Không biết từ lúc nào, Trương Hằng đã sống ở London thời Victoria được tròn năm tháng.
Cậu đã dần quen với lớp sương mù dày đặc trôi lững lờ trên sông Thames mỗi sáng sớm, thứ sương mù vừa mang mùi ẩm mốc của nước sông, vừa lẫn chút khói than nặng nề từ hàng nghìn ống khói trải dài khắp thành phố. Quen cả những con phố lát đá ẩm ướt, nơi tiếng móng ngựa của xe ngựa gõ đều đều xen lẫn tiếng rao hàng lảnh lót của những gánh bán báo buổi sớm. Cũng đã quen với sự ồn ào của các sàn đấu quyền anh ngầm dưới tầng hầm quán rượu, nơi mùi mồ hôi, máu và thuốc lá quện lại thành một thứ không khí dày như đặc quánh. Và, tất nhiên, cả sự nghèo nàn đến mức bướng bỉnh của ẩm thực Anh những bữa ăn mà thịt thì nhạt, bánh thì khô, nhưng trà thì tuyệt hảo, dường như là thứ duy nhất người Anh chịu để tâm.
Về mặt khác, cậu tiến bộ khá nhanh. Kỹ năng điều tra hình sự đã đạt cấp 1 từ ba tháng trước. Kỹ năng hóa trang học muộn hơn, nhưng tháng trước cũng đã kịp nâng lên cấp 1. Cậu từng tập hàng giờ trước gương, luyện từng cái nhíu mày, từng cử chỉ nhỏ để nhập vai một cách hoàn hảo, giống hệt cách Holmes mô tả trong những câu chuyện "tìm người mất tích" mà ông ta từng xử lý. Ngoài ra, nhờ thường xuyên ở bên Irene, dưới ảnh hưởng của nữ ca sĩ với đôi mắt biết cười ấy, Trương Hằng cũng mở rộng vốn hiểu biết về âm nhạc, văn học và hội họa thế kỷ 19.
Cậu thậm chí còn học được cách thẩm định nghệ thuật một kỹ năng vẫn ở cấp 0 nhưng đã đủ để nhận ra đâu là bức tranh đáng giá và đâu chỉ là đồ sao chép vụng về. Trong vụ án bức tranh sơn dầu tháng trước, Irene đã giúp đỡ rất nhiều, nhưng cô chẳng đòi hỏi gì, cứ như quên mất chuyện ấy. Chỉ là, với một người thông minh và khéo léo như Irene Adler, cậu không tin cô thật sự quên. Cậu chỉ hy vọng, khi ngày ấy tới, yêu cầu của cô sẽ không khiến mọi thứ rối tung.
Holmes thì lại là một câu chuyện khác.
Khi mới quen, Holmes vẫn giữ vẻ lịch thiệp của một quý ông, dù thỉnh thoảng làm vài việc kỳ quặc nhưng không ảnh hưởng đến ai. Nhưng sống chung lâu ngày, giống như một cặp vợ chồng đã qua thời trăng mật, hai bên bắt đầu thấy rõ những thói quen... không mấy dễ chịu của nhau.
Holmes có một niềm đam mê vô hạn với những thí nghiệm kỳ quái. Có buổi sáng Trương Hằng tỉnh dậy, phát hiện trên bàn phòng khách là mấy lọ hóa chất lạ phát sáng mờ mờ, kèm lời nhắn viết vội: "Đừng chạm đang thử phản ứng." Một lần khác, cậu bắt gặp Holmes lén lút đưa một phần thi thể người vào nhà để "nghiên cứu cấu trúc giải phẫu", khiến bà Hudson gần như ngất xỉu ngay trước cửa. Chưa kể tới hôm anh ta thử đốt một loại hợp chất mới, suýt làm cả căn nhà trên phố Baker bốc cháy.
Cũng có những ngày cả hai không ra ngoài, Holmes sẽ biến phòng khách thành một "phòng thí nghiệm" tạm thời. Trên bàn bày đầy ống nghiệm, lọ hóa chất và những mảnh vật lạ mà anh ta đem về từ đâu đó có lần là mảnh gỗ dính máu, có lần là mẩu giấy cháy sém. Không ít lần, cậu phải cùng bà Hudson mở hết cửa sổ để tống khói độc ra ngoài, trong khi Holmes điềm nhiên như thể đó chỉ là... hơi trà bạc hà.
Bà Hudson người quản gia với sự kiên nhẫn gần như vô tận thường xuyên than phiền. "Ngài Holmes, tôi sẽ không cho ngài thuê phòng nếu biết ngài định biến nó thành phòng thí nghiệm!" Nhưng rồi, lần nào Holmes cũng bước ra, mỉm cười xin lỗi với vẻ thành khẩn đến mức khó giận lâu.
Và tất nhiên, làm sao quên được tiếng vĩ cầm của anh ta. Ban ngày, đó có thể là những bản nhạc ngẫu hứng tài tình, bay bổng đến mức khiến cả phố Baker như dịu lại. Nhưng vào nửa đêm, tiếng vĩ cầm ấy biến thành một cơn mưa âm thanh lộn xộn, vừa dồn dập vừa u ám, vang vọng khắp căn nhà, khiến Trương Hằng nhiều lần tự hỏi liệu mình có đang sống cùng một nhạc sĩ thiên tài hay một kẻ mất ngủ kinh niên.
Dù có những xích mích nhỏ, cuộc sống trên phố Baker vẫn khá dễ chịu. Bữa sáng là bánh mì đen, trứng chần và trà đen nóng bốc khói, thỉnh thoảng Holmes bỏ thêm chút câu chuyện mới từ sở cảnh sát Scotland Yard để khởi động ngày mới. Buổi chiều, khi trời đổ mưa, cậu ngồi bên cửa sổ đọc báo, còn Holmes thì lục lọi hồ sơ cũ, thi thoảng đưa ra vài câu hỏi đột ngột như thể vừa nghĩ ra manh mối cho một vụ án từ nhiều năm trước.
Và cứ như thế, giữa một London mù sương đầy mùi than, tiếng vó ngựa và những bí ẩn chưa bao giờ cạn, Trương Hằng vẫn tiếp tục sống, học hỏi và quan sát chờ xem ngày mai phố Baker sẽ lại mang đến điều gì.
Trương Hằng học được rất nhiều từ Holmes, không chỉ là những phương pháp suy luận mà còn cả những mẩu kiến thức vụn vặt, kỳ quái nhưng đôi khi lại vô cùng hữu dụng. Chẳng hạn như cách phân biệt tro tàn của hơn ba mươi loại xì gà và thuốc lá khác nhau; hay cách xác định xuất xứ của một loại vải chỉ qua sợi chỉ bị sờn trên gấu áo. Những điều này, ở thế kỷ 19, quả thực có thể giúp phá án. Nhưng cậu thừa hiểu, nếu trở lại thế kỷ 21 nơi đường phố được lát bê tông, giày dép làm bằng vật liệu tổng hợp, và camera an ninh treo khắp nơi thì phương pháp "dựa vào vết bùn trên giày để xác định nơi vừa đến" sẽ gần như vô dụng. Dù vậy, cảm giác ngồi trong căn phòng ở số 221B phố Baker, nghe Holmes giảng giải bằng giọng đều đều, đôi khi xen kẽ một nụ cười khinh khỉnh, vẫn mang lại cho cậu một sự thích thú đặc biệt.
Thực ra, cậu đã chuẩn bị tâm lý từ trước. Nhiệm vụ chính của vòng phó bản này là phá án, hơn nữa còn phải nhanh hơn Holmes trong việc tìm ra thủ phạm. Nhưng nếu cốt truyện bám sát nguyên tác, thì cậu một người đã biết trước đáp án sẽ không khó để vượt qua. Thế nhưng, cho đến giờ, điều đó lại không xảy ra.
Theo lẽ thường, Holmes và Watson lẽ ra đã xong vụ "Nghiên cứu màu đỏ" (A Study in Scarlet) vụ án đánh dấu lần đầu tiên họ hợp tác nhưng trong phó bản này, vụ án ấy chưa từng xuất hiện. Trương Hằng cũng không quá ngạc nhiên; ngược lại, cậu thấy hợp lý. Nếu mọi thứ đều rập khuôn nguyên tác, thì chẳng khác nào biến phó bản thành một bài kiểm tra kiến thức dành cho người chơi.
Tuy nhiên, một chi tiết khiến cậu không thể bỏ qua: Irene Adler đã xuất hiện. Trong nguyên tác, cô là "người phụ nữ" duy nhất mà Holmes thừa nhận là ngang tầm. Nếu kịch bản vẫn giữ nguyên vài trục chính, thì sớm muộn gì cũng sẽ đến lượt một nhân vật khác bước vào màn kịch này.
Giáo sư James Moriarty. Holmes từng gọi hắn là "Napoleon của giới tội phạm" một kẻ dựng lên cả một mạng lưới ngầm bao trùm London, đến mức một nửa số vụ án nghiêm trọng ở thành phố này đều có dính líu tới hắn. Trong nguyên tác, Doyle chỉ để lại vài đoạn mô tả ngắn ngủi, nhưng chính sự ít ỏi ấy lại khiến Moriarty trở thành một bóng đen bí ẩn khổng lồ, luôn hiện diện nhưng khó chạm tới.
Tuy nhiên, thân phận bề ngoài của hắn khá rõ ràng. Trong nguyên tác, Moriarty là một giáo sư toán học ở một trường đại học nhỏ, có tiếng trong giới học thuật. Thế nhưng, Trương Hằng đã thử dò hỏi một vài giáo sư toán học tại các hội thảo và quán cà phê trí thức không ai từng nghe tên hắn. Cuốn Dynamics of an Asteroid (Động lực học tiểu hành tinh) mà hắn được cho là tác giả cũng chẳng thấy bày bán ở bất kỳ hiệu sách nào.
Dĩ nhiên, chỉ với những bằng chứng này, không thể kết luận Moriarty không xuất hiện trong phó bản này. Trương Hằng vẫn luôn cảnh giác với tên trùm tội phạm này.
Nhưng Trương Hằng và Holmes không biết rằng, đúng lúc này, một vụ án khác lại đang lặng lẽ tìm đến họ.
Chiều hôm đó, Trương Hằng và Holmes ngồi trên một chiếc ghế dài trong công viên, vừa ăn sandwich vừa chơi một trò chơi nhỏ mà cả hai thường chơi gần đây.
Trương Hằng chống cằm, nhìn một phụ nữ quý tộc đang dắt chó đi dạo. "Đã kết hôn, không nghi ngờ gì. Đã có ít nhất hai đời chồng, có con. Cuộc sống hiện tại không tốt như vẻ ngoài. Cực kỳ thích trang sức, nhưng lại keo kiệt với người hầu. Thực tế thì không thích động vật, nuôi chó chỉ vì mọi người đều nuôi, tiện thể tìm việc cho cô hầu không thích làm. Hút thuốc, thỉnh thoảng uống rượu. Gần đây có tham gia một buổi vũ hội."
"Bổ sung, đứa con của cô ta đã chết," Holmes nói.
"Hả?"
"Tôi rất vui vì cậu để ý cô ta đã lấy kẹo ra cho những đứa trẻ bên đường. Thông thường, chỉ những người có con mới thường xuyên mang theo kẹo. Nhưng nếu cậu nhìn vào ánh mắt cô ta khi nhìn những đứa trẻ đó, cậu sẽ thấy ngoài sự yêu thương còn có một chút ghen tị. Hơn nữa, cô ta gần như mỗi tuần đều đến công viên này để phát kẹo cho những đứa trẻ. Nếu cậu có con và đứa trẻ vẫn còn sống, tin tôi đi, cậu sẽ không quan tâm đến con của người khác đến vậy."
"Anh gian lận rồi. Anh đã gặp mục tiêu từ trước," Trương Hằng nói.
"Không, đây là kinh nghiệm," Holmes lắc đầu. "Tôi thường đến công viên này, nên tôi có những kinh nghiệm liên quan. Mọi suy luận đều dựa trên kinh nghiệm. Cậu không thể bắt tôi từ bỏ mọi kinh nghiệm của mình để suy luận. Người bạn phương Đông của tôi à."
"Được rồi, người tiếp theo."
Holmes chỉ vào một người đàn ông không xa. "Thư ký, có vợ, là thành viên của Hội Tam điểm, từng đến Trung Quốc. Chiếc tẩu thuốc có ý nghĩa đặc biệt với anh ta. Anh ta biết đá bóng và từng phục vụ trong Hải quân."
"Mấy ý đầu không có vấn đề. Tôi cũng thấy anh ta từng ở Hải quân. Anh ta biết đá bóng là vì nãy anh ta đứng xem đám trẻ chơi bóng phải không?"
"Không chỉ vậy. Lần trước quả bóng lăn đến chỗ anh ta, anh ta tâng bóng hai nhịp, trông cũng không tệ. Nhưng khi đó cậu đang bận chia sandwich nên không thấy."
"Vậy còn chiếc tẩu, tại sao nó lại có ý nghĩa đặc biệt?"
"Rõ ràng mà, bạn của tôi," Holmes cười. "Chiếc tẩu đó chỉ có giá sáu, bảy shilling, nhưng phần sửa chữa lại dùng một chiếc vòng bạc, giá còn đắt hơn cả chiếc tẩu. Người bình thường có số tiền đó, họ sẽ mua một chiếc tẩu mới, đúng không nào?"