế kỷ XVIII, với rượu rum, thuốc súng và luật rừng.
Holmes thoáng nhướn mày khi nghe cậu kể về Nassau, ngạc nhiên vì những chi tiết mà cậu biết không chỉ chuyện hải tặc nổi tiếng nào từng ra vào cảng, mà cả các mánh khóe buôn lậu, những mưu phản và cách một thủy thủ già có thể đổi cả con tàu chỉ bằng một ván bài. Cái kiểu thông tin không có trong sách, và cũng không thể học ở trường.
Cuối cùng, họ rẽ vào một con phố nhỏ ven bến cảng. Ở đó, ánh đèn mờ hắt ra từ một quán rượu thấp lè tè, cánh cửa gỗ sẫm màu khắc đầy vết dao và những đường xước cũ kỹ. Quán nằm sát bến tàu, nơi thủy thủ cập bến sau nhiều tuần lênh đênh thường tìm đến để uống rượu, đánh bài, và giải tỏa những gì sóng gió không thể cuốn đi. Không khí bên trong dày mùi bia, khói thuốc lá, và mồ hôi, nhưng lại ấm áp một cách lạ lùng.
Holmes lập tức bị cái tật cũ kéo vào trò quan sát. Chỉ một cái liếc, anh ta đã chỉ về phía một người đàn ông để ria mép rậm rạp, đang ngồi ở bàn bên trái, khẽ nhếch mép:
“Người Scotland,” Holmes nói nhỏ, giọng như đang đọc một bản báo cáo. “Có nhiều anh em. Tốt nghiệp Đại học Edinburgh, từng làm bác sĩ trên tàu, từng tới Tây Phi. Có sở thích viết lách, và chơi giải ô chữ cũng rất giỏi.”
Trương Hằng bật cười. “Ha, lần này chúng ta không cần thi nữa. Tôi mời anh vậy.” Cậu vẫn còn hơn mười bảng Anh trong túi số tiền ấy chắc khó tiêu hết trước khi rời London, nên không ngại chi một bữa.
“Tuyệt vời,” Holmes gật đầu, môi hơi nhếch. Anh ta ra hiệu cho chủ quán, giọng vang giữa tiếng cười nói và tiếng xào xạc của quân bài: “Mang hai cốc bia tươi.”
Khi hai người tìm được chỗ ngồi, người đàn ông râu mép rậm đang chơi ô chữ bỗng kẹp tờ báo bước lại, mở lời: "Ngài Sherlock Holmes và người bạn cùng phòng phương Đông, ngài Trương Hằng, không ngờ lại gặp hai vị ở đây."
"Ngài quen chúng tôi sao?" Holmes nhướng mày.
"Dĩ nhiên rồi. Hai vị là những thám tử nổi tiếng nhất London hiện nay," người đàn ông râu ria mép cười nói. "Tôi có thể ngồi đây không?"
"Cứ tự nhiên. Có thêm người uống rượu cũng vui hơn," Holmes nói. "Tôi vẫn chưa biết tên ngài?"
"Doyle, Arthur Conan Doyle." Người kia chìa tay ra bắt, đầy nhiệt tình.
Holmes ngạc nhiên. Sau khi bắt tay, anh ta quay sang Trương Hằng: "Vậy ra đây là người bạn mà cậu đã từng nhắc đến sao?"
Nhưng anh ta lại thấy vẻ mặt Trương Hằng còn kinh ngạc hơn mình khi nghe cái tên đó.
"Đừng ngạc nhiên. Chúng tôi thực ra cũng là lần đầu gặp mặt," Conan Doyle giải thích. "Trước đây, chúng tôi chỉ liên lạc qua văn bản."
"Văn bản, là thư từ sao?" Holmes cau mày.
"Gần như vậy." Conan Doyle dừng lại rồi nói tiếp: "Lúc tôi đến, nghe nói ở Central Garden có một vụ án rất thú vị. Một quý bà bị ngất, tỉnh lại thấy ví và trang sức vẫn còn, nhưng đôi bông tai thì biến mất. Tại sao các vị không đến đó xem thử?"
"Nghe thú vị thật, đã rảnh rỗi lâu rồi, cuối cùng cũng có việc để làm," Holmes nghe vậy, mắt lóe lên sự phấn khích. Anh ta dường như đã quên mất Trương Hằng ở bên cạnh, cầm lấy gậy, đứng dậy bước ra khỏi quán rượu.
Sau đó, chủ quán mang hai cốc bia tới. Conan Doyle cầm một cốc, thở dài: "Ơn Chúa, gã đó cuối cùng cũng đi rồi. Nếu không, với khả năng quan sát biến thái của hắn, tôi không dám chắc hắn có thể nhìn ra được điều gì... Mà này, cậu có biết tôi đã lấy hình tượng một giáo sư đại học, Joseph Bell, để tạo ra Holmes không? Cách ông ấy giảng bài và khám bệnh, chỉ cần nhìn một cái là có thể biết bạn đến từ đâu, làm nghề gì. Điều đó đã tạo ra một cú sốc lớn cho tôi lúc bấy giờ. Tôi đã luôn nghĩ, nếu ông ấy làm thám tử, chắc chắn sẽ biến ngành này thành một môn khoa học chính xác.
"Dĩ nhiên, Edgar Allan Poe và Émile Gaboriau cũng đã cho tôi nhiều cảm hứng. Vị thám tử Dupin của Poe luôn là anh hùng thời thơ ấu của tôi, và lối viết lồng ghép của Gaboriau cũng cho tôi nhiều ý tưởng. Ngành văn học là như vậy, thế hệ này ảnh hưởng đến thế hệ kia, giống như ngọn lửa được truyền lại. Cậu đọc tác phẩm của người hiện đại, luôn có thể tìm thấy dấu vết của người xưa."
Conan Doyle vừa nói vừa uống một ngụm bia, rồi nói với Trương Hằng: "Cậu cũng nên thử một chút. Chỉ còn vài tiếng nữa là phó bản của cậu kết thúc rồi. Muốn quay lại London cuối thế kỷ 19 để uống một cốc bia như thế này sẽ không dễ đâu."
"Ngài rốt cuộc là ai?" Trương Hằng cuối cùng cũng lên tiếng.
"Tôi là ai?" Conan Doyle nở một nụ cười. "Tôi là những cái tên mà cậu quen thuộc. Tôi là William Shakespeare, là Alexandre Dumas, là Arthur Conan Doyle, là Neil Gaiman, và cũng là George Raymond Richard Martin."
"Thần của tiểu thuyết sao?" Trương Hằng nhướng mày, cũng uống một ngụm bia.
"Hiểu như vậy cũng không sai." Conan Doyle búng tay.
Trương Hằng nghĩ đến vị thần cổ đại Celtic mà cậu đã gặp ở phó bản Cánh Buồm Đen, và người đàn ông bí ẩn tự xưng là Einstein ở trại huấn luyện Kế hoạch Apollo, và giờ là vị thần của tiểu thuyết này. Cậu nhận ra điều gì đó, cau mày hỏi: "Vậy có phải mỗi phó bản đều có một vị thần liên quan đứng sau không?"
"Cậu có một khả năng quan sát rất nhạy bén, giống hệt người bạn cùng phòng của cậu, Holmes." Conan Doyle khen ngợi. "Như cậu thấy, tất cả các phó bản đều có hai chiều. Các cậu nhận được đạo cụ, điểm game, và kỹ năng, còn chúng tôi dùng cơ hội này để quan sát, tìm kiếm người đại diện phù hợp. Cậu có [Vô hạn tích mộc], nên điều này rất dễ hiểu. Với chúng tôi, không phải người chơi càng mạnh thì càng tốt, mà còn phải xét đến sự tương thích. Đây là một vấn đề rất phức tạp. Cậu phải cân nhắc mọi mặt để đưa ra lựa chọn có lợi nhất cho mình. Đồng thời, việc chiêu mộ người đại diện còn cần sự đồng ý của họ."
"Ngài muốn chiêu mộ tôi làm người đại diện?"
"À, về lý thuyết, đúng là chỉ khi muốn chiêu mộ ai đó làm người đại diện, tôi mới xuất hiện trước mặt họ trước khi phó bản kết thúc. Nhưng cậu là một ngoại lệ," Conan Doyle chỉ vào chiếc đồng hồ trên tay phải Trương Hằng. "Cậu đã chọn phe của mình rồi, đúng không?"
"Vậy tại sao ngài vẫn xuất hiện trước mặt tôi?" Trương Hằng hỏi, đồng thời lén đưa tay vào túi, nắm chặt con dao nhỏ.
"Đừng căng thẳng, tôi không có ác ý với cậu," Conan Doyle nhún vai. "Ngược lại, tôi và cậu còn có một mối duyên."
"Mối duyên?"
"Tôi nhận thấy gần đây cậu đang tìm kiếm thân thế của mình," Conan Doyle uống cạn cốc bia, rồi ợ một tiếng đầy thỏa mãn, đứng dậy. "Khi nào cậu tìm thấy câu trả lời, cậu sẽ cảm ơn cuộc gặp gỡ này của chúng ta."
"Khoan đã, ngài biết thân thế của tôi ư?"
Conan Doyle không tiếp tục chủ đề đó, chỉ nở một nụ cười đầy ẩn ý. "Chúng ta sẽ còn gặp lại. Giống như tất cả các nhân vật chính trong truyện đều phải đưa ra lựa chọn cuối cùng, đến lúc đó, cậu cũng sẽ phải đưa ra lựa chọn của riêng mình."
Nói xong, ông ta đặt cốc bia rỗng xuống. Trương Hằng định đuổi theo, nhưng lại phát hiện cơ thể không thể cử động. Cậu chỉ có thể trơ mắt nhìn đối phương loạng choạng bước ra khỏi quán rượu. Ánh mắt cậu cuối cùng đổ dồn vào tờ báo bị bỏ lại trên bàn, ở giữa có một chỗ lồi nhỏ.
Trương Hằng lật tờ báo lên. Bên dưới là chiếc bút máy mà Conan Doyle đã dùng để chơi trò giải ô chữ.