Translator: Kouji
✫ ✫ ✫
Tu——
Tiếng còi tàu vang vọng khắp các ngóc ngách sân ga, đầu máy xe lửa hơi nước đồ sộ như quái thú đang kéo theo hơn hai mươi toa tàu chậm rãi dừng lại.
Với bộ lễ phục đuôi én chỉn chu, đầu đội mũ chóp lụa nửa cao, tay xách chiếc vali cồng kềnh so với dáng người, Klein đĩnh đạc đặt chân xuống vùng đất Backlund, thủ đô của Vương quốc Loen.
Thành phố này bị cắt chéo thành hai phần bởi sông Tussock trước khi nó đổ ra biển theo hướng đông nam. Hai bờ được nối liền bằng cầu Backlund và phà. Với dân số hơn năm triệu người, đây là đô thị sầm uất nhất lục địa Bắc-Nam.
Klein phóng tầm mắt đến đâu cũng chỉ thấy sương mù vàng nhạt giăng khắp chốn. Tầm nhìn rất hạn chế. Những ngọn đèn khí đốt treo khắp sân ga đã sớm được thắp lên, xua đi phần nào bầu không khí ảm đạm tăm tối.
“Mới có sáu rưỡi thôi à? Trông cứ như chín hay mười giờ ấy…”
Klein hơi lắc đầu, chợt nhớ đến một mẩu chuyện cười mà anh từng đọc trên tờ Báo Tussock. Một quý ông vừa mới đến Backlund thì bị lạc trong màn sương mù dày đặc. Không còn cách nào khác, ông ta đành hỏi một người ướt sũng đi ngang qua, “Xin hỏi đường nào đến sông Tussock vậy?” Người kia thân thiện trả lời, “Cứ đi thẳng, đừng dừng lại. Tôi vừa bơi từ đó lên.”
Mở bất kỳ tờ báo hay tạp chí nào của Backlund, ta đều có thể bắt gặp cảnh đám phóng viên và biên tập viên tìm đủ mọi cách để chế giễu chuyện ô nhiễm không khí và hiện tượng sương mù ngày một tăng ở đây. Ngày trước, tờ Nhật Báo Backlund từng làm hẳn một bài thống kê chỉ ra rằng số ngày có sương mù đã tăng từ khoảng 60 ngày mỗi năm cách đây ba mươi năm lên tới 75 ngày như hiện tại. Vì chuyện này, nhiều người có tầm nhìn xa đã thành lập 'Hiệp hội Giảm khí thải Than đá', 'Hiệp hội Giảm phát thải Khói', và các tổ chức tương tự. Nghe đâu trong số các dự luật tháng Chín năm nay sẽ có bản đề xuất thành lập 'Ủy ban Điều tra Ô nhiễm Không khí của Vương quốc'…
Klein đặt chiếc vali to tướng xuống đất, bóp nhẹ sống mũi để xua tan cảm giác khó chịu vừa ập đến. Anh lần theo dây chuyền vàng, lấy chiếc đồng hồ quả quýt vàng từ túi gi-lê ra, bấm nắp đánh 'tách' một tiếng rồi liếc mắt xem giờ.
Sau khi thực sự từ biệt anh trai và em gái, Klein đã dành hẳn một khoảng thời gian ghé qua cửa hàng bách hóa, sắm một chiếc đồng hồ quả quýt vàng giá 4 Bảng 10 Soli, cùng với một sợi dây xích vàng giá 1 Bảng 5 Soli. Với anh, việc không nắm chính xác thời gian có thể khiến anh rơi vào trạng thái hoảng loạn.
Ban đầu, Klein định mua chiếc đồng hồ quả quýt bạc vì thấy nó hợp với tính cách mình. Nhưng rồi, khi nghĩ đến bản chất thực sự của 'Tên Hề', anh bèn đổi sang chiếc đồng hồ vàng phô trương và lòe loẹt hơn.
“Sáu giờ ba mươi chín phút… Cũng không muộn cho lắm…” Anh nhét chiếc đồng hồ quả quýt vào túi, cầm gậy chống và vali, thủng thỉnh đi theo dòng người rời khỏi nhà ga tàu hơi nước.
Thình lình, anh rẽ ngoặt, khiến kẻ âm thầm bám đuôi và toan thò tay vào túi anh chỉ chộp được không khí.
Klein không để tâm tới sự cố nhỏ này. Anh thản nhiên rảo bước trên con đường xi măng, len lỏi giữa biển người đông đúc, hướng về ngã tư phía trước.
Ở đó, giữa ngã tư, có một cây cột cao vút như ống khói được bao quanh bởi bãi cỏ và vườn hoa.
“Không, có khi là ống khói thật…” Klein thấy đỉnh cột phun ra khói dày đặc. Một phần khói bay lên không, phần còn lại hóa thành những hạt nước li ti rải xuống xung quanh.
Klein dừng bước một lần nữa, đặt vali xuống, giở tờ báo cùng bản đồ đang cầm trong tay còn lại ra.
Trong lúc di chuyển trên chuyến tàu hơi nước, anh đã lên kế hoạch cho việc đi đâu và làm gì tiếp theo.
Những trải nghiệm gần đây cùng cảm xúc khi đóng vai tên hề vào buổi sáng đã giúp Klein lĩnh hội chân lý của 'Tên Hề'. Đó chính là 'dù ta có thể thoáng thấy vận mệnh, nhưng vẫn bất lực trước nó, nên đành dùng nụ cười để che giấu mọi nỗi buồn, đau khổ, hoang mang và chán chường'. Vào khoảnh khắc ấy, anh đã cảm nhận rõ dấu hiệu tiêu hóa ma dược 'Tên Hề'. Nếu tiếp tục nhập vai theo cách này, anh tin chẳng bao lâu nữa mình có thể thử thăng cấp.
Vấn đề là anh thậm chí không biết ma dược tương ứng với Danh Sách 7 có tên gọi là gì, chứ đừng nói đến công thức cụ thể.
“Làm thế nào để tìm được công thức pha chế đây? Hội Mật Tu hiếm khi lộ diện. Chúng dường như chỉ quan tâm đến những vật phẩm của gia tộc Antigonus. Đây cũng là lý do ít người biết về chúng…
“Ừm, có thể cân nhắc hai hướng. Một là tiếp cận giới Phi Phàm ở địa phương để tìm manh mối; hai là chủ động đặt bẫy, dùng báu vật của gia tộc Antigonus làm mồi nhử người của Hội Mật Tu. Dù sao mình cũng đang nắm giữ biểu tượng con mắt quái dị với đồng tử dọc được cấu thành từ vô số ký hiệu thần bí kia.
“Mà làm vậy thì mạo hiểm quá. Mình nhất định phải cẩn thận. Mồi nhử không được quá dở hay quá ngon. Dở quá thì bọn chúng sẽ chẳng thèm ngó ngàng. Ngon quá thì khéo câu được cả Megalodon, cái con có thể nuốt chửng mình chỉ bằng một cú đớp ấy…
“Thủ lĩnh Hội Mật Tu Zaratul là người chỉ đạo Roselle Đại đế. Biết đâu ông ta đã giành được miếng bánh to nhất trong bữa tiệc thay đổi thời đại kia... Cơ mà, chuyện đó xảy ra vào hai trăm năm trước, có khi ông ta đã chết rồi cũng nên…”
Trong mớ bòng bong những suy nghĩ đó, Klein không khỏi rùng mình trước cái lạnh thấu xương của Backlund. Anh quyết định tìm một chỗ ở càng sớm càng tốt.
Anh lật tờ báo, một lần nữa lướt qua mục cho thuê nhà và thấy mẩu quảng cáo mà mình đã khoanh tròn trước đó: “Số 15 phố Minsk, quận Cherwood... nhà liên kế... giá thuê 18 Soli một tuần...”
Klein đã cân nhắc đi cân nhắc lại rất nhiều lần về chỗ ở tương lai.
Dù Backlund có tới hơn năm triệu dân, anh vẫn cần đề phòng khả năng đụng độ với những Kẻ Gác Đêm địa phương. Dù là Daly mới được điều đến, hay Lorotta, Aiur Harson và Borgia vốn là người ở đây, ai trong số họ cũng có thể nhận ra anh ngay tức khắc.
Vì thế, Klein loại trừ quận Bắc, nơi có nhà thờ Thánh Samuel, trụ sở chính của giáo phận Backlund thuộc Giáo hội Nữ Thần Đêm Đen. Anh cũng loại bỏ quận Hoàng Hậu và quận Tây, hai khu vực không chỉ có an ninh tốt nhất mà còn được giám sát chặt chẽ nhất. Cả hai quận này đều là nơi sinh sống của giới quý tộc và những nhà tài phiệt hàng đầu. Tất nhiên thì quý tộc có xu hướng tập trung ở quận Hoàng Hậu hơn.
Tiếp tục loại trừ các khu công nghiệp, khu bến cảng, khu dân nghèo như quận Đông và cầu Backlund, Klein còn rất ít địa điểm để lựa chọn. Đầu tiên là khu Hillston, nơi đặt Sở giao dịch chứng khoán Backlund, Phòng thanh toán bù trừ, Trung tâm giao dịch hàng hóa phái sinh, hội sở của bảy ngân hàng lớn, các quỹ tín thác, các công ty đường sắt, các Công ty thương mại hàng hóa tập trung. Nơi đây được biết đến như trung tâm kinh tế, thương mại và tài chính của Vương quốc Loen; hai là quận Cherwood, nơi tập trung nhiều công ty nhỏ và khu dân cư đông đúc. Hai quận này luôn tấp nập kẻ đến người đi, trật tự an ninh tương đối tốt, là nơi lý tưởng để ẩn mình.
Nghĩ tới nghĩ lui, Klein quyết định chọn quận Cherwood vì tiền thuê nhà ở đây rẻ hơn.
Sở dĩ anh không tìm đến những tổ chức như "Hiệp hội Cải thiện Nhà ở Đô thị" hay "Công ty Cải thiện Nhà ở cho Tầng lớp Lao động Đô thị" là bởi những nơi này yêu cầu một số giấy tờ tùy thân mà hiện tại anh không thể cung cấp.
“Nếu hôm nay không thuê được nhà thì mình sẽ kiếm đại một nhà nghỉ nào đó không cần xuất trình giấy tờ tùy thân vậy…” Klein gấp tờ báo lại, nhấc vali lên, đi về phía một nơi trông giống như lối vào cửa hàng bách hóa theo chỉ dẫn trên bản đồ.
Đó chính là lối vào nhà ga tàu điện ngầm Backlund.
Đúng vậy, tàu điện ngầm!
Lần đầu bắt gặp cụm từ 'tàu điện ngầm' trên báo và tạp chí, Klein thực sự sửng sốt. Anh không ngờ phương tiện giao thông này đã trở thành hiện thực trong thời đại mà điện vẫn chưa phổ biến.
Nó ra đời cách đây hai mươi lăm năm. Tuyến đầu tiên vốn chỉ nối liền hai bờ sông Tussock, nhưng giờ đã mở rộng ra các khu vực trọng điểm của thành phố. Tất nhiên thì số trạm vẫn còn khá ít.
Klein bước qua cửa chính, đi theo dòng người hướng về quầy bán vé. Sau vài phút xếp hàng, anh cuối cùng cũng nhìn thấy cô nhân viên bán vé có mái tóc vàng hoe óng ả.
Vào giờ cao điểm (7-9 giờ sáng và 6-8 giờ tối) cứ mười phút một chuyến tàu, các giờ khác thì mười lăm phút một chuyến. Vé hạng nhất 6 Penny, hạng nhì 4 Penny, hạng ba 3 Penny. Vé khứ hồi lần lượt là 9, 6, 5 Penny; vé thường niên hạng nhất 8 Bảng, hạng nhì 5 Bảng 10 Soli, còn hạng ba không có thường niên.
Rẻ hơn mình tưởng… Lại còn không giới hạn khoảng cách nữa… Melissa chắc chắn sẽ thích cái này hơn xe ngựa. Dù sao đây cũng là kết tinh của cơ khí mà… Nghĩ đến những điều đó, Klein chợt thấy lòng se lại.
Anh nở nụ cười tươi rói, lấy ra 4 Penny và đưa cho người bán vé, “Vé hạng nhì.”
Người bán vé xé một tờ vé, đóng dấu “cộp” một cái rồi đưa cho Klein.
Sau khi tìm được tuyến đến quận Cherwood và vượt qua cửa kiểm tra không mấy nghiêm ngặt, Klein đi xuống cầu thang, nhanh chóng đến sân ga, rồi theo chỉ dẫn trên mặt đất tìm khu vực ghế hạng nhì.
Tu, tu, tu!
Chẳng bao lâu sau, anh nghe tiếng còi hơi nước vang rền như sấm, thấy đầu máy xe lửa khổng lồ mang theo sức mạnh dữ dội lao qua ánh sáng của những ngọn đèn khí đốt hai bên rồi từ từ dừng lại với âm thanh xình xịch. Hình dáng khổng lồ, thân hình ngoằn ngoèo, sắc đen sáng bóng cùng máy móc phức tạp đã hòa trộn với nhau tạo nên một vẻ đẹp độc đáo.
Tàu điện ngầm Backlund vẫn dùng đầu máy xe lửa hơi nước. Khói sẽ đi vào một cái ống được thiết kế đặc biệt ở bên trên trước khi thoát ra ngoài. Đây cũng chính là “công dụng thực sự” của bãi cỏ và vườn hoa ở giữa đường.
Trong tiếng kim loại ma sát, Klein đợi cho các hành khách xuống hết rồi mới chậm rãi xách gậy và hành lý lên tàu, đưa vé cho tiếp viên kiểm tra.
Khác với ghế hạng ba, ghế hạng nhì là loại ghế đơn, nên không sợ bị ai giành mất.
Klein vừa ngồi xuống, cất gọn vali, tựa vào gậy thì nghe được tiếng bước chân hối hả. Anh vô thức ngoảnh đầu về phía cửa, thấy một cậu bé gầy nhom có khuôn mặt non nớt bước nhanh vào toa.
Cậu bé mặc chiếc áo khoác cũ kỹ không hợp tuổi, đội mũ tròn, vai đeo túi rách, đầu cúi gằm.
“Xin lỗi ạ. Con lên nhầm toa. Con đi vé hạng ba…” Cậu ta chìa vé ra, xin lỗi người tiếp viên rồi vội vã bước về phía toa hạng ba.
Klein rời mắt khỏi cậu ta, xác nhận lại điểm đến một lần nữa, chờ cửa toa khép lại.
Đúng lúc ấy, anh nghe được tiếng chân vừa dồn dập vừa hỗn loạn, thấy vài người đàn ông mặc áo khoác đen, đội mũ chóp cao xông vào toa tàu.
Đuổi theo nhóc mười lăm mười sáu tuổi kia à? Trực giác Klein đánh hơi thấy điều gì đó. Anh khẽ lắc đầu, tiếp tục xem tờ báo và tấm bản đồ, trông chẳng khác gì những hành khách khác trên toa.
“Mầy có thấy thằng nhãi mười mấy tuổi nào không? Cái thằng mặc cái áo khoác cũ ấy!” Một trong những gã vừa vọt vào toa hung hăng hỏi người tiếp viên.
Klein liếc nhìn đối phương qua khóe mắt. Thân hình có phần gầy gò nhưng cứng cáp, nước da ngăm đen như được nhuộm bởi cái nắng gay gắt của biết bao mùa hè, hốc mắt trũng sâu hơn hẳn so với người dân bình thường ở Vương quốc Loen.
Dân vùng cao à? Hay máu lai? Anh vừa nghĩ vừa gật nhẹ.
Nằm ở trung tâm Lục địa Bắc, nơi khởi nguồn của dãy Hornascis, là một vùng cao nguyên có khí hậu khô cằn. Phần lớn vùng đất này thuộc về Vương quốc Feynapotter, khu vực phía Tây nằm dưới quyền quản lý của Cộng hòa Intis, còn vùng phía Đông bị Vương quốc Loen chiếm giữ. Dân vùng này tuy gầy gò và man rợ, nhưng vô cùng dũng cảm và thiện chiến. Đây từng là một trong những vấn đề nan giải nhất mà ba quốc gia phải đối mặt suốt nhiều năm. Tuy nhiên, trước sự phát triển của thuốc súng cùng những thay đổi trong cách thức chiến tranh, những người dân vùng cao cuối cùng đã nhận ra thực tế và chấp nhận quy phục. Đa phần rời bỏ cao nguyên, đổ về Backlund, Trier, Feynapotter, các thành phố sầm uất và bến cảng khắp Lục địa Bắc. Kẻ thì trở thành công nhân, người thì gia nhập băng đảng địa phương. Chúng dám đánh người, dám giết người và sẵn sàng gây họa lớn.
Tiếp viên tàu là một thanh niên đôi mươi. Trước câu hỏi này, anh ta co rúm người lại và chỉ về phía toa hạng ba, “Tôi thấy… nó chạy theo hướng đó.”
Gã cầm đầu mặc một chiếc áo khoác đen, đội một chiếc mũ chóp nửa cao hơi gật đầu, dẫn theo đàn em xông đến toa hạng ba, chẳng thèm bận tâm đến các hành khách khác.
Klein vừa đọc báo vừa thả trôi suy nghĩ: Nếu mình là thằng nhóc đó thì mình đã xuống tàu từ toa hạng ba rồi…
Khoảng một phút sau, tàu kéo còi, cửa toa khép lại.
Xình xịch, xình xịch! Tàu điện ngầm hơi nước bắt đầu tăng tốc. Ngay lúc đó, Klein chợt có linh cảm, bèn ngẩng đầu nhìn về phía cánh cửa dẫn đến các toa hạng nhì khác.
Cậu nhóc chừng mười lăm mười sáu tuổi, khoác chiếc áo cũ sờn, đội chiếc mũ chóp tròn, vai mang túi vải rách nát ban nãy chậm rãi bước vào toa. Gương mặt non nớt với đường nét thanh tú, đôi mắt đỏ tươi ánh lên vẻ nghiêm nghị và trầm lắng.
“…Được đấy. Xuống tàu ở toa hạng ba rồi vòng lại lên từ toa hạng nhất? Sợ đồng bọn của đám người săn đuổi đứng chờ sẵn bên trong nhà ga à?” Klein hơi ngạc nhiên. Cách xử lý tình huống của cậu nhóc này cho thấy sự chín chắn và cẩn trọng, thậm chí vượt xa nhiều kẻ đã ngoài hai mươi.
Anh khẽ chạm răng hàm trái, âm thầm kích hoạt linh thị quét qua người cậu nhóc. Đối phương đang mệt mỏi, căng thẳng và chán nản, nhưng vẫn giữ được màu xanh lam, tượng trưng cho sự bình tĩnh và tỉnh táo.
Ấn tượng thật… Tuổi còn trẻ mà… Klein thầm lẩm bẩm rồi cúi đầu tiếp tục đọc báo.
Không hay biết mình vừa bị một Kẻ Phi Phàm dò xét từ đầu đến chân, cậu nhóc thủng thẳng tiến về phía toa hạng ba.
Chặng đường còn lại trôi qua êm đềm. Hơn hai mươi phút sau, Klein đặt chân đến một trong ba ga tàu điện ngầm tại khu Cherwood. Anh tiếp tục ngồi xe ngựa thuê thêm gần mười phút nữa mới tìm thấy phố Minsk. Theo mô tả trên báo, anh đến số nhà 17, nằm cạnh số 15, rồi kéo chuông cửa.
Cúc cu! Cúc cu!
Tiếng chuông vang vọng trong căn nhà. Từ trên cánh cửa, một con chim cơ khí to bằng bàn tay thò ra. Nó được ghép từ bánh răng và đủ loại linh kiện, hình dáng chẳng mấy bắt mắt. Cái đầu không ngừng gật gù và phát ra tiếng cúc cu liên hồi.
Món đồ chơi này khá thú vị... chỉ có điều làm hơi ẩu thôi... Klein thầm nhận xét với thái độ khách quan.
Mười mấy giây sau, cánh cửa gỗ tối màu được mở ra. Một cô hầu trẻ mặc đồ trắng đen nhìn Klein bằng ánh mắt dè chừng và hỏi, “Anh cần gì ạ?”
Klein mỉm cười, giơ tờ báo đang bọc đầu gậy lên và nói, “Tôi đến tìm bà Sammer để thuê nhà. Tôi nghĩ nhà vẫn chưa có ai thuê phải không?”
Trên tờ báo ghi tên đầy đủ là Stelyn Sammer.
“Dạ chưa. Xin anh đợi cho một lát.” Cô hầu cúi người lịch sự.
Cô vội vã bước vào trong để báo tin cho bà chủ. Một lát sau, cô quay lại, dẫn Klein vào nhà. Sau đó, cô giúp anh đặt cây gậy và chiếc va li ở tiền sảnh, rồi treo áo khoác cùng mũ lễ của anh lên giá treo gần đó.
Làn hơi ấm phả vào mặt, xua tan cái lạnh trên người Klein. Anh đảo mắt nhìn quanh. Thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt là chiếc lò sưởi có kết cấu độc đáo, những mảng màu đỏ bên trong và những cục than không khói đang cháy.
Phòng khách nhà Sammer rất rộng, gần bằng cả tầng một nhà Moretti. Một vài khu vực được trải thảm và treo những bức tranh sơn dầu phong cảnh.
Cô hầu dẫn Klein đến khu vực sofa và thưa với bà chủ đang mặc chiếc váy vàng nhạt, “Thưa bà, khách đến ạ.”
Bà chủ nhà khoảng ba mươi tuổi, có mái tóc vàng và đôi mắt xanh, dung mạo xinh đẹp được chăm chút kỹ lưỡng, tay cầm chiếc quạt lông vũ khảm bạc kiểu cung đình. Do đang ở nhà cùng với bầu không khí ấm áp từ lò sưởi, bà ta không mặc trang phục cổ cao.
“Chào bà, bà Sammer.” Klein áp một tay lên ngực và cúi chào.
Bà Sammer cười dè dặt, “Chào buổi tối. Mời ngồi. Anh dùng cà phê hay trà?”
Klein ngồi xuống ghế sofa dài, thản nhiên nói, “Trà, cảm ơn.”
“Julianne, trà Hầu tước.” Bà Sammer ra lệnh cho người hầu trước khi lia mắt sang bên cạnh. “Tôi nên gọi anh là gì?”
“Sherlock Moriarty. Cứ gọi tôi là Sherlock.” Klein đã nghĩ sẵn một cái tên giả rồi.
Ngay lúc ấy, anh ngửi thấy mùi hương từ nhà bếp, chú ý đến hệ thống đường ống phức tạp ở đó.
“Ha ha, đây là thiết kế của chồng tôi. Dù công việc chính là quản lý ở công ty Coim, ổng lại là một người đam mê cơ khí. Ổng cũng là thành viên của Hiệp hội Giảm khí thải Than đá của vương quốc đấy.” Nhận thấy ánh mắt của Klein, bà Sammer mỉm cười giải thích.
Thưa bà, không cần phải nói chi tiết thế đâu. Tôi đâu có đến đây để coi mắt với chồng bà… Klein thầm chế giễu, nhưng vẫn giữ nụ cười trên môi và nói, “Bà Sammer, tôi muốn thuê căn hộ số 15.”
Bà Sammer thẳng lưng, ngồi duyên dáng rồi mỉm cười nói, “Vậy thì tôi phải nhắc anh trước về một vài điều. Căn hộ số 15 không có những đường ống như thế này. Nó cũng không có ghế bành, bàn đánh bài, tủ bếp bằng gỗ gụ, đồ sứ cao cấp, dao dĩa bạc, bộ ấm trà mạ vàng hay thảm trải nhà tháo rời được…”
Bà ta chỉ vào những thứ trong nhà, giới thiệu từng món một, rồi nói thêm, “Trước đây chúng thuộc về chị gái và anh rể tôi. Nhưng do làm ăn thất bại, anh rể tôi đành phải đưa cả gia đình chuyển đến Lục địa Nam, nơi họ có một đồn điền ở Balam. Nhưng tôi không đồng ý với quyết định đó. Như thế quá bất công với những đứa cháu trai, cháu gái tội nghiệp của tôi. Ở chốn ấy làm gì có trường học tử tế, ngay cả một gia sư giỏi cũng hiếm có khó tìm!”
Thưa bà, đây không phải những điều tôi muốn biết... Klein thành tâm gật đầu và nói, “Nếu không tính đến thời tiết, thì chẳng có nơi nào ở Lục địa Nam có thể sánh được với Backlund.”
Bà Sammer tỏ ra hài lòng với lời đồng tình của anh, hơi đảo mắt và nói, “Hợp đồng thuê căn đó vẫn còn ba năm. Tôi muốn anh đóng tiền thuê nhà một lần cho cả năm. Mỗi tuần là 18 Soli, dùng đồ đạc thì thêm 1 Soli. Tôi sẽ lấy một khoản đặt cọc nho nhỏ nữa. Tổng cộng là 50 Bảng.”
Klein lắc đầu, cười bảo, “Thưa bà Sammer, như bà đã thấy, tôi vừa mới đến Backlund. Tôi không biết sẽ gặp phải chuyện gì trong thời gian tới. Trả một lúc 50 Bảng sẽ làm giảm khả năng ứng phó với rủi ro của tôi. Tôi chỉ có thể trả trước tối đa nửa năm, 25 Bảng.”
Anh tính thuê thêm một căn phòng khác ở quận Đông Backlund để thay quần áo, hóa trang và xóa dấu vết. Đây là bước chuẩn bị không thể thiếu cho những việc anh định làm sau này.
Stelyn Sammer khẽ gật đầu, hỏi, “Anh từng học ở trường văn pháp à?”
Klein bật cười và nói, “Đúng vậy, về sau tôi tự học thêm lịch sử.”
“Anh có mang theo giấy tờ tùy thân không?” Stelyn thuận miệng hỏi.
“Ngại quá, tôi rời nhà vội quá nên quên mang theo. À à, nãy tôi quên tự giới thiệu, tôi là người hạt Gian Hải.” Klein cố tình bắt chước cách nói chuyện thường ngày của người bạn học Welch.
Vừa thốt ra từ "quên", anh lập tức nhớ đến đội trưởng Dunn Smith, khiến nụ cười trên mặt càng thêm rạng rỡ.
Lúc này, cô hầu Julianne bưng một tách hồng trà đến. Chiếc tách làm từ sứ men trắng tinh với những hoa văn cổ điển, một số chỗ được dát vàng.
Klein nhấp một ngụm, cảm nhận hương vị vương vấn cùng vị chua ngọt hài hòa, ngon hơn hẳn loại trà Sibe mà anh thường uống.
“Trà Hầu tước chính hiệu.” Anh khen ngợi bằng một lời mà chẳng ai bắt bẻ được.
Bà Stelyn Sammer hơi cong môi, nói, “Vậy thì chúng ta thống nhất thuê nửa năm nhé. 25 Bảng.”
Klein nói lời cảm ơn rồi tán gẫu vài câu cho đến khi một cô hầu khác mang bản hợp đồng mẫu từ thư phòng ra.
Ký xong hợp đồng, Klein xót ruột đếm đủ 25 Bảng tiền mặt rồi đẩy số tiền về phía bà Sammer.
Stelyn xòe tiền ra đếm thầm một lượt, đoạn hơi nâng cằm lên và nói, “Anh Moriarty, tôi đoán anh định tìm việc ở Backlund phải không?”
“Đúng vậy.” Klein trả lời, giọng có phần bối rối.
Khóe miệng Stelyn cong lên, “Tôi có vài lời khuyên cho anh đây. Với mức lương mỗi tuần chưa đến 3 Bảng thì khó mà sống nổi ở quận Cherwood này. Tiền thuê nhà, tiền ăn, tiền nước, tiền khí đốt, tiền than, tiền đi lại, và đủ thứ khác cộng lại cũng tốn ít nhất 2 Bảng 5 Soli. Tin tôi đi, đây là Backlund đấy. Còn phải tính đến cả quần áo mới, dao dĩa tốt, bộ ấm trà tử tế nữa chứ… Lương mỗi tuần 3 Bảng là mức tối thiểu rồi.”
“Nếu lương tuần của anh đạt tới 5 Bảng, thì anh có thể thuê một hầu gái. 6 Bảng thì có thể nghĩ đến việc thuê đầu bếp. 7 Bảng thì thêm một hầu nam. 8 Bảng thì thuê thêm một cô hầu gái khác…”
Bà Sammer, bà đang khoe của đấy à… Hồi trước tôi từng kiếm được hơn 10 Bảng một tuần ấy chứ… Klein vẫn giữ nụ cười trên môi khi lắng nghe chăm chú.
Đúng lúc này, cửa bỗng mở ra. Một người đàn ông vạm vỡ, mặc áo đuôi tôm hai hàng cúc màu đen, đeo găng tay da cùng màu bước vào. Trên môi ông ta là một bộ ria mép gọn gàng, bảnh bao.
“Luke, đây là anh Moriarty, giờ anh ấy là hàng xóm của chúng ta.” Stelyn Sammer tiến lên đón chào và giới thiệu.
Chủ nhà Luke cởi áo khoác rồi đưa cho người hầu nam theo sau, vừa mỉm cười lịch sự vừa nói, “Anh Moriarty, mời anh ở lại dùng bữa tối cùng gia đình chúng tôi nhé?”
Đây là cái gã quản lý ở công ty Coim, thành viên của Hiệp hội Giảm khí thải Than đá đấy à… Klein mỉm cười đáp, “Rất tiếc, ông Sammer ạ. Tôi đã ăn trên tàu rồi, mà cái vị đó thì quả thật là khó quên.”
Sau vài câu chào hỏi xã giao, Klein theo chân Julianne rời khỏi nhà Sammer, tiến vào căn hộ số 15 kế bên.
Cách bố trí rất giống với căn nhà bên cạnh. Tầng một có một phòng khách rộng thênh thang, một phòng ăn lấy sáng tốt, hai phòng phụ dành cho khách, một phòng vệ sinh, một tầng hầm và một nhà bếp kéo dài đến tận phía sau. Trên tầng hai có bốn phòng ngủ, một phòng sinh hoạt chung, một phòng phơi nắng, một phòng đọc sách, hai phòng tắm và một ban công rộng rãi.
“Bà chủ nói anh có thể cho thuê bớt một phần, nhưng không được cho công nhân thuê hay khiến chỗ này trở nên quá đông đúc và ồn ào. À… lát nữa tôi sẽ mang chăn, ga, gối sạch cho anh nhé.” Julianne nói trước khi quay về nhà Sammer.
Hoàn tất việc dọn dẹp, Klein cuối cùng cũng có chỗ ở ổn định tại Backlund.
Ngồi trong phòng khách trống trải, anh đột nhiên cảm thấy cô đơn. Thế là, anh ép mình phải suy nghĩ về những gì sẽ làm trong tương lai.
Dù anh có muốn hay không, việc báo thù và thăng cấp không phải là những điều có thể làm trong một sớm một chiều. Thế nên anh phải kiếm một công việc có thu nhập ổn định để tránh khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, công việc đó không được gò bó anh, không được ảnh hưởng đến hành động và kế hoạch của anh. Nói cách khác, nó phải có đủ tự do.
Sau một hồi cân nhắc và loại bỏ những công việc không phù hợp, Klein chỉ còn ba lựa chọn —
Một là trở thành nhà văn bằng cách sao chép tác phẩm của người khác. Song, với thân phận nhạy cảm hiện tại, danh tiếng chỉ mang đến hiểm họa chết người. Thế nên, anh đành tiếc nuối gạt bỏ ý định ấy.
Hai là làm phóng viên báo chí. Đây được xem là một công việc khá tử tế trong thời buổi này. Tuy nhiên, ứng tuyển phóng viên lại yêu cầu bằng cấp học vấn và các giấy tờ khác. Vì thế, Klein chỉ có thể bó tay.
Cuối cùng, anh chọn nghề thứ ba — Thám tử tư! Đây là lý do anh đặt ra cái tên giả như vậy.
.
Buổi sáng đầu tiên của Klein tại Backlund bắt đầu với sương mù nhạt màu, bầu trời có tầm nhìn hạn chế, không khí lạnh lẽo ẩm ướt, một lít trà rẻ tiền giá 1 Penny cùng hai lát bánh mì nướng phết bơ chất lượng kém.
Anh tất bật suốt cả buổi sáng. Đầu tiên là đến trụ sở Báo Bưu Điện Backlund ở quận Cherwood, chi 30 bảng để đặt một mẩu quảng cáo nhỏ có thời hạn một tháng.
Bắt đầu từ thứ Ba, độc giả trung thành của tờ Bưu Điện Backlund sẽ thấy một thông báo nhỏ nằm ở nếp gấp giữa trang bảy và tám: Sherlock Moriarty, thám tử tư am hiểu xử lý mọi vấn đề, tính phí hợp lý, cam kết bảo mật tuyệt đối, cư trú tại số 15 phố Minsk, quận Cherwood.
Lý do Klein không chọn mấy tờ báo lớn như Báo Tussock hay Nhật Báo Backlund, vốn có độc giả trên khắp Vương quốc Loen, là vì công việc của anh tạm thời chỉ giới hạn ở Backlund. Vả lại, anh cũng chẳng ham danh tiếng lẫy lừng. Thế nên, tờ Báo Bưu Điện Backlund, vừa được lòng dân địa phương vừa có phí quảng cáo thấp, nghiễm nhiên trở thành lựa chọn hàng đầu.
Rời khỏi trụ sở Báo Bưu Điện Backlund, Klein mang theo bản đồ, lần lượt ghé qua các tiệm thảo dược, tiệm hoa, tiệm trang sức và tiệm phụ kiện để mua các loại bột thực vật cùng những miếng bạc mỏng khác nhau nhằm chuẩn bị cho nghi lễ. Phần lớn vật liệu thần bí, miễn là không dính dáng đến vật phẩm linh tính, đều có thể mua ở các cửa hàng thông thường. Vấn đề là chúng không tập trung một chỗ, buộc anh phải đi nhiều nơi mới gom đủ.
Thế là anh lại mất thêm 5 Bảng. Khoản tiền kếch xù 200 Bảng anh rút ra trước đó giờ đã sụt xuống dưới mốc 100, chỉ còn vẻn vẹn 92 Bảng.
“Tiền ra như nước chảy vậy...” Klein tìm một quán ăn nhỏ gần đó, gọi một suất bít tết sốt tiêu đen giá 8 Penny, khoai tây nghiền với xúc xích lợn 2,5 Penny, cà phê 1 Penny, rau củ 1 Penny. Vì tổng hóa đơn vượt quá 1 Soli, anh chi thêm 1 Penny để được một ổ bánh mì thơm phức phết bơ.
Một giờ chiều, anh quay về số 15 phố Minsk, lập tức bắt tay điều chế 'Bột Đêm thánh' chuyên dùng để tạo bức tường linh tính từ hoa thâm miên, cỏ huyết rồng, đàn hương đỏ sẫm, bạc hà cùng một số loại thảo dược khác mà chẳng màng đến việc nghỉ ngơi. Trong lúc chưa tìm được con dao bạc nghi lễ thực sự, anh đành dùng tạm cách này.
Klein đoán rằng mình phải thăng cấp lên Danh Sách 7 mới có thể thoát khỏi những hạn chế ấy.
“Chà, tiểu thư 'Công Lý', anh 'Người Treo Ngược', và bạn học 'Mặt Trời' đến giờ vẫn chưa xin nghỉ, nên buổi họp hôm nay sẽ diễn ra đúng giờ… Không biết 'Người Treo Ngược' sẽ mang đến bất ngờ gì, và sẽ cung cấp được bao nhiêu trang nhật ký của Roselle nữa đây.” Klein ngả lưng trên chiếc giường trong phòng ngủ, để tâm trí mình trôi dạt giữa trăm mối suy tư.
Với anh, thám tử tư là một nghề vừa kiếm được tiền, vừa được hành động. Nó cho phép anh tiếp xúc với đủ loại người trong xã hội, đồng thời từng bước khám phá cộng đồng Kẻ Phi Phàm ở Backlund và dần dần tìm ra manh mối về Hội Mật Tu.
Tất nhiên, nếu may mắn mỉm cười, anh thậm chí có thể trực tiếp làm rõ Danh Sách 7 tương ứng của 'Tên Hề' là như thế nào thông qua một số hội nhóm Kẻ Phi Phàm, cũng như mua được công thức pha chế ma dược lẫn các thành phần thiết yếu.
Về tung tích của Ince Zangwill, Klein tạm thời sẽ không chủ động truy tìm, thậm chí có xu hướng né tránh đối phương. Dẫu vậy, nếu tình cờ chạm trán kẻ thù mà không bị phát hiện, anh chẳng ngại làm việc thiện bằng cách gửi một lá thư nặc danh đến Giáo hội Nữ Thần Đêm Đen.
“Thu nhập từ nghề thám tử tư cùng lắm cũng chỉ đủ duy trì mức sống trung lưu. Muốn có đủ tiền mua công thức pha chế ma dược với nguyên liệu phi phàm thì chỉ còn cách trông cậy vào tiểu thư 'Công Lý' hoặc đem 100 Bảng còn lại trong tài khoản ẩn danh đi đầu tư… Ừm, tạm thời không động vào 92 Bảng kia vậy, ai mà biết được khi nào mình mới có thu nhập tiếp…” Nghĩ đến đây, Klein bỗng trở mình ngồi dậy, xuống tầng một, bắt đầu lật xem đủ thứ báo mà anh đã tiện tay mua.
Những tờ báo này thường đăng các tin về phát minh mới cần gọi vốn, hoặc chuyện ai đó muốn hợp tác làm ăn.
Dựa vào hiểu biết từ Trái Đất và kiến thức về thời đại này, Klein cẩn thận chọn lọc từng dự án. Tiếc thay, mấy kẻ đăng tin hôm nay rặt một lũ không đáng tin cậy.
Lúc hai giờ bốn mươi lăm phút chiều, anh quay lại phòng ngủ, khóa trái cửa từ bên trong, kéo rèm cửa sổ, dùng "Bột Đêm thánh" tạo ra bức tường linh tính.
Sau khi đi ngược bốn bước, anh thấy mình đã ở trên màn sương xám. Klein ngồi xuống chiếc ghế tựa lưng cao của 'Kẻ Khờ', rồi kéo dài linh tính, sử dụng phương thức đáp lại lời cầu khẩn để chạm vào ngôi sao đỏ thẫm tượng trưng cho 'Mặt Trời'.
Trong cuộc đời đã hoàn toàn đổi thay này, đây là một trong những điều hiếm hoi vẫn còn nguyên vẹn… Anh chợt buông lời cảm khái.
……
Trong một tòa tháp xám đen đã sụp đổ phân nửa nằm đâu đó ngoài Thành Bạch Ngân.
Chín thành viên đội tuần tra đang tụ tập quanh đống lửa trại rực cháy, kể nhau nghe về những chuyện xảy ra trong vài ngày qua. Trong khi đó, vài người khác canh gác vòng ngoài, sẵn sàng đối phó với bất kỳ cuộc tấn công nào có thể ập đến từ bóng tối.
Không biết bao nhiêu Kẻ Phi Phàm ở Thành Bạch Ngân đã dùng máu để viết lên lời giáo huấn: Lúc nào cũng phải cảnh giác. Quái vật trong bóng tối có khi ở ngay sau lưng mi đấy!
Vào những đêm hiếm khi có ánh chớp, việc giữ ngọn lửa luôn cháy và đảm bảo ánh sáng không ngừng tỏa rạng là điều sống còn. Một khi bị bóng tối nuốt trọn, họ hoàn toàn có thể biến mất. Chẳng ai đoán được những chuyện kinh hoàng nào sẽ xảy ra trong màn đêm tuyệt đối, bởi những gì diễn ra trong thực tế lúc nào cũng vượt quá sức tưởng tượng của họ.
Derrick Berg trầm mặc lắng nghe những người đồng đội kể về con quái vật mà họ đã chạm trán trước đây. Một con quái vật hình người với vô số con mắt mọc khắp cơ thể. Cái giá để hạ gục con quái vật không hề nhỏ. Năm người bị thương, hai người rơi vào tình trạng nguy kịch.
Bất chợt, Derrick hoa mắt, cảm thấy mình như bị bao phủ trong làn sương xám dày đặc.
Giữa làn sương xám dày đặc, tại nơi xa xăm không thể diễn tả, một bóng hình mờ ảo ngồi trên chiếc ghế tựa lưng cao cổ kính đang nhìn xuống cậu.
“Chuẩn bị tụ họp.”
Giọng 'Kẻ Khờ' vang bên tai Derrick, nhưng chẳng ai trong số đồng đội cậu mảy may hay biết.
Derrick cụp mắt, dành vài giây quan sát xung quanh trước khi bước đến rìa đống lửa. Cậu tựa lưng vào bức tường đổ nát, xoay người về phía nhóm và giả vờ ngủ.
Từ khi nhận ra cả thành viên Hội Đồng Sáu Người lẫn trưởng lão Lovia đều không phát hiện được sự hiện diện của Ngài 'Kẻ Khờ', cậu dần tin rằng chỉ cần thận trọng và không để lộ điều gì khác thường, cậu vẫn có thể âm thầm tham dự buổi họp Tarot trên màn sương xám, ngay cả khi chịu sự dò xét từ những ánh mắt xung quanh.
……
Quận Hoàng Hậu, Backlund.
Audrey mượn cớ mệt mỏi để về phòng ngủ. Kìm nén sự phấn khích, nàng không đi đi lại lại nữa, mà ngồi yên trên giường, lặng lẽ chờ Ngài 'Kẻ Khờ' triệu tập.
Bố đang bận trao đổi với các nghị viên khác về dự luật sắp đệ trình, vệ sĩ Kẻ Phi Phàm cũng không còn bám sát nàng từng giờ từng phút. Tạ ơn Nữ Thần! Cuối cùng cuộc sống thường nhật cũng quay trở lại! Hai tuần đã trôi qua. Hẳn anh 'Người Treo Ngược' đã chuẩn bị xong tuyến yên của tắc kè hoa trưởng thành... Mình sắp được thăng lên Danh Sách 8 rồi! Audrey nghĩ, đôi mắt lấp lánh.
Điều này khiến nàng phấn khích và háo hức hơn cả khoản tiền thưởng 30.000 Bảng cùng đồn điền rộng lớn trị giá ít nhất 8.000 Bảng kia!
Cuối cùng, nàng thấy ánh sáng đỏ thẫm hư ảo quen thuộc ùa đến như sóng triều, bao trùm lấy nàng.
……
Trên một chiếc thuyền buồm cổ xưa.
Alger Wilson khóa trái cửa khoang thuyền trưởng, ngồi sau chiếc kính lục phân và những cuốn nhật ký hàng hải, chăm chú ghi nhớ nội dung trên xấp giấy dày cộp trước mặt.
Sau thời gian điều tra và được cấp trên khen ngợi, hắn chẳng hề lưu luyến sự phồn hoa của Backlund, tự nguyện rời khỏi đô thành, trở về với biển cả, đồng thời mang theo xấp nhật ký của Roselle mà hắn đã lén lút sao chép.
Chờ tiêu hóa xong ma dược 'Nhà Hàng Hải', mình có thể thăng cấp một cách bình thường. Công lao hiện tại đủ để đổi lấy công thức và nguyên liệu rồi... nhưng làm vậy sẽ tiết lộ việc mình đã biết về 'phương pháp nhập vai'. Điều này vừa có lợi lại vừa có hại.” Alger lắc đầu, đột nhiên mất tập trung.
Đúng lúc đó, hắn cảm nhận được sự kêu gọi từ 'Kẻ Khờ'. Gương mặt 'Phó Đô Đốc Cuồng Phong' Qilangos với làn da nhanh chóng rữa nát cùng những mảng thịt lần lượt bong tróc bỗng hiện lên trong tâm trí.
Theo bản năng, Alger cúi đầu, để mặc cho làn sóng màu đỏ thẫm nuốt chửng mình.
……
Trong cung điện trông chẳng khác nào nơi ở của Người Khổng Lồ trên màn sương xám xịt.
Klein kích hoạt linh thị, cẩn thận quan sát 'Công Lý', 'Người Treo Ngược', 'Mặt Trời' nhằm đánh giá tình trạng hiện tại của họ.
Audrey đang định lên tiếng chào hỏi vui vẻ thì bắt gặp 'Người Treo Ngược' ra dấu và mở miệng trước, “Ngài 'Kẻ Khờ', lần này tôi mang đến mười chín trang nhật ký của Roselle.
“Nhân đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn vì ngài đã sai quyến giả đến giúp tôi diệt trừ Qilangos. Những trang nhật ký này xem như thù lao tôi phải trả!”
Mười chín trang? Khá đấy… Klein không đề cập tới chuyện quyến giả, chỉ bình tĩnh cười đáp, “Trao đổi đồng giá mà thôi.”
Ngài 'Kẻ Khờ' có khác, một Đô Đốc Hải Tặc với vật phẩm phi phàm không đáng để ngài bận tâm…
Xem ra không cần nhắc đến chuyện tiền thưởng nữa... Không biết Ngài 'Kẻ Khờ' có bao nhiêu quyến giả Danh Sách cao nhỉ... Audrey không hay biết rằng mình đã vô thức quen với việc dùng đại từ dành cho thần thánh để gọi 'Kẻ Khờ'.
Nghe 'Kẻ Khờ' nói vậy, Alger khiêm tốn nói, “Tôi hiện chỉ có thể ghi nhớ tối đa được sáu trang, xin Ngài cho phép tôi trình lên theo từng đợt.”
“Không sao.” Klein, kẻ bị bao phủ trong làn sương xám dày đặc, khẽ gật đầu.
Nhìn 'Người Treo Ngược' hiện thực hóa từng trang nhật ký, 'Mặt Trời' Derrick vô cùng tò mò về nội dung bên trong. Qua những kinh nghiệm trước đây, cậu tin rằng những thứ Ngài 'Kẻ Khờ' quan tâm ắt chứa đựng vô vàn bí ẩn. Cậu thử liếc mắt sang tiểu thư 'Công Lý'. Thấy đối phương không có ý định hỏi han gì, cậu bèn giữ thái độ cẩn trọng và im lặng.
Chẳng mấy chốc, sáu trang nhật ký hiện ra hoàn chỉnh và đến tay Klein.
Đã quen với chuyện này, Audrey và những người khác lặng lẽ chờ đợi.
Klein hạ mắt xuống, bắt đầu đọc trang đầu tiên.
『Ngày 16 tháng 12. Ta đã liên lạc được với kẻ đáng thương bị mắc kẹt trong cơn bão dữ dội và lạc lối trong bóng tối.』
Cuối cùng cũng có thông tin tiếp theo về một trong những trang nhật ký trước đây... Klein thầm mừng, càng tập trung hơn.
『Kẻ tự xưng là ngài 'Cửa' này muốn dạy ta một nghi lễ vừa phức tạp vừa khó khăn để giúp hắn quay lại cõi trần, và hứa sẽ thực hiện ba điều ước của ta.
Hắn tưởng ta ngu lắm sao? Ta đã sống hơn sáu mươi năm trong hai kiếp người rồi đấy nhé. Hắn tưởng ta không nhận ra đây là trò thao túng quen thuộc của lũ ác thần và quỷ dữ ư?
Nhưng những câu chuyện về Kỷ Thứ Tư mà hắn kể thì quả thật rất thú vị.』
Ngài 'Cửa'... Cái kiểu đặt tên này nghe quen quen... Klein thầm bật cười. Không biết kẻ đáng thương mắc kẹt giữa bão tố và lạc lối trong bóng tối kia có tên thật là gì, tương đương với Danh Sách mấy nhỉ? Hoặc, có khi đúng như Roselle Đại đế đã đoán, hắn là một trong những tà thần và quỷ dữ... Klein cười thầm, nửa mỉa mai nửa tự trào. Anh cũng khá hứng thú với những câu chuyện về Kỷ Thứ Tư.
『Ta biết Chiến Tranh Tứ Hoàng là sự kiện nổi bật nhất trong Kỷ Thứ Tư, nhưng hiểu biết về các chi tiết cụ thể cũng như những nhân vật chủ chốt chỉ giới hạn trong những gì mà Đại Giáo hội truyền bá. Chẳng hạn như vị 'Hắc Hoàng Đế' của Đế quốc Solomon.
Mãi đến hôm nay, ngài 'Cửa' mới chịu giải đáp thắc mắc của ta, cho biết ba vị còn lại trong Tứ Hoàng là ai. Đó là 'Huyết Hoàng Đế' nửa điên nửa tỉnh của Vương triều Tudor, 'Dạ Hoàng' của Đế quốc Trunsoest, và 'Minh Hoàng' của Lục địa Nam, hay còn gọi là 'Tử Thần'.
Theo lời ngài 'Cửa', trong cuộc chiến đã làm đảo lộn cục diện cả thế giới này, 'Hắc Hoàng Đế', 'Huyết Hoàng Đế' và 'Dạ Hoàng' lần lượt qua đời, còn 'Minh Hoàng' thu được lợi ích lớn nhất.
Đến đây, ngài 'Cửa' còn bồi thêm một câu đầy ý nhị, bảo rằng sau hơn một thế kỷ 'tiêu hóa', Tử Thần đã phát điên, nhưng cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Thế là Tử Thần đã bắt tay với Ma Nữ Nguyên Sơ, gây ra 'Tai Họa Thương Bạch' cho Lục địa Bắc. Dĩ nhiên, đây không phải chuyện hắn tận mắt chứng kiến hay trải qua, mà là những điều hắn nghe được mỗi khi tiếp cận hiện thực hàng tháng.
Tử Thần phát điên, nhưng lại trở nên mạnh hơn!
Ngay cả thần linh cũng có thể phát điên ư?
Thật là một câu nói kinh hoàng!
Dù vậy, điều này càng củng cố thêm phỏng đoán của ta. Trước Kỷ Nguyên Thứ Năm, các vị thần thường xuyên giáng thế, trực tiếp can thiệp vào thời cuộc ở cả Lục địa Bắc lẫn Nam. Thậm chí có những vị còn tự thân xuất trận, như Tử Thần chẳng hạn.
Ta đã hỏi ngài 'Cửa' xem hắn có tham gia vào Chiến Tranh Tứ Hoàng không? Nếu có, hắn đóng vai trò gì? Và bảy vị thần giữ lập trường nào trong cuộc chiến này? Họ đóng vai trò gì?
Ngài 'Cửa' không trả lời câu hỏi của ta, chỉ nói đầy ẩn ý rằng số lượng những nhân vật quyền năng lỗi lạc trong Kỷ Nguyên Thứ Tư còn vượt xa sức tưởng tượng của ta.
Ngoài ra, hắn còn nhắc đến hai quy luật, một là Luật Bất diệt của Đặc tính Phi phàm, và hai là Luật Bảo toàn Đặc tính Phi phàm của các Danh Sách tương cận, nghe giống với những điều ta đã học được từ tổ chức bí mật và cổ xưa kia, cùng một vài hiện tượng ta đã quan sát được.
Hừm, việc này có thể dẫn đến nhiều kết luận đáng ngạc nhiên, khiến các lời giải thích mang một hình hài khác - hình hài khiến người ta kinh hoàng và run rẩy. Chẳng hạn khi quá nhiều Kẻ Phi Phàm cấp cao trong cùng một Con Đường Danh Sách, số lượng Kẻ Phi Phàm cấp thấp sẽ giảm đi và ngược lại.
... Từ thuở ban sơ, Đặc tính Phi phàm đã có số lượng nhất định, không thể tăng hay giảm. Phải chăng điều này có nghĩa rằng quả thực tồn tại một vị Thần đã tạo ra tất cả các vị thần, một Đấng toàn năng, toàn tri, và mọi thứ đều bắt nguồn từ Ngài?』
Đây là đoạn nhật ký Roselle dài nhất mà Klein từng đọc. Nó chiếm trọn hai trang, có lẽ ban đầu được ghi trên hai mặt của một tờ giấy, và chỉ sau nhiều lần sao chép mới tách thành hai tờ riêng biệt.
“Nhiều thông tin thật đấy…” Klein thầm cảm khái.
Là một sinh viên ngành Lịch sử đã ra trường theo đúng quy trình, anh luôn tin rằng Đế quốc Solomon, Vương triều Tudor và Đế quốc Trunsoest nối tiếp nhau theo một đường thẳng, và rằng luôn có giai đoạn phục hưng nhất định trước khi chế độ chính trị mới được thiết lập. Nào ngờ, những điều ngài 'Cửa' kể về Chiến Tranh Tứ Hoàng đã hé lộ sự thật: Ba đế chế kia từng tồn tại vào cùng một thời điểm!
Nếu chuyện đó là thật, nó sẽ làm thay đổi phần lớn các nghiên cứu hiện tại về Kỷ Thứ Tư trong lĩnh vực sử học. Klein chợt nhớ đến nguyên chủ, người luôn say mê khảo cổ học và lịch sử Kỷ Thứ Tư.
Hôm nay, mình đã giúp cậu ấy thực hiện được ước nguyện… Không biết 'Tử Thần' thời Chiến Tranh Tứ Hoàng đã thực sự trở thành thần linh chưa nhỉ? Dựa vào lời ngài 'Cửa' thì khó mà biết chắc. Mình chỉ có thể đoán 'Minh Hoàng' đã thu được nhiều lợi ích từ Chiến Tranh Tứ Hoàng, đủ để phá vỡ giới hạn và trở thành thần linh, nhưng cũng chính vì thế mà 'Ngài' đã mất trí…
Một vị thần mà cũng mất trí được thì quả là kinh dị. Mới nghĩ đến mấy chi tiết ấy thôi đã đủ khiến người ta run rẩy tận đáy lòng! Chẳng trách ngay cả người uyên bác như Roselle Đại đế cũng phải dùng từ "kinh hoàng" để mô tả chuyện này...
Hay là đám tà thần kia đều là những vị thần chính thống đã phát điên cả rồi? Vậy chẳng phải một ngày nào đó trên thế giới này sẽ chỉ còn lại tà thần sao... Ôi, chẳng lẽ ngày tận thế là không thể tránh khỏi ư?
Klein mỉm cười để che giấu nỗi lòng nặng trĩu. Anh cảm thấy cái tương lai mà mình hình dung tràn ngập một màu xám đen u ám.
Đồng thời, anh cũng phải nâng tầm đánh giá về 'Hắc Hoàng Đế', 'Huyết Hoàng Đế' và 'Dạ Hoàng', thừa nhận rằng họ đều là những nhân vật xuất chúng đã tiến rất gần đến ngưỡng thần linh.
“Có lẽ họ chính là Danh Sách 1, những thực thể đứng ở đỉnh cao của mỗi Con Đường. Theo logic đó, việc 'Hắc Hoàng Đế' sống hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm cũng là điều dễ hiểu. Điều này cũng giải thích được một trong những thắc mắc trước đây của nguyên chủ. Cậu ta đã suy luận ra kết luận trái ngược với quan điểm của thầy mình, dựa trên cuốn sổ tay của gia tộc Antigonus. Theo cậu, 'Hắc Hoàng Đế' thực chất là danh xưng chung dành cho mỗi vị hoàng đế của Đế quốc Solomon... Có lẽ 'Hắc Hoàng Đế' vẫn luôn là một người duy nhất. Dĩ nhiên, không loại trừ những khả năng khác, chẳng hạn như đã thay đổi người hai ba lần gì đó. Liệu danh hiệu 'Hắc Hoàng Đế' có phải là tên gọi của Danh Sách 1 trên Con Đường này không?
“Chẳng biết ngài 'Cửa' kia là nhân vật nào trong lịch sử Kỷ Thứ Tư nhỉ… Roselle Đại đế không đề cập đến các thí nghiệm thất bại và những sự trùng hợp tình cờ mà ông gặp phải một cách cụ thể, làm mình không có cách nào đối thoại với ngài ta.
“Định luật Bất diệt Đặc tính cùng Định luật Bảo toàn Đặc tính trong các Chuỗi Danh Sách tương cận. Điều này rất giống với những gì đội trưởng đã nói. Có lẽ những thuật ngữ ông ấy sử dụng vốn bắt nguồn từ Roselle Đại đế.
“Dựa theo hai định luật mà ngài 'Cửa' kia mô tả, mình có thể suy ra kha khá điều thú vị. Chẳng hạn, với nhiều thánh tích và kẻ mạnh ở Danh Sách cao như vậy, bảy Đại Giáo hội lẽ ra không thể có quá nhiều Kẻ Phi Phàm Danh Sách thấp mới phải. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với thực tế. Có lẽ lời giải thích hợp lý duy nhất là do ân sủng đặc biệt từ các vị thần?
“Hay như, phải chăng Định luật Bảo toàn Đặc tính đã khiến Dạ Quốc rơi vào cảnh 'hoài bích kỳ tội' và dẫn đến sự diệt vong của họ? Hoặc có thể hiểu rằng chính sự tồn tại của họ đã làm suy yếu nghiêm trọng sức mạnh của Con Đường 'Đêm Đen', đến mức đe dọa địa vị của Nữ Thần?
“Một ví dụ khác là việc một số Vật Phong Ấn nhất định cũng có thể trở thành nguyên liệu chính cho ma dược, thậm chí về lý thuyết, chúng chính là ma dược. Dĩ nhiên, điều kiện tiên quyết là phải gạn lọc hết mối nguy tiềm ẩn cùng sự điên cuồng.
“Chẳng trách một số văn hiến khai quật được gọi Kỷ Thứ Tư là Kỷ Nguyên Của Các Vị Thần. Hóa ra là bởi thời đại ấy có quá nhiều ghi chép về sự giáng lâm của thần thánh. Vậy điều gì đã khiến các vị ấy không còn giáng thế, đến nỗi ngay cả thần khải cũng gần như tuyệt tích? Nếu không phải nghi lễ ma thuật vẫn còn được đáp lại, e rằng nhiều Kẻ Phi Phàm sẽ hoài nghi sự tồn tại của thần linh...”
Vô số suy nghĩ lướt qua tâm trí Klein, khiến anh có cảm giác như mình vừa thâm nhập sâu hơn vào thế giới phi phàm và lĩnh vực thần bí.
Anh nhanh chóng lật qua bốn trang nhật ký tiếp theo, lòng không khỏi thất vọng khi thấy chúng không còn liên quan gì đến ngài 'Cửa'. Năng lực 'Tên Hề' giúp che giấu được cảm xúc một cách hoàn hảo, cộng với lớp sương mù xám ngăn cách, khiến tiểu thư 'Công Lý' Audrey vẫn luôn âm thầm quan sát anh không phát hiện ra điều bất thường.
Gom những suy nghĩ tán loạn về một mối, Klein chuyển sang đọc trang nhật ký thứ ba.
『Ngày 10 tháng 9, nhịn đến giờ phút này, ta vẫn không thể không than vài câu: Phải chăng ta đã bị chập mạch nên mới chọn con đường 'Kẻ Thông Hiểu Kiến Thức'?
Quả thực, điều này giúp ta phát huy tối đa lợi thế và được giáo hội coi trọng. Tuy nhiên, vấn đề là những Danh Sách đầu tiên của Con Đường này đều thiếu năng lực phi phàm trong thực chiến, chỉ biết dựa vào vật phẩm thần kỳ và phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố bên ngoài.
Chẳng hạn Danh Sách 9 'Kẻ Thông Hiểu Kiến Thức' chỉ nâng tầm khả năng ghi nhớ, học tập và thực hành lên mức siêu việt; hay như Danh Sách 8 'Nhà Khảo Cổ Học' sẽ có được thân thể cường tráng và kiến thức cổ đại liên quan, nhưng lại gặp nhiều hạn chế trong việc sử dụng nghi lễ ma thuật; hoặc Danh Sách 7 'Giám Định Viên' sở hữu năng lực phi phàm giúp nhận biết nhanh những vật phẩm thần kỳ, từ đó tránh được hầu hết các nguy cơ tiềm ẩn khi sử dụng; còn Danh Sách 6 'Thợ Thủ Công' có thể chế tạo những thiết bị cơ khí thần kỳ và vật phẩm phi phàm có sức mạnh tầm trung, cũng như được cải thiện khả năng thực hiện nghi lễ ma thuật. Bảo sao tên hiện đại của nó lại là 'Chuyên Gia Máy Móc'.
Công bằng mà nói thì cả 'Thuật Sĩ' (Danh Sách 7) lẫn 'Giáo Sư Quyển Trục' (Danh Sách 6) của con đường 'Kẻ Dòm Ngó Bí Mật' đều hấp dẫn hơn hẳn. Giá như giáo hội nắm được chuỗi hoàn chỉnh và Hiền Giả Ẩn Nặc không tồn tại thì tốt biết mấy.
Tuy nhiên, cuối cùng ta cũng nhận được một tin vui. Sau khi thăng cấp lần nữa, ta sẽ có được năng lực phi phàm dùng trong chiến đấu ở Danh Sách 5 'Tinh Thuật Sư'!
Nó có tên hiện đại là 'Nhà Thiên Văn Học'. Điều đó làm ta hơi ớn… Phải chăng ta sẽ trở thành một nhà khoa học điên cuồng toàn năng?
Trời cao thương xót, điểm thi đại học của ta chỉ vừa đủ để vào trường loại hai!』
Không thể không nói, Roselle Đại đế rất giỏi pha trò. Ngay cả Klein đang ở trong tâm trạng tồi tệ cũng không khỏi nhếch môi, chỉ muốn thắp nến cho vị tiền bối này.
“Chăm chỉ học hành, không ngừng vươn lên” quả là lời lẽ chí lý… Anh mỉa thầm, nhớ lại đặc điểm của Kẻ Phi Phàm thuộc Giáo hội Thần Hơi Nước Và Máy Móc: Thiếu năng lực thực chiến phi phàm, am hiểu chế tạo và sử dụng vật phẩm phi phàm.
Klein lật sang tờ thứ ba chỉ có một đoạn nhật ký và tiếp tục đọc.
『Ngày 2 tháng 6, dù liên tục gây hấn, khiêu chiến, vương quốc này vẫn không thể hoàn toàn đánh bại Đế quốc Feysac, Vương quốc Loen và Vương quốc Feynapotter, buộc phải gánh vác những khoản nợ khổng lồ, đẩy nền kinh tế đến bờ vực sụp đổ…
Theo những gì ta quan sát được, dân chúng, thương nhân và binh lính đều vô cùng bất mãn. Chỉ cần một tia lửa nhỏ, bạo loạn sẽ bùng phát! Đây chính là cơ hội của ta.
Nhưng ta phải hết sức thận trọng. Thân là những nhân chứng sống xuyên suốt Kỷ Thứ Tư, một dòng họ cổ xưa như Sauron chắc chắn sẽ có cao thủ cao cấp. Ta cần phải có được sự ủng hộ của giáo hội, cũng như đạt được sự đồng thuận nhất định với Giáo hội Mặt Trời Chói Lọi Vĩnh Cửu.
Ta không nên trực tiếp ra mặt. Trước hết, cứ để bọn nổi loạn phá tan trật tự. Rồi sau đó, ta sẽ xuất hiện như một vị cứu tinh để chấm dứt mọi sự. Quan chấp chính Roselle Gustav. Ta thích danh xưng này.
Ngày 3 tháng 6, sau cuộc thảo luận với Edward và những người khác, ta đã từ bỏ ý định thỏa thuận với Giáo hội Mặt Trời Chói Lọi Vĩnh Cửu. Điều này rất có thể sẽ làm lộ ý đồ thực sự của ta, khiến gia tộc Sauron cùng đám quý tộc cũ ủng hộ chúng phát hiện sớm và kịp thời ứng phó. Khi ấy, mọi việc sẽ trở nên rất khó khăn và nguy hiểm.
Tiếc rằng Grimm đã chết ở biển Sương Mù. Anh ta là người thông minh nhất trong số chúng ta.
Loạn lên, loạn lên đi! Khi tất thảy mọi thứ trở nên hỗn loạn, ta mới có cơ hội đục nước béo cò! Một khi gia tộc Sauron không thể cứu vãn tình thế nữa, Giáo hội Mặt Trời Chói Lọi Vĩnh Cửu sẽ buộc phải công nhận ta!
Ta nghĩ ta nên giúp đỡ lũ phản loạn kia một tay, nhưng làm thế nào để giấu nhẹm mọi dấu vết và không để ai phát giác nhỉ?
Ngày 4 tháng 6, bất thình lình, Zaratul của Hội Mật Tu đã bí mật ghé thăm ta.』
Phần sau đâu? Klein rất tò mò mục đích của Zaratul, thủ lĩnh Hội Mật Tu, khi tìm gặp Roselle vào đêm trước cuộc nổi loạn và đảo chính. Tuy nhiên, nhận ra rằng hai trang tiếp theo hoàn toàn không đề cập đến vấn đề này, anh không khỏi thất vọng.
Mặc dù ba trang nhật ký này không cung cấp nhiều chi tiết, chỉ ghi lại lời kể trực tiếp từ người trong cuộc, Klein vẫn cảm nhận được những biến động dữ dội của sự kiện chấn động ở Intis vào năm 1173, hơn một trăm năm trước.
Kết quả được ghi rõ trong sách giáo khoa lịch sử. Đại tá Roselle đã dập tắt cuộc nổi loạn và nhân cơ hội phát động đảo chính, biến Vương quốc Intis thành nước Cộng hòa, rồi tự xưng là quan chấp chính. Trong mười chín năm tiếp theo, ông tiến hành cải cách luật pháp, khuyến khích phát minh, thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp và đưa sức mạnh quốc gia lên tầm cao mới. Ông đánh Nam dẹp Bắc, buộc Lenburg, Masin, Segar và nhiều quốc gia khác phải chịu sự bảo hộ, khiến ba cường quốc lớn ở Lục địa Bắc là Đế quốc Feysac, Vương quốc Loen và Vương quốc Feynapotter phải quy phục.
Vào cuối năm 1192, gần hai mươi năm sau khi lên nắm quyền chấp chính, Roselle đã chuyển đổi nền cộng hòa thành đế quốc và tự xưng Caesar. Chưa đầy sáu năm sau, ông băng hà tại cung Bạch Phong, khép lại giai đoạn truyền kỳ nhất của Kỷ Thứ Năm cho đến nay.
Klein nhớ lại những tài liệu mình đã đọc, càng nghĩ càng cảm thấy cái chết của Roselle không đơn giản như vẻ ngoài. Chẳng hạn như biến cố nổi tiếng này. Đằng sau nó ắt hẳn là cuộc tranh đấu giữa Kẻ Phi Phàm và sự nhúng tay của các thế lực siêu nhiên. Dù người ta có cố gắng làm cho câu chuyện trở nên hợp lý đến đâu thì sự thật vẫn khác hẳn những gì được viết trong sách giáo khoa.
“Đúng như dự đoán, Grimm, một trong những người được Roselle gọi là ‘Tứ Kỵ Sĩ Khải Huyền’ đã tử nạn trên Biển Sương Mù. Trong trang nhật ký trước, Roselle từng ghi rằng có điều gì đó không ổn ở người kỵ sĩ này… Nó dường như liên quan tới hòn đảo nơi họ phát hiện ra nhiều giống loài siêu phàm… Đây không chỉ là kỳ ngộ mà còn là mối nguy hiểm…” Nhớ đến một đoạn ghi chép trước đây, Klein thở dài cảm khái rồi lật đến trang nhật ký thứ năm.
Nội dung ghi chép trong trang này hoàn toàn không có giá trị. Chúng chỉ là những nhận xét của Roselle sau khi uống rượu vang đỏ Aurmir năm 1128, bày tỏ cảm giác thất vọng khi gặp lại người phụ nữ mà ông ngưỡng mộ thuở thiếu thời, chỉ để phát hiện ra rằng vóc dáng bà đã biến dạng và nhan sắc đã tàn phai. Ngoài ra là bản tổng kết về thời kỳ sa đọa khi ông nghiện đánh bài.
Trang thứ sáu cũng toàn những chuyện thường nhật tương tự như vậy. Tuy nhiên, dòng cuối cùng đã khiến mắt Klein sáng lên.
『Ngày 8 tháng 4, ta phải phái người điều tra và thu thập thêm thông tin về Hội Mật Tu. Ta không thể tiếp tục thụ động như trước, không thể để Zaratul tiếp tục dắt mũi nữa.』
Vậy thì, đồng chí Roselle, ông đã tìm ra điều gì chưa?
Klein không tìm được phần tiếp theo, đành phải kìm nén cảm xúc và chờ 'Người Treo Ngược' đưa cho anh sáu trang khác ở buổi tụ họp tiếp theo.
Klein biết rằng tài liệu điều tra từ hơn một trăm năm trước khó có thể giúp anh tìm ra manh mối liên quan đến Hội Mật Tu. Suy cho cùng, sau khoảng thời gian dài như vậy, trừ khi là những tồn tại tương đối đặc biệt, ngay cả những người mạnh mẽ cấp cao cũng khó tránh khỏi cái chết vì tuổi già, huống chi là những người ở cấp trung hay cấp thấp. Dù vậy, anh vẫn tin rằng nó có thể mang lại linh cảm cho mình, giúp anh nắm được những thân phận công khai lẫn cách thức hoạt động mà Hội Mật Tu thường sử dụng.
Đặt sáu trang nhật ký xuống, Klein gõ ngón trỏ phải lên mép chiếc bàn dài bằng đồng, từ từ chuyển ánh mắt từ tiểu thư 'Công Lý' sang 'Người Treo Ngược' rồi đến 'Mặt Trời'.
À, đúng, trong nhật ký vừa rồi, Roselle Đại đế có nhắc đến 'Đấng tạo ra vạn vật, Chúa toàn trí toàn năng.' Mô tả này rất giống với cách nói thường thấy ở Thành Bạch Ngân. Ông ta đã nghe được từ đâu? Là từ tổ chức cổ xưa và bí mật nhất luôn âm thầm thao túng cục diện thế giới? Tổ chức đã ra đời trước khi Vùng Đất Bị Thần Ruồng Bỏ xuất hiện?
Ừm... Đột nhiên, Klein nảy ra một ý tưởng mới. Anh mỉm cười, cất giọng trầm ấm và bình thản nói, “Roselle đã nhắc đến một số sự kiện lịch sử bị che giấu trong nhật ký của mình cùng vài thường thức. Điều này khiến ta nhớ ra một chuyện mà ta chưa từng kể cho các người.”
Audrey bỗng hiểu ra điều gì đó, bèn hơi quay mình lại, ánh mắt kinh ngạc xen lẫn niềm vui nhìn về phía đầu bàn cổ kính.
Ngài 'Kẻ Khờ' chủ động nhắc đến nội dung nhật ký của Roselle sao? Không biết trong đó ghi lại những gì nhỉ? Nàng phấn khích và hồi hộp đến nỗi quên mất mình là một 'Khán Giả'.
So với nàng, 'Người Treo Ngược' Alger có vẻ chững chạc hơn rất nhiều. Thế nhưng hành động vô thức ngồi thẳng lưng đã vô tình bán đứng hắn.
Duy chỉ có 'Mặt Trời' Derrick là khác. Tuy luôn tin rằng những thứ mà ngài 'Kẻ Khờ' quan tâm đều ẩn chứa nhiều bí ẩn, cậu lại không biết Roselle Đại đế là ai, cũng chẳng hiểu cái tên này có ý nghĩa thế nào với Lục địa Bắc. Do đó, cậu chỉ cảm thấy tò mò chứ không có biểu hiện khác thường.
“Ngài 'Kẻ Khờ', Roselle Đại đế đã nhắc tới thường thức nào vậy? Tôi có thể trả tiền cho thông tin này.” Audrey nôn nóng hỏi ngay.
Nhưng tôi phải được trao đổi riêng! Nàng thầm bổ sung trong lòng.
Klein cười khẽ và trả lời, “Không cần đâu. Đây đều là tri thức phổ thông. Sau khi xem phần nhật ký này, với tư cách là người triệu tập Hội Tarot, ta thấy cần thiết phải chia sẻ với tất cả. Tất nhiên, ta rất rõ là vài người trong các người đã nắm được nó rồi.”
Anh chủ yếu ám chỉ 'Mặt Trời'.
Với bề dày lịch sử hai đến ba nghìn năm, Thành Bạch Ngân không thể không biết đến Định luật Bất diệt của Đặc tính Phi phàm. Hơn nữa, họ sống trong một môi trường khá khắc nghiệt. Dù khu vực xung quanh không thiếu những quái vật ẩn mình trong bóng tối, đôi khi họ vẫn không thể tìm đủ nguyên liệu cần thiết. Để duy trì truyền thừa và bảo đảm sự tồn tại lâu dài của cả thành, việc sử dụng đặc tính phi phàm từ di hài tiền nhân để chế tạo ma dược cũng chẳng phải điều quá khó chấp nhận. Có lẽ, đây còn là một nghi thức thiêng liêng và vinh quang với họ.
Tất nhiên, qua những cuộc trao đổi trước đó, Klein nhận ra rằng 'Người Treo Ngược' cũng biết được đôi điều.
Đáng tiếc là không thể lúc nào cũng bắt tiểu thư 'Công Lý' trả Bảng Vàng rồi chuyển tiền cho quyến giả của mình được... Quyến giả cũng cần giữ thể diện chứ! Không thể phá vỡ hình tượng mạnh mẽ mà thầy Azik đã xây dựng. Ừm... Nếu có cơ hội thì mình sẽ thử. Dù sao, một thực thể quyền năng đến đâu cũng cần những chân chạy vặt, giống như Kẻ Gác Đêm của Nữ Thần Đêm Đen vậy. Chẳng ai lại nghi ngờ Nữ Thần Đêm Đen không phải thần linh chân chính chỉ vì sự yếu kém của Kẻ Gác Đêm cấp thấp cả…. Klein thầm thở dài.
“Cảm ơn ngài rất nhiều! Ngài 'Kẻ Khờ' quả là người hào phóng!” Audrey hớn hở đáp lời. Nàng dành hẳn ba giây để sám hối về hành vi mua thông tin bằng tiền, một hành động mà nàng cảm thấy quá đỗi dung tục.
Klein thôi gõ ngón tay, rồi cất giọng đều đều, “Thường thức đầu tiên là Định luật Bất diệt của Đặc tính Phi phàm. Đặc tính phi phàm không thể bị hủy diệt hay suy giảm, nó chỉ chuyển từ sự vật này sang sự vật khác.”
Không ngờ mình lại vô thức dùng giọng của đội trưởng... Khóe môi Klein bất giác cong lên.
Không thể bị hủy diệt hay suy giảm, chỉ chuyển từ sự vật này sang sự vật khác… Audrey nghiền ngẫm lời của Ngài 'Kẻ Khờ', cảm thấy câu nói đơn giản ấy ẩn chứa quá nhiều ý nghĩa.
Nàng khẽ đảo đôi mắt xanh như ngọc lục bảo. Khi thấy cả 'Người Treo Ngược' lẫn 'Mặt Trời' đều không tỏ vẻ ngạc nhiên hay trầm tư, nàng lập tức hiểu rằng hai thành viên Hội Tarot này đã biết về định luật đó từ lâu.
“Chỉ có mình là không biết...” Nàng nghĩ, thoáng chút tủi thân, nhưng ngay lập tức chuyển sang cảm kích tấm lòng nhân hậu của Ngài 'Kẻ Khờ'.
Lúc này, Klein nói thêm, “Khi một kẻ mất khống chế chết đi, hắn sẽ để lại một thứ mang đặc tính phi phàm. Thứ này có thể là nguyên liệu chính để chế tạo ma dược hoặc một vật phẩm thần kỳ cần được phong ấn. Điều tương tự cũng xảy ra khi một Kẻ Phi Phàm bình thường qua đời, ngoại trừ việc thứ đó sẽ tương đương với một ma dược không có nguyên liệu phụ trợ. Đương nhiên, bản thân thứ đó cũng chứa đựng sức mạnh phi phàm. Chúng ta có thể sử dụng nó như một vật phẩm thần kỳ chưa hoàn thiện.”
Những lời lẽ tưởng chừng rất đỗi bình thường vang vọng trong tâm trí Audrey. Chúng chồng chất từng lớp, dâng cao không ngừng, rồi hội tụ lại thành tiếng sấm rền vang.
Audrey liên tưởng đến việc 'ăn thịt người', nhớ lại câu hỏi mà nàng đã từng hỏi 'Người Treo Ngược' - liệu Con Đường Danh Sách có bị đứt đoạn khi nguồn cung nguyên liệu cạn kiệt hay không? Giờ đây, khi đã biết sự thật, nàng có cảm giác như rơi vào cơn ác mộng và ước mình chưa từng nghe thấy nó.
Sao lại đen tối đến thế? Sao mà tàn nhẫn đến vậy? Trước đây, Audrey cũng từng chứng kiến những sự việc kinh hoàng liên quan đến phi phàm, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ sự đồi bại và tội ác của một vài cá nhân cụ thể, như ông A hay Qilangos. Vì vậy, những điều đó chưa bao giờ làm giảm niềm đam mê và tình yêu của nàng dành cho lĩnh vực huyền bí lẫn thế giới siêu phàm. Thế nhưng, lần này, nàng phát hiện ra rằng thế giới thần bí đó lại thấm đẫm những gam màu u ám.
Tỉnh lại đi, Audrey, mi không thể cứ ngây thơ mãi thế được! Hãy nghĩ đến chuyện mất khống chế. Sự tàn bạo và đen tối mà Ngài 'Kẻ Khờ' mô tả đều là những điều có thể lường trước… Đã chọn con đường này thì phải dũng cảm bước tiếp! Audrey tự an ủi bản thân, tâm trạng cũng dịu đi phần nào.
Nàng nhận thấy 'Người Treo Ngược' và 'Mặt Trời' chỉ hơi động đậy theo thói quen, như thể họ rất rõ ràng về điều đó.
Hứ! Anh 'Người Treo Ngược' thật xấu tính, trước đây còn định dùng thông tin này để trao đổi với mình! Ừm... Thông tin này thực sự giá trị và vô cùng quan trọng, nhưng điều đó chỉ đúng với chúng ta thôi. Trong mắt Ngài 'Kẻ Khờ', nó chỉ là một kiến thức cơ bản. Audrey đột nhiên muốn cười, tâm trạng nhẹ nhõm hơn hẳn, nàng dần rũ sạch những ví dụ cực đoan vừa hiện lên ra khỏi đầu.
Klein không ngạc nhiên trước phản ứng của ba thành viên. Anh tiếp tục bằng giọng điềm đạm, “Thường thức thứ hai là Định luật Bảo toàn Đặc tính Phi phàm của các Danh Sách tương cận.”
Định luật Bảo toàn Đặc tính Phi phàm… 'Người Treo Ngược' hơi thay đổi tư thế ngồi, cảm giác như vừa bắt được điều gì đó, nhưng vẫn chưa hiểu định luật này ẩn chứa điều gì và đại diện cho những gì.
'Công Lý' và 'Mặt Trời' cũng có cảm giác tương tự. Họ không tài nào hiểu thấu được ý nghĩa sâu xa của định luật này.
“Tại sao lại là Danh Sách tương cận?” Alger buột miệng hỏi.
Klein cười đáp, “Anh định đánh đổi điều gì để có được câu trả lời?”
Một trong những suy nghĩ mới đây của anh là kiến thức cơ bản thì miễn phí, nhưng muốn hiểu sâu thì phải trả giá. Điều này vừa phù hợp với vị thế của anh, vừa giúp anh không lãng phí thông tin. Dù sao thì những thứ miễn phí đôi khi lại là thứ đắt nhất.
Nếu 'Kẻ Khờ' chỉ nhắc đến việc nhật ký của Roselle ghi lại vài kiến thức cơ bản, có lẽ 'Người Treo Ngược' Alger sẽ không quyết tâm đánh đổi để có được câu trả lời. Một phần vì từ "cơ bản" đã làm tiêu tan sự tò mò; phần còn lại là do hắn luôn cảnh giác trong các giao dịch liên quan tới 'Kẻ Khờ', bởi điều này gợi nhớ đến những thỏa thuận nguy hiểm với tà thần và ác quỷ. Giờ đây, hắn đã biết nội dung của cái gọi là kiến thức cơ bản kia và thấy vô cùng hứng thú. Tuy nhiên, hắn lại không thể nào hiểu được mô tả trong đó, chứ đừng nói đến việc liên hệ với thực tế hay lĩnh hội chúng một cách rõ ràng.
Bởi vậy, dù khó nén được sự háo hức, hắn vẫn mở miệng hỏi bằng thái độ hết sức cung kính, “Thưa Ngài 'Kẻ Khờ', Ngài muốn nhận được thù lao gì?”
Đúng, đúng! Audrey khẽ gật đầu liên tục, ý tứ rõ ràng rằng đây cũng là điều nàng muốn hỏi.
Dẫu 'Mặt Trời' Derrick vẫn giữ im lặng, không có cử chỉ thừa thãi, ánh mắt bất giác hướng về phía 'Kẻ Khờ' vẫn nói lên tất cả.
Klein mỉm cười nói, như thể đã chờ đợi phản ứng này từ trước, “Thông tin liên quan tới Hội Mật Tu.”
“Hội Mật Tu…” 'Người Treo Ngược' Alger lẩm nhẩm.
Hắn không xa lạ gì với thuật ngữ này. Trước đây, hắn từng nhận thù lao để giải thích về các tổ chức bí mật cho tiểu thư 'Công Lý', bao gồm cả Hội Mật Tu.
'Công Lý' và 'Mặt Trời' cùng nhíu mày. Audrey thì bởi nàng chỉ biết về Hội Mật Tu qua những gì 'Người Treo Ngược' kể lại, Derrick thì vì cậu chưa từng nghe nói đến tổ chức đó.
Klein đã sớm dự đoán phản ứng của 'Mặt Trời', nên anh không hề ngạc nhiên. Theo anh, khu vực nơi Thành Bạch Ngân tọa lạc đã trở thành 'Vùng Đất Bị Thần Ruồng Bỏ' vào khoảng thời gian sau khi Phiến Đá Báng Bổ đầu tiên xuất hiện và trước khi Phiến Đá Báng Bổ thứ hai ra đời, có thể đâu đó trong Kỷ Thứ Ba, thậm chí là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Đại Thảm Họa. Gia tộc Zaratul chỉ xuất hiện vào Kỷ Thứ Tư, còn Hội Mật Tu được thành lập ở nửa sau của kỷ nguyên này. Hai sự kiện này hoàn toàn không trùng khớp về mặt thời gian. Nếu 'Mặt Trời' thực sự biết về Hội Mật Tu, Klein sẽ phải giật mình, xem xét lại các giả thuyết và điều chỉnh nhận thức của mình về Thành Bạch Ngân, Vùng Đất Bị Thần Ruồng Bỏ và gia tộc Zaratul.
Sau khoảng mười mấy giây im lặng, 'Người Treo Ngược' Alger nhìn về phía 'Kẻ Khờ' trong màn sương xám, đắn đo một hồi trước khi cất lời, “Tôi sẽ nhận nhiệm vụ thu thập và điều tra các vấn đề liên quan đến Hội Mật Tu này, Ngài có thể trả thù lao trước được không?”
Việc một thực thể có thể là thần linh tỏ ra quan tâm một tổ chức cổ xưa và bí ẩn không phải điều gì đáng ngạc nhiên. Alger hoàn toàn không nghi ngờ điều này. Điều đáng chú ý hơn cả là, sau nhiều lần tham gia tụ họp, hắn dần nảy sinh ý nghĩ rằng Ngài 'Kẻ Khờ' đang ở trong một trạng thái không trọn vẹn. Có lẽ Ngài đang gặp phải những khó khăn nhất định, và mọi nỗ lực của Ngài cùng hành động của các quyến giả ở Lục địa Bắc-Nam đều nhằm giúp Ngài thoát khỏi sự ràng buộc, vượt qua mọi hạn chế.
Điều này thậm chí có thể liên quan đến bí mật động trời về việc bảy vị thần không còn giáng lâm xuống hiện thực sau Kỷ Thứ Tư... Ý nghĩ ấy chợt lóe lên trong đầu Alger. Hắn rùng mình, cảm thấy bản thân dường như đã chạm vào lãnh địa của thần linh.
Nghe yêu cầu của 'Người Treo Ngược', Klein ngả người tựa vào lưng ghế, khẽ gật đầu nói, “Không thành vấn đề. Nếu thông tin thu thập được vượt quá giá trị của câu trả lời, ta sẽ bồi thường thêm cho anh.”
Về việc thông tin nào được coi là vượt quá giá trị của câu trả lời, đương nhiên sẽ do ngài 'Kẻ Khờ' đáng kính quyết định. Nếu ngài ấy có khả năng chi trả thêm thù lao thì sẽ trả, còn không thì thôi... Klein lặng lẽ bổ sung trong lòng.
Mắt 'Công Lý' Audrey sáng rực, nàng giơ tay nói, “Tôi muốn tham gia vào giao dịch này.”
Klein cười đáp, “Được thôi.”
Thành thật mà nói, tiểu thư 'Công Lý' mới là mục tiêu chính của anh. Là người có thế lực và mối quan hệ ở Backlund, cũng từng thâm nhập nhiều cộng đồng Kẻ Phi Phàm, nàng chắc chắn thông thạo tình hình ở Vùng Đất Hy Vọng hơn người vừa đặt chân đến thủ đô như anh, hay kẻ chuyên hoạt động trên biển như 'Người Treo Ngược'.
— Dựa theo lời tiên tri nhận được từ thuật bói toán trước đó, Klein tin rằng manh mối liên quan đến Hội Mật Tu sẽ xuất hiện tại Backlund chứ không phải ở bất kỳ nơi nào khác.
'Mặt Trời' Derrick im lặng lắng nghe, suy nghĩ một lát rồi nói, “Tôi xin dùng khoản bồi thường đã tích lũy trước đó để đổi lấy câu trả lời.”
Trong vụ giao dịch ba bên trước đây, cậu đã cam chịu thiệt thòi khi đổi công thức Danh Sách 8 'Kẻ Đọc Tâm' lấy công thức Danh Sách 9 'Người Ca Tụng'. Khi Klein hứa sẽ bù đắp, cậu quyết định để dành khoản bồi thường đó cho sau này, nhằm chuẩn bị cho công thức pha chế ma dược và nguyên liệu chính tiếp theo.
Klein gật đầu, đưa ra lời giải thích đã được chuẩn bị sẵn, “Danh Sách tương cận, hiểu một cách đơn giản, là những Con Đường trong Danh Sách cấp cao có thể hoán đổi với nhau.
“Ta lấy một ví dụ, người thuộc Danh Sách 5 'Người Gác Cổng' của Con Đường 'Tử Thần' không chỉ có thể thăng cấp theo lộ trình thông thường, mà còn có thể chọn thăng cấp theo Con Đường 'Khổng Lồ', tức là lên Danh Sách 4 'Thợ Săn Quỷ Dữ' thuộc Con Đường 'Chiến Thần'. Điều này sẽ không gây ra nguy cơ mất khống chế, cũng không tích tụ sự điên loạn, hoàn toàn khác với việc uống nhầm ma dược.
“Tất nhiên, nếu không phải Danh Sách tương cận, thì trở thành kẻ gần như điên loạn đã là kết cục tốt nhất.”
“Có thể hoán đổi với nhau sao?” 'Công Lý' Audrey thốt lên, vừa kinh ngạc vừa hân hoan.
Nàng kinh ngạc bởi các Con Đường Danh Sách không hoàn toàn cố định. Con người không nhất thiết phải đi đến tận cùng trên Con Đường ban đầu, cũng chẳng cần phải trả giá bằng trạng thái gần như điên loạn hay từ bỏ cơ hội thăng cấp mãi mãi chỉ vì muốn thay đổi. Trong hai mươi hai Con Đường của thần, có cả những trường hợp đặc biệt lẫn những Danh Sách tương cận!
Nàng hân hoan bởi sau này mình sẽ có cơ hội lựa chọn, giống như việc chọn những món hàng thú vị tại Cửa hàng Bách hóa Philip vậy. Đó quả là một trải nghiệm tuyệt vời!
Thì ra là vậy... Alger nhủ thầm, chợt vỡ lẽ ra nhiều điều, tháo gỡ được những khúc mắc từng tích tụ từ các trải nghiệm cá nhân.
Thông tin này quả thật vô cùng quý giá! Không hổ danh là Ngài 'Kẻ Khờ'. Những thường thức tưởng chừng đơn giản ấy cũng đủ để đa số Kẻ Phi Phàm Danh Sách Trung hoặc Thấp kinh ngạc đến mất bình tĩnh và nhận được lợi ích không nhỏ! Hắn thầm cảm thán.
'Mặt Trời' Derrick có chút thất vọng, bởi cậu hoàn toàn không có ý định thay đổi Chuỗi Danh Sách. Cậu muốn trở thành 'Mặt Trời' soi sáng bóng tối, xua tan lời nguyền.
Tuy nhiên, cậu nhanh chóng nhớ lại một chuyện cũ từng xảy ra ở Thành Bạch Ngân. Vị cựu Thủ Lĩnh, một nhân vật xuất chúng có nhiều tiềm năng vượt qua giới hạn của 'Thợ Săn Quỷ Dữ' nhất, đã xây dựng một lăng mộ sâu dưới lòng đất cho bản thân và chuyển đến sinh sống tại đó. Dần dà, số lần ông xuất hiện ngày càng ít, cho đến khi cánh cửa lăng mộ không thể mở ra được nữa.
Vào thời điểm đó, người dân Thành Bạch Ngân đều tin là Thủ Lĩnh đã gặp vấn đề trong quá trình thăng cấp, trở nên điên loạn, mất khống chế và tự sát. Lúc này, kết hợp với mô tả của 'Kẻ Khờ', 'Mặt Trời' chợt nghĩ đến một khả năng khác. Có lẽ vị thủ lĩnh kia đã cố gắng thăng cấp sang Danh Sách gần sát!
Có lẽ Thủ Lĩnh đã tìm ra công thức tương ứng với Con Đường "Tử Thần" thông qua một lần thám hiểm vào vùng tối sâu thẳm, trong đó có yêu cầu đặc biệt là xây dựng lăng mộ… Cuối cùng, ông vẫn thất bại ư? Tại sao ông không bị biến thành quái vật? Ông đã gặp phải chuyện gì trong lăng mộ tăm tối đó? Thành Bạch Ngân không có công thức pha chế ma dược sau 'Thợ Săn Quỷ Dữ' sao?
Khi những ý nghĩ này lướt qua tâm trí, Derrick chợt bừng tỉnh bởi giọng nói giả vờ e dè của tiểu thư 'Công Lý'.
“Thưa Ngài 'Kẻ Khờ', tôi muốn biết Con Đường 'Khán Giả' có thể hoán đổi với những con đường nào ở cấp cao ạ?”
Danh Sách 4 'Thợ Săn Quỷ Dữ' có vẻ tuyệt đấy... Nó rất hợp với mình và danh hiệu 'Công Lý'! Audrey vô cùng ngưỡng mộ cái tên cấp bậc cao đầu tiên mà mình được biết.
Tôi cũng muốn biết… Klein thực sự muốn đáp lại câu hỏi của tiểu thư 'Công Lý' như vậy.
Trước khi anh mở miệng, Audrey có dáng vẻ không mấy tự tin đã ấp úng bổ sung, “Tôi, tôi có thể trả tiền cho câu trả lời này. Ngài… Ngài nghĩ bao nhiêu Bảng Vàng là đủ ạ? Tôi, tôi nghĩ, nghĩ là quyến giả của Ngài hẳn sẽ cần một khoản kinh phí nhất định cho các hoạt động…”
Nói đến đây, nàng chợt nhớ tới chuyện quyến giả của Ngài 'Kẻ Khờ' đã dễ dàng xử lý chủ nhân của ‘Đói Khát Ngọ Nguậy’, Phó Đô Đốc Hải Tặc Qilangos như thế nào. Rõ ràng, đó là một người mạnh mẽ có Danh Sách cao. Nàng suýt định bật thốt, “Xin lỗi Ngài 'Kẻ Khờ', xin hãy coi như tôi chưa nói gì ạ.”
Nhưng đã lỡ mở miệng hỏi rồi thì không thể nuốt lại được nữa! Cố lên nào, Audrey! Biết đâu Ngài 'Kẻ Khờ' cũng có những thân thuộc yếu kém thì sao? Audrey mím môi, tự tiếp thêm dũng khí cho bản thân.
Bảng Vàng? Klein nghiêm túc suy nghĩ một lát rồi nói, “Khi nào thập đủ thông tin về Hội Mật Tu thì chúng ta hãy tiến hành giao dịch này.”
Vừa nói, Klein vừa nhớ đến Daxter Guderian, người chỉ điểm của anh trong Hội Giả Kim Tâm Lý.
Đội trưởng và mình đều, đều… Than ôi, thân phận người chỉ điểm của Daxter chẳng còn cách nào để chứng thực. Không biết nên gọi nó là bi kịch hay hài kịch đây… Tiếc là mình chẳng thể liên lạc với y nữa. Nếu không thì chỉ cần moi thông tin Con Đường 'Khán Giả' từ y là được… Klein nở nụ cười nhạt.
“Được ạ.” Audrey vui vẻ đáp lời.
Cuộc đối thoại giữa hai người khiến 'Người Treo Ngược' đang định hỏi câu tương tự phải im lặng và chờ đợi cho đến khi thu thập đủ thông tin về Hội Mật Tu.
Vài giây im ắng trôi qua, Audrey quay sang nhìn ngài 'Kẻ Khờ' và khẽ giơ tay lên.
Thấy ngài gật đầu đồng ý, nàng bèn đưa mắt về phía người đối diện, hỏi bằng giọng đầy mong đợi, “Anh 'Người Treo Ngược' này, tin tức của tôi đã giúp anh giải quyết vụ việc ‘Phó Đô Đốc Cuồng Phong’, anh đã chuẩn bị xong tuyến yên hoàn chỉnh của tắc kè hoa trưởng thành chưa?”
Đó cũng là một trong những lý do tôi quay trở lại biển… Alger khẽ gật đầu nói, “Tôi kiếm được vật liệu phi phàm cô cần rồi. Giờ tôi phải giao nó cho cô bằng cách nào?”
Bằng cách nào? Phải đưa cho mình bằng cách nào đây... Audrey chợt ngẩn người, rơi vào suy tư. Không thể cho địa chỉ nhà được... cũng không thể nhờ Xio hay Fors... như vậy sẽ làm lộ thân phận Kẻ Phi Phàm của mình... Ừm, cũng không phải không được, Roselle Đại đế từng nói, ‘Giữa hai thứ tồi tệ thì hãy chọn cái ít tệ hơn’…
Đúng lúc này, Klein chợt nảy ra một ý. Anh gõ nhẹ lên mép chiếc bàn dài, mỉm cười nói, “Này quý cô, quý ông. Về việc đó, các người có sẵn lòng hợp tác với ta để thực hiện một thử nghiệm không?”
Đau!
Đau quá!
Đầu đau quá!
Giấc mơ kỳ quặc ngập tràn những lời thì thầm nhanh chóng vỡ tan thành từng mảnh. Chu Minh Thụy đang say giấc nồng chợt cảm thấy đầu đau tới lạ thường, tựa như bị ai đó dùng gậy vụt mạnh vào đầu. Không, là có vật gì đó vô cùng sắc nhọn đang đâm thẳng vào huyệt thái dương và liên tục khuấy mới đúng!
Ôi… Trong cơn mơ màng, Chu Minh Thụy muốn xoay người, muốn ôm đầu hoặc ngồi dậy. Thế nhưng anh hoàn toàn không thể cử động được tay chân, cứ như đã đánh mất quyền điều khiển cơ thể.
Xem chừng mình vẫn đang mơ chứ chưa tỉnh hẳn… Biết đâu chút nữa còn xuất hiện cả tình trạng tưởng như tỉnh nhưng thực ra vẫn đang ngủ… Chu Minh Thụy không lạ gì tình huống như vậy. Anh cố gắng tập trung ý chí, quyết tâm thoát khỏi sự trói buộc của ảo giác và bóng tối.
Nhưng vào cái lúc chập chờn cơn tỉnh cơn mê, ý thức phiêu tán như sương như khói, vừa khó kiểm soát lại vừa khó nắm bắt. Dù anh cố gắng đến đâu thì vẫn không thể ngăn được dòng suy nghĩ trôi dạt. Những suy nghĩ lung tung cứ xuất hiện.
Hơn nửa đêm, đang yên đang lành, sao mình đột nhiên bị đau đầu thế nhỉ? Còn đau đến mức này! Chẳng lẽ là bị xuất huyết não? Chết tiệt, lẽ nào mình có số yểu mệnh à? Tỉnh lại! Tỉnh lại ngay!
Ồ, đỡ đau hơn rồi này? Nhưng mình vẫn có cảm giác như bị dao cùn từ từ cứa trong đầu…
Xem ra không thể ngủ tiếp nữa rồi, ngày mai lấy đâu ra sức đi làm được đây? Làm cái gì mà làm? Mình đau đầu thật đấy chứ! Tất nhiên là phải nghỉ rồi! Khỏi lo bị tên quản lý cằn nhằn cả ngày! Nếu nghĩ như thế thì không tệ chút nào, hì hì, được dịp thảnh thơi rồi!
Sự đau đớn liên hồi đã khiến Chu Minh Thụy dần tích cóp đủ sức lực. Cuối cùng, anh thừa thế xông lên, duỗi thẳng lưng, mở bừng mắt, hoàn toàn thoát khỏi trạng thái nửa tỉnh nửa mê.
Tầm nhìn mờ ảo dần nhuốm màu đỏ phớt. Thứ đầu tiên Chu Minh Thụy trông thấy là một chiếc bàn học gỗ thô sơ. Chính giữa bàn đặt một quyển sổ tay để ngỏ. Trang giấy ngả vàng và thô ráp. Những ký tự lạ được viết bằng mực đen đậm ngay ở đầu trang còn chưa kịp khô, trông vô cùng bắt mắt.
Ở bên trái cuốn sổ tay là một chồng bảy, tám quyển sách được xếp ngay ngắn gần mép bàn. Trên bức tường bên cạnh có gắn ống dẫn màu xám trắng được nối với một chiếc đèn tường. Chiếc đèn mang phong cách cổ điển phương Tây này có kích thước bằng nửa đầu người trưởng thành. Chụp đèn là thủy tinh trong suốt, bên ngoài bọc lưới kim loại đen.
Dưới góc chéo của chiếc đèn tường đã tắt là lọ mực đen được bao phủ trong ánh sáng đỏ nhạt, với những đường nét chạm nổi trông như hình thiên sứ. Một chiếc bút máy tối màu có thân tròn nằm bất động trước lọ mực, sát bên phải cuốn sổ tay. Ngòi bút lấp lóe tia sáng. Nắp bút bị vứt chỏng trơ cạnh một khẩu súng lục ổ xoay lấp lánh ánh đồng.
Súng lục? Súng lục ổ xoay? Chu Minh Thụy sững người. Những thứ anh đang nhìn mới lạ lẫm làm sao. Nó chẳng hề giống căn phòng của anh chút nào!
Trong giây phút kinh ngạc và bối rối, anh nhận ra chiếc bàn, cuốn sổ, lọ mực và khẩu súng lục dường như đều được phủ một lớp voan đỏ thắm. Đó là ánh sáng hắt vào từ bên ngoài cửa sổ. Anh vô thức ngẩng đầu, từ từ hướng tầm mắt lên cao. Giữa bầu trời đêm đen thẫm như được khoác lên mình một tấm vải nhung là vầng trăng đỏ kiêu hãnh đang lặng lẽ tỏa sáng.
Đây là... Nỗi hoảng sợ vô cớ bỗng trào lên trong lòng Chu Minh Thụy. Anh bèn đứng phắt dậy. Trước khi hai chân kịp duỗi thẳng, đầu anh lại nhói lên. Điều đó tạm thời tước đoạt sức lực của anh, khiến anh lảo đảo ngã dập mông xuống chiếc ghế dựa bằng gỗ cứng.
Bộp!
Chừng ấy đau đớn không đủ làm Chu Minh Thụy bận lòng. Anh lại bám lấy bàn để đứng lên một lần nữa. Đoạn, bối rối xoay người, dò xét vị trí hiện tại của bản thân.
Gian phòng này không lớn lắm, hai bên trái phải đều có cửa ra vào màu nâu. Sát bức tường đối diện là một chiếc giường tầng bằng gỗ. Khoảng trống giữa giường và cửa bên trái đặt một chiếc tủ bát có hai cánh ở trên và năm ngăn kéo ở dưới. Cạnh tủ bát là một đường ống màu xám trắng được gắn trên tường ở độ cao ngang tầm người, nối với một thiết bị cơ khí kỳ quặc có bánh răng và ổ trục lộ ra ngoài. Ở góc tường bên phải gần bàn học chất đống những vật dụng như lò than và các dụng cụ nhà bếp như nồi nước, nồi sắt. Bên cửa phải là một tấm gương soi toàn thân có hai vết nứt với phần đế gỗ trổ hoa văn đơn giản.
Khi đảo mắt qua, Chu Minh Thụy loáng thoáng nhìn thấy bản thân trong gương. Tóc đen, mắt nâu, gương mặt bình dị nhưng nét nào ra nét ấy, dáng người mảnh khảnh, mặc áo sơ mi vải lanh…
Chuyện này… Chu Minh Thụy hít một hơi thật sâu. Trong lòng anh dấy lên vô số phỏng đoán hỗn loạn lẫn cảm giác bất lực.
Súng lục ổ xoay, vật dụng mang phong cách phương Tây cổ điển cùng vầng trăng đỏ hoàn toàn khác biệt với trăng ở Trái Đất, không một thứ gì là không hét gào lên một sự thật!
Mình, mình chẳng lẽ đã xuyên qua thời không rồi sao? Chu Minh Thụy chầm chậm há hốc miệng. Là một kẻ đọc văn học mạng từ bé đến lớn, anh luôn mơ tưởng tới chuyện này. Nhưng khi thực sự đối diện với nó, anh lại khó chấp nhận được ngay.
Hẳn đây chính là cái gọi là Diệp Công Thích Rồng rồi. Phải mất mấy chục giây, Chu Minh Thụy mới tự giễu được một câu để tìm vui trong đau khổ. Nếu không có cơn đau đầu nhức nhối buộc tư duy trở nên căng thẳng và rõ ràng, Chu Minh Thụy chắc chắn sẽ hoài nghi mình vẫn còn đang mơ.
Bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh nào… Chu Minh Thụy hít sâu vài hơi, cố gắng trấn an bản thân. Ngay khi tâm trí và cơ thể lấy lại bình tĩnh, những ký ức bất thình lình xuất hiện, lần lượt ùa về trong tâm trí anh!
Klein Moretti, người thành phố Tingen, hạt Awwa, vương quốc Loen ở Lục địa Bắc, vừa tốt nghiệp khoa Lịch sử đại học Khoy…
Cha là thượng sĩ Lục quân Hoàng Gia, hy sinh trong cuộc chiến tranh thuộc địa tại Lục địa Nam. Nhờ khoản trợ cấp tử tuất, Klein mới có cơ hội theo học ở một trường văn pháp tư thục, tạo nền tảng vững chắc để bước vào đại học... Mẹ là tín đồ Nữ Thần Đêm Đen, qua đời khi Klein vừa đỗ đại học Khoy… Sống chung với một anh trai và một em gái trong căn phòng trọ hai buồng ngủ… Gia cảnh không khá giả, thậm chí có thể nói là túng thiếu. Cả gia đình hiện đang sống nhờ vào đồng lương của người anh trai làm nhân viên văn thư ở công ty xuất nhập khẩu...
Là sinh viên tốt nghiệp khoa Lịch sử, Klein thông thạo tiếng Fusak cổ, vốn được coi là nguồn gốc của các ngôn ngữ ở Lục địa Bắc, cũng như tiếng Hermes chuyên dùng để tế lễ, cầu nguyện thường xuất hiện trong các lăng mộ cổ đại…
Tiếng Hermes? Chu Minh Thụy bất chợt nhận ra điều gì đó. Anh day huyệt thái dương nhức nhối và đưa mắt về phía cuốn sổ để ngỏ trên bàn. Hàng chữ trên trang giấy ố vàng dần chuyển từ lạ sang quen, từ quen sang dễ hiểu.
—— Đó là một câu viết bằng tiếng Hermes!
Nét mực đen tươi mới như vừa viết ra nói rằng, “Tất cả mọi người rồi sẽ chết, kể cả tôi.”
Chu Minh Thụy khẽ hít một hơi qua kẽ răng. Nỗi kinh hoàng khôn tả khiến anh ngửa người ra sau theo bản năng, cố gắng tránh xa cuốn sổ và dòng chữ kia.
Anh yếu đến nỗi suýt thì ngã nhào. Vội vàng vịn lấy mép bàn, anh cảm thấy không khí dường như trở nên xao động. Bên tai văng vẳng những tiếng nỉ non, khiến anh nhớ lại cảm giác khi nghe những chuyện ma quái từ miệng người lớn tuổi vào hồi bé.
Chu Minh Thụy lắc nhẹ đầu. Tất cả chỉ là ảo giác mà thôi. Anh lấy lại thăng bằng, rời mắt khỏi cuốn sổ và hít thở dồn dập. Ngay lúc ấy, mắt anh chạm phải khẩu súng lục ổ quay ánh đồng. Một thắc mắc đột ngột hiện lên trong lòng.
“Với gia cảnh của Klein, làm sao hắn có đủ tiền để mua súng chứ?” Chu Minh Thụy không khỏi nhíu mày.
Đương lúc suy tư, anh bỗng nhận ra trên mép bàn xuất hiện nửa vết tay màu đỏ, sẫm hơn cả ánh trăng, dày hơn cả màn the.
Đó là một dấu tay đẫm máu!
“Dấu tay máu?!” Chu Minh Thụy bất giác lật bàn tay phải vừa chạm vào mép bàn, cúi đầu nhìn, chỉ thấy lòng bàn tay và kẽ ngón tay dính đầy vết máu. Đồng thời, cơn đau nhức trong đầu vẫn không ngừng âm ỉ, tuy đã dịu bớt đôi chút nhưng vẫn dai dẳng không dứt.
“Lẽ nào mình đã đập đầu vào đâu đó sao?” Chu Minh Thụy vừa tự hỏi vừa xoay người, tiến về phía chiếc gương soi nứt rạn. Sau vài bước chân, hình ảnh một người đàn ông có dáng vóc trung bình, tóc đen mắt nâu, toát lên vẻ học thức dần hiện rõ trong tầm mắt anh.
Đây chính là Klein Moretti, là mình bây giờ ư?
Chu Minh Thụy khẽ ngẩn ngơ. Vì ánh sáng ban đêm quá yếu ớt và khó bề quan sát, anh đành áp sát vào gương. Mượn ánh trăng đỏ mờ ảo tựa tấm lụa mỏng làm nguồn sáng, anh hơi nghiêng đầu kiểm tra tình trạng ở góc trán.
Tấm gương phản chiếu không sót điều gì. Lỗ thủng kinh khủng nơi thái dương hiện lên rõ mồn một. Máu đông dính bê bết xung quanh miệng vết thương cháy xém.
Trước cảnh tượng ấy, Chu Minh Thụy hoảng đến nỗi lùi huỳnh huỵch về phía sau vài bước, như thể người trong gương là một cái xác khô chứ không phải chính mình.
Làm sao con người có thể sống sót sau khi bị thương nghiêm trọng đến vậy!?
Sửng sốt, anh nghiêng đầu sang bên để kiểm tra phía còn lại. Mặc cho khoảng cách xa và ánh sáng yếu ớt, anh vẫn có thể thấy được cái lỗ xuyên thấu cùng vết máu đỏ thẫm xung quanh.
Chuyện này…?
Chu Minh Thụy hít một hơi, cố gắng bình tĩnh lại. Anh đặt tay lên ngực trái, cảm nhận trái tim đang đập mạnh mẽ, dồn dập đầy sức sống. Anh lại sờ làn da trần trụi, cảm thấy dòng máu ấm áp đang chảy dưới lớp da hơi lạnh. Sau khi ngồi xổm xuống và xác định đầu gối vẫn có thể co duỗi bình thường, Chu Minh Thụy mới đứng dậy, không còn hoảng loạn như trước.
“Chuyện này là thế nào?” Anh nhíu mày lẩm bẩm, định kiểm tra kỹ hơn vết thương trên đầu. Vừa đi được đôi bước, anh chợt dừng lại. Ánh sáng của vầng trăng máu bên ngoài cửa sổ đã trở nên mờ nhạt, không đủ để giúp anh "kiểm tra kỹ càng".
Một mảnh ký ức chợt hiện ra. Chu Minh Thụy quay đầu nhìn về phía đường ống xám trắng và ngọn đèn tường được bao quanh bởi lưới kim loại trên bức tường sát cạnh bàn học.
Đây là loại đèn khí đốt thịnh hành nhất ở thời điểm hiện tại. Nó có ngọn lửa ổn định và hiệu quả chiếu sáng tuyệt vời. Xét theo hoàn cảnh gia đình Klein Moretti, đèn dầu cũng là thứ xa xỉ chứ đừng nói đến đèn khí đốt. Thắp nến mới phù hợp với thân phận và địa vị của họ. Nhưng vào bốn năm trước, khi anh nỗ lực ôn thi vào Đại học Khoy và cần phải thức đêm học bài, người anh trai Benson đã xem đó là một việc hệ trọng liên quan đến tương lai của cả gia đình. Dù phải vay mượn, anh vẫn quyết tâm tạo ra điều kiện tốt nhất để em mình có thể học tập vào ban đêm.
Dĩ nhiên, là người biết chữ và đã đi làm nhiều năm, Benson tuyệt đối không phải hạng hấp tấp, không biết cách xoay xở và không biết tính đến hậu quả. Anh chẳng những dùng lý do “lắp đặt đường ống dẫn khí đốt để nâng tầm khu trọ, tiện bề kiếm khách sau này” để thuyết phục lão chủ nhà trọ bỏ tiền túi ra tu sửa, mà còn tận dụng chức vụ nhân viên trong công ty xuất nhập khẩu để mua đèn khí đốt kiểu mới với giá gần như giá gốc. Nhờ vậy, anh chỉ cần dùng đến tiền dành dụm bấy lâu nay chứ không phải chạy vạy vay mượn ai.
Thoát khỏi dòng hồi tưởng, Chu Minh Thụy quay lại bàn học, mở van đường ống khí đốt và vặn công tắc đèn. Tách, tách, tách... Tiếng đánh lửa liên tiếp vang lên, nhưng ánh sáng không xuất hiện như Chu Minh Thụy mong đợi. Tách, tách, tách! Anh xoay nút thêm mấy bận. Ngọn đèn vẫn tỏa ra ánh sáng mờ nhạt.
“Ừm…” Chu Minh Thụy thu tay lại, day thái dương bên trái, cố gắng lục lọi mớ ký ức để tìm kiếm manh mối. Sau một thoáng, anh xoay người đi về phía cửa ra vào, đến trước thiết bị gắn trên tường được nối với đường ống xám trắng.
Đó là máy tính phí khí đốt!
Nhìn những bánh răng và trục quay lộ ra bên ngoài, Chu Minh Thụy thò tay vào túi quần lấy ra một đồng xu. Đồng xu màu vàng xỉn, ánh lên chút sắc đồng. Mặt trước khắc hình một người đàn ông đội vương miện, mặt sau là con số 1 được bao quanh bởi những bông lúa mạch.
Chu Minh Thụy biết đây chính là Penny, đồng tiền có giá trị thấp nhất trong vương quốc Loen. Một Penny tương đương với ba, bốn tệ ở thế giới cũ. Loại xu này còn có các mệnh giá 5 Penny, 1/2 Penny và 1/4 Penny. Dẫu vậy, cách phân chia này vẫn còn thô sơ, khiến người dân buộc phải làm tròn số tiền trong các giao dịch thường nhật.
Anh lật qua lật lại đồng Penny được phát hành từ thời Vua George Đệ Tam lên ngôi vài lần, nhẹ nhàng vê nó trên đầu ngón tay trước khi nhét vào khe 'miệng' hẹp dài mở theo chiều dọc trên thân máy.
Leng keng, leng keng! Đồng Penny vừa chạm đáy máy tính phí, tiếng bánh răng lập tức vang lên rộn rã, cất lên giai điệu cơ học ngắn ngủi nhưng cuốn hút.
Chu Minh Thụy đăm chiêu nhìn một lát trước khi trở lại chỗ bàn gỗ nguyên màu và bật công tắc đèn khí lên. Tách, tách, tách... Đùng! Trong một thoáng, tia lửa nhỏ đã bùng cháy thành ngọn lửa sáng rực. Ánh sáng rực rỡ tràn ngập trong chụp đèn rồi xuyên qua lớp kính trong suốt, phủ lên căn phòng một màu sắc ấm áp.
Bóng tối đột ngột rút lui, sắc đỏ thẫm biến mất khỏi cửa sổ. Không hiểu sao, Chu Minh Thụy lại cảm thấy an tâm hơn hẳn. Anh sải bước về phía chiếc gương soi toàn thân, chăm chú quan sát huyệt thái dương, không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào.
Sau nhiều lần kiểm tra, anh phát hiện miệng vết thương dữ tợn không còn rỉ chất lỏng nào ngoài vết máu ban đầu, như thể đã được băng bó và cầm máu bằng phương pháp tốt nhất. Xuyên qua vết thương, ta có thể thấy não bộ màu xám trắng đang chậm rãi chuyển động cùng với những mô thịt đang sinh trưởng với tốc độ có thể quan sát bằng mắt thường. Tất cả đều cho thấy vết thương sắp tự lành. Nhanh thì khoảng ba, bốn mươi phút, lâu tầm hai đến ba tiếng nữa, chỗ đó sẽ chỉ còn lại một vết sẹo mờ.
“Hiệu ứng chữa lành nhờ vào việc xuyên qua thời không à?” Chu Minh Thụy nhếch khóe môi phải, mấp máy môi.
Anh trút ra hơi dài. Dù thế nào đi chăng nữa, ít ra mình vẫn còn sống!
Chu Minh Thụy lấy lại bình tĩnh, mở ngăn kéo lấy một mẩu xà phòng, rồi với tay kéo một chiếc khăn trong đám khăn cũ treo bên tủ bếp. Đoạn, anh đẩy cửa và đi đến phòng tắm chung cho khách trọ ở tầng hai.
Ừm, phải xử lý vết máu trên đầu ngay mới được, kẻo trông chẳng khác nào hiện trường vụ án. Mình thì không nói làm gì, nhưng mai Melissa dậy sớm, ngộ nhỡ dọa tới con bé thì toi!
Ngoài hành lang tối om. Ánh trăng đỏ thẫm rọi qua ô cửa ở cuối hành lang, vừa đủ để phác họa đường nét của mọi vật, khiến chúng chẳng khác nào những con mắt quái dị đang lặng lẽ theo dõi người sống từ trong bóng tối. Mang theo trái tim thấp thỏm, Chu Minh Thụy rón rén tiến về phía phòng tắm.
Vừa bước vào phòng tắm, ánh trăng càng thêm sáng tỏ. Mọi thứ trở nên rõ ràng. Chu Minh Thụy đứng trước bồn rửa mặt, vặn vòi nước. Tiếng nước ào ào bên tai làm anh chợt nhớ đến chủ nhà Franky.
Vị tiên sinh thấp bé gầy gò này thường đội mũ dạ, mặc áo gi-lê và khoác lễ phục đen. Vì tiền trọ đã bao gồm tiền nước, lão rất tích cực đi kiểm tra các phòng tắm để nghe ngóng tiếng nước chảy. Hễ tiếng xả nước hơi lớn, lão Franky sẽ lập tức vứt bỏ cái vẻ đạo mạo thường ngày, nện gậy chống vào cửa phòng tắm và rống lên: “Phường trộm cắp đáng nguyền rủa!”, “Lãng phí là một tội ác!”, “Tao để ý đến mày rồi đấy!”, “Còn để tao bắt gặp thì liệu hồn mà vác cái mớ hành lý dơ dáy của mày cút xéo khỏi đây!”, “Tin tao đi, đây là khu trọ đáng đồng tiền bát gạo nhất cái Tingen này! Đố đứa nào tìm được chủ trọ hào phóng hơn tao!”...
Gạt những suy nghĩa đó sang một bên, Chu Minh Thụy ra sức chà lau vết máu trên mặt bằng chiếc khăn ướt.
Khi soi mình trong tấm gương nứt vỡ của phòng tắm và xác nhận chỉ còn lại vết thương ghê rợn cùng khuôn mặt tái nhợt, Chu Minh Thụy không khỏi cảm thấy nhẹ nhõm. Anh cởi chiếc áo sơ mi lanh, chà xát những vết máu dính trên đó bằng xà phòng. Lúc này, anh nhíu mày, nghĩ đến một phiền toái khác. Vết thương quá lớn, máu me lại be bét. Nó chắc chắn sẽ để lại dấu vết trong phòng chứ không chỉ trên cơ thể anh!
Vài phút sau, Chu Minh Thụy xử lý xong chiếc áo sơ mi lanh, vội vàng cầm khăn ướt về phòng. Việc đầu tiên anh làm là lau sạch những dấu tay dính máu trên bàn học, sau đó dùng ánh sáng từ đèn khí đốt để dò tìm những vết tích còn sót lại. Vừa bắt tay vào việc, anh đã phát hiện nhiều vết máu bắn tung tóe trên sàn và dưới chân bàn, cùng một viên đạn màu vàng óng trên bức tường bên trái.
“… Chĩa súng vào thái dương rồi bóp cò?” Các manh mối chợt liên kết với nhau. Chu Minh Thụy lờ mờ đoán ra nguyên nhân cái chết của Klein.
Thay vì vội vàng kiểm chứng, anh cẩn thận lau sạch vết máu và dọn dẹp hiện trường. Xong xuôi, anh mới cầm viên đạn quay lại bàn học, mở ổ xoay bên trái khẩu súng và lấy đạn ra. Âm thanh "keng, keng" vang lên. Tổng cộng năm viên và một vỏ đạn. Tất cả đều ánh lên sắc đồng thau.
“Quả nhiên…”
Chu Minh Thụy liếc nhìn vỏ đạn rỗng, vừa gật nhẹ vừa cẩn thận nhét từng viên đạn trở lại ổ. Ánh mắt anh dừng lại trên dòng chữ “Tất cả mọi người rồi sẽ chết, kể cả tôi” trong cuốn sổ tay để ngỏ bên trái, lòng càng thêm nghi ngờ.
Súng từ đâu ra? Tự sát hay là ngụy tạo thành một vụ tự sát? Một sinh viên tốt nghiệp khoa Lịch sử xuất thân bình dân thì có thể dính líu vào chuyện gì chứ? Sao cách tự sát này lại để lại ít máu đến vậy? Chẳng lẽ nhờ mình xuyên không kịp thời nên tự mang theo phúc lợi chữa lành à?
Sau một lát trầm ngâm, Chu Minh Thụy thay chiếc áo sơ mi lanh khác, ngồi xuống ghế và suy nghĩ về vấn đề quan trọng hơn.
Điều đáng bận tâm lúc này không phải là những chuyện Klein đã trải qua, mà là tại sao mình lại xuyên không đến đây và liệu có thể trở về được hay không! Cha mẹ, người thân, bạn bè, thế giới mạng muôn màu muôn vẻ cùng đủ loại đồ ăn ngon… Tất cả đều thôi thúc anh tìm đường trở về!
Cạch, cạch, cạch… Tay phải của Chu Minh Thụy vô thức bật ổ đạn xoay khẩu súng ra rồi gập lại vào vị trí cũ. Và cứ thế lặp đi lặp lại hành động ấy.
“Hừm, dạo này có khác trước mấy đâu nhỉ, mình chỉ hơi xui xẻo thôi. Đùng một cái xuyên không là thế nào? Xui xẻo… Đúng rồi, mình đã làm nghi lễ đổi vận trước bữa cơm tối nay!”
Một tia chớp vụt qua óc Chu Minh Thụy, xé tan màn sương mù che phủ ký ức.
Vốn là một "chính trị gia bàn phím", "nhà sử học bàn phím", "nhà kinh tế học bàn phím", "nhà sinh vật học bàn phím", "nhà nghiên cứu văn hóa dân gian bàn phím"... Chu Minh Thụy luôn tự xưng mình là "cái gì cũng biết sơ sơ". Bằng hữu đương nhiên cũng chẳng tiếc lời chế nhạo anh là “cái gì cũng chỉ biết lõm bõm”. Và phương thuật chính là một trong những thứ đó.
Khi về quê hồi năm ngoái, anh đã tìm thấy một quyển sách khâu chỉ viết dọc có tên《Tóm Lược Phương Thuật Bí Truyền Thời Tần Hán》tại một sạp sách cũ. Thấy cuốn sách trông khá thú vị, lại nghĩ sau này còn có thể lấy ra 'làm màu' trên mạng nên anh đã mua về ngay. Tiếc thay, hứng thú đến nhanh mà đi cũng vội. Trải nghiệm đọc cuốn sách viết dọc này quá tệ. Anh chỉ lật qua vài trang đầu trước khi tống nó vào xó.
Mãi đến tháng vừa rồi, vận xui bỗng kéo đến dồn dập. Nào là mất điện thoại, khách hàng bỏ trốn, lại còn sai sót trong công việc. Giữa lúc họa vô đơn chí ấy, anh tình cờ nhớ đến nghi lễ đổi vận được chép ngay đầu quyển《Tóm Lược Phương Thuật Bí Truyền Thời Tần Hán》. Nó cực kỳ đơn giản và có thể thực hiện mà chẳng cần phải có chút kiến thức nền tảng nào. Với suy nghĩ đằng nào cũng không mất tiền, anh liền lôi quyển sách ra, làm theo đúng hướng dẫn trước bữa tối. Kết quả là chẳng có gì xảy ra sất.
Ai mà ngờ được, nửa đêm lại xuyên không thật! Đúng là xuyên không thật rồi!
“Chắc hẳn là do cái nghi lễ đổi vận kia rồi… Ừm, mai mình phải làm lại một phen mới được. Nếu thật là tại nó thì mình sẽ có cơ may trở về!”
Chu Minh Thụy ngừng động tác nghịch súng, bật thẳng người ngồi dậy. Dù thế nào đi nữa thì cũng phải thử cho bằng được! Còn nước còn tát!
Xác định được kế hoạch, Chu Minh Thụy bỗng như tìm được chỗ dựa tinh thần. Mọi nỗi kinh hoàng, do dự và bất an đều rút vào góc tối. Giờ đây, anh mới có tâm trạng để xem xét kỹ lưỡng những mảnh ký ức còn sót lại của Klein.
Theo thói quen, Chu Minh Thụy đứng dậy khóa van đường ống. Đến khi ngọn đèn tường lịm dần rồi tắt hẳn, anh mới ngồi xuống lần nữa. Một tay mân mê ổ xoay bằng đồng của khẩu súng lục, một tay tỳ đầu, anh trầm mặc “hồi ức” trong bóng đêm nhuộm sắc đỏ nhạt, hệt như một khán giả đang mải mê dõi theo thước phim trên màn ảnh.
Có lẽ do ảnh hưởng của viên đạn xuyên sọ, những ký ức về Klein mà anh nắm giữ chẳng khác nào những mảnh thủy tinh vỡ. Chúng không những đứt đoạn mà còn thiếu hụt về nội dung. Tỷ như khẩu súng lục ổ xoay tinh xảo kia từ đâu mà có? Tự sát hay là bị sát hại? Rốt cuộc thì câu “Tất cả mọi người rồi sẽ chết, kể cả tôi” trên cuốn sổ kia mang ý nghĩa gì? Hai ngày trước có gặp phải điều kỳ lạ nào hay không?...
Tất cả đều chỉ còn là những mảnh vỡ rời rạc, khuyết thiếu. Ngay cả những kiến thức mà anh biết cũng chẳng khá hơn là bao. Dẫu rằng Klein chỉ mới rời khỏi giảng trường vài ngày và chưa từng lơ là việc học đi chăng nữa, Chu Minh Thụy dám chắc mình sẽ bị đánh trượt ngay lập tức nếu trở lại đại học trong tình hình hiện tại.
“Hai ngày nữa mình sẽ có buổi phỏng vấn ở khoa Lịch Sử đại học Tingen… Đại học ở vương quốc Loen vốn không có lệ giữ sinh viên lại… Thầy hướng dẫn đã viết hai lá thư giới thiệu tới đại học Tingen và đại học Backlund…”
Trong khi Chu Minh Thụy lặng lẽ "quan sát", vầng trăng đỏ ngoài khung cửa sổ cũng bắt đầu nghiêng về phía Tây. Trăng dần khuất bóng, nhường chỗ cho những tia sáng ban mai yếu ớt vươn lên từ phương Đông, dát vàng cả đường chân trời.
Từ gian phòng bên trong vọng ra những tiếng động. Thoáng chốc, tiếng bước chân đã tới gần cửa ngăn.
“Melissa dậy rồi. Con bé lúc nào cũng đúng giờ...” Chu Minh Thụy khẽ cười. Ký ức của Klein khiến anh coi Melissa như em gái ruột thịt của mình.
Nhưng, mình đâu có em gái ruột... Anh tự giễu.
Khác với Benson và Klein, Melissa không học vỡ lòng tại trường dòng Chủ Nhật của Giáo hội Nữ Thần Đêm Đen, mà là tại trường tiểu học công lập. Vào thời điểm em đến tuổi đi học, vương quốc Loen đã ban hành《Luật Giáo dục Cơ sở》, thành lập Ủy ban Giáo dục Trung và Tiểu học, đồng thời phân bổ ngân sách đặc biệt để đẩy mạnh đầu tư vào giáo dục. Sau khi sáp nhập không ít trường dòng, nhiều trường tiểu học công lập đã mọc lên như nấm chỉ trong vòng ba năm. Các trường này tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc trung lập tôn giáo, không dính dáng đến tranh chấp giữa Giáo hội Chúa Tể Bão Táp, Nữ Thần Đêm Đen và Thần Hơi Nước Và Máy Móc. So với trường dòng Chủ Nhật chỉ tốn 1 Penny mỗi tuần, khoản học phí 3 Penny ở trường tiểu học công lập trông có vẻ đắt đỏ hơn hẳn. Nhưng các trường dòng chỉ học một buổi vào ngày Chủ Nhật, trong khi trường tiểu học công lập thì học tới sáu ngày một tuần. Tính ra thì học phí trường công lập rẻ tới độ gần như cho không.
Melissa không như những cô gái khác. Từ bé, em đã mê mẩn bánh răng, dây cót, ổ trục cùng những thứ tương tự và quyết chí trở thành một kỹ sư máy hơi nước. Bởi bản thân từng nếm trải thiệt thòi do học vấn thấp, anh cả Benson hiểu rất rõ tầm quan trọng của giáo dục, nên đã hết lòng vun đắp giấc mơ của em gái, giống như cách anh động viên Klein theo đuổi con đường đại học vậy. Vả lại, trường Kỹ thuật Tingen mà Melissa muốn vào chỉ thuộc bậc giáo dục trung học nên không cần theo học trước ở trường chuyên hoặc trường công.
Tháng Bảy năm ngoái, cô bé Melissa mười lăm tuổi đã đạt được ước nguyện và thi đỗ khoa Máy móc và Hơi nước của trường Kỹ thuật Tingen. Học phí hàng tuần cũng tăng lên 9 Penny. Cũng vào thời điểm ấy, công ty xuất nhập khẩu nơi Benson đang làm việc chịu ảnh hưởng bởi tình hình ở Lục địa Nam, khiến khối lượng công việc và lợi nhuận giảm mạnh, hơn một phần ba nhân sự bị sa thải. Để giữ việc và nuôi sống cả gia đình, Benson chỉ còn cách nhận lãnh những công việc khó nhằn hơn, thường xuyên phải tăng ca hoặc đi công tác ở những nơi có hoàn cảnh khắc nghiệt, chẳng hạn như dạo gần đây.
Klein không phải là không nghĩ đến việc đi làm sớm để đỡ đần anh trai. Thế nhưng, anh chỉ là một người xuất thân từ gia đình bình dân và học ở ngôi trường văn pháp bình thường. Ngay khi bước vào đại học, anh càng cảm nhận rõ những điểm yếu của chính mình. Chẳng hạn như tiếng Feysac cổ. Ngôn ngữ được coi là cội nguồn của mọi ngôn ngữ ở Lục địa Bắc này là thứ mà các cậu ấm cô chiêu bắt buộc phải học từ bé, trong khi anh chỉ được làm quen với nó khi lên đại học. Những chuyện tương tự nhiều vô kể. Klein đã phải dốc hết sức lực, thường xuyên thức khuya dậy sớm mới miễn cưỡng theo kịp người khác và thuận lợi ra trường với thành tích trung bình.
Ký ức về anh trai và em gái ùa về trong tâm trí Chu Minh Thụy. Phải đến lúc tay nắm cửa khẽ chuyển động, cánh cửa phòng he hé mở ra, anh mới sực nhớ mình còn lăm lăm khẩu súng trên tay.
Đây là vật phẩm bán quản chế! Nó sẽ dọa trẻ em! Cả vết thương trên đầu mình nữa! Thấy Melissa sắp sửa bước ra, Chu Minh Thụy vừa dùng tay che lấy huyệt thái dương, vừa vội vã kéo mạnh ngăn kéo bàn học. Anh ném khẩu súng vào trong, tạo ra một tiếng "cộp" lớn.
“Chuyện gì thế ạ?” Nghe tiếng động, Melissa nghi hoặc nhìn Chu Minh Thụy. Em đang ở cái tuổi trăng tròn. Dẫu gương mặt còn gầy gò, xanh xao vì thiếu ăn, em vẫn có làn da căng mịn, tràn đầy sức sống của một thiếu nữ.
Trước ánh mắt tò mò của em gái, Chu Minh Thụy cố giữ vẻ mặt tự nhiên, tay với lấy một vật gần nhất. Đoạn, anh thong thả đóng ngăn kéo lại, che giấu sự hiện diện của khẩu súng. Đồng thời, xúc giác trên bàn tay đang xoa thái dương cũng mách bảo anh rằng vết thương đã khép lại.
Vật anh với tới là một chiếc đồng hồ quả quýt màu trắng bạc được chạm trổ hoa văn dây leo. Chỉ cần ấn nhẹ vào núm, nắp đồng hồ sẽ tự động bật mở. Đó là kỷ vật quý giá nhất mà người cha thượng sĩ Lục quân Hoàng gia để lại cho ba anh em. Nhưng đồ cũ thì vẫn cứ là đồ cũ. Mấy năm nay, chiếc đồng hồ thỉnh thoảng lại giở chứng, có đem ra tiệm sửa chữa cũng chẳng ăn thua. Dù rất thích đeo để khoe khoang, Benson cũng phải ném thứ này ở nhà do không ít lần rơi vào cảnh bẽ mặt vì nó.
Quả thật, Melissa dường như có tài năng thiên bẩm về máy móc. Nắm vững lý thuyết, em bắt đầu mày mò chiếc đồng hồ quả quýt bằng những công cụ ở trường kỹ thuật. Gần đây còn khoe rằng đã sửa nó ngon ơ! Chu Minh Thụy nhìn kim giây đứng im trong chiếc đồng hồ mở nắp. Anh bèn xoay xoay núm vặn để lên dây cót theo thói quen. Tuy vậy, dù đã xoay mấy vòng, tiếng dây cót căng lên vẫn biệt tăm, cái kim dài nhất vẫn trơ trơ bất động.
“Hình như nó tậm tịt nữa rồi.” Anh đưa mắt nhìn em gái, tìm cớ bắt chuyện.
Melissa liếc anh bằng ánh mắt trống rỗng trước khi sải bước đến và cầm lấy chiếc đồng hồ quả quýt. Em đứng nguyên tại chỗ, rút núm đồng hồ lên, xoay vài vòng, thì lập tức có tiếng tích tắc vang lên.
Lẽ ra rút núm là để chỉnh giờ chứ... Chu Minh Thụy ngớ người.
Ngay lúc ấy, tiếng chuông nhà thờ từ xa vọng lại, đổ sáu hồi liên tiếp, âm vang trầm bổng, xa xăm và thánh thót. Melissa nghiêng tai lắng nghe, lại nâng núm đồng hồ lên cao hơn một chút rồi xoay liên tục để chỉnh giờ cho đúng.
“Xong rồi.” Em nói một câu ngắn gọn bằng giọng đều đều không cảm xúc, rồi ấn núm vặn về vị trí cũ và đưa trả đồng hồ quả quýt cho Chu Minh Thụy.
Chu Minh Thụy nở nụ cười xã giao đầy ngượng ngập.
Melissa nhìn anh mình một lần nữa rồi mới xoay người sang phía tủ bát, lấy bàn chải đánh răng, khăn tắm cùng vài món đồ dùng cá nhân. Em mở cửa bước ra ngoài, đi về phía phòng tắm chung.
“Biểu cảm vừa rồi của con bé là vừa ghét bỏ vừa bất đắc dĩ à... Ánh mắt cứ như đang thương hại thằng anh trai thiểu năng này vậy?” Chu Minh Thụy lắc đầu cười khẽ, đóng lại nắp đồng hồ với một tiếng "cạch" rồi mở ra với một tiếng "tách".
Khi lặp đi lặp lại động tác ấy, một câu hỏi bỗng nảy ra trong đầu anh. Nếu không có ống giảm thanh, mà Klein lại tự sát... Thôi thì cứ cho là tự sát đi. Tiếng động chắc chắn sẽ rất lớn. Vậy mà Melissa ở ngay bên kia bức tường lại không hay biết gì. Con bé ngủ quá say? Hay vốn dĩ chuyện Klein tự sát có vấn đề?
Tách, mở ra, cạch, khép lại... Melissa vừa trở về sau khi vệ sinh cá nhân thì thấy anh trai vẫn vô thức đóng mở nắp chiếc đồng hồ quả quýt. Sự bất lực lại hiện lên trong đôi mắt em. Với giọng ngọt ngào, em nói, “Klein, anh lấy hết bánh mì còn lại ra đi. Hôm nay nhớ mua thêm bánh mới, cả thịt và đậu ngọt nhé. Anh sắp đi phỏng vấn rồi. Em sẽ làm món thịt cừu hầm đậu ngọt cho anh.”
Nói đoạn, em lôi chiếc bếp lò từ góc nhà ra, dùng chút than còn sót lại để nhóm lửa, đun một ấm nước sôi.
Đợi nước gần sôi, Melissa liền mở ngăn kéo dưới cùng của tủ bát. Em nhẹ nhàng nâng hộp trà kém chất lượng lên như thể đó là một báu vật. Sau khi rắc khoảng mười lá vào ấm, em rót đầy hai chén lớn và giả vờ như đang thưởng thức loại trà thượng hạng.
Melissa và Chu Minh Thụy vừa uống trà vừa chia nhau hai ổ bánh mì đen.
Lúc này, Chu Minh Thụy vừa yếu vừa đói, đành phải dựa vào nước trà để cố nuốt bánh mì xuống bụng. Anh oán thầm, 'Bánh không lẫn mùn cưa hay có quá nhiều tạp chất, nhưng vẫn chẳng ngon tẹo nào...'
Vài phút sau, Melissa đã ăn xong. Em gom lại mái tóc đen rủ xuống tận lưng áo và nhìn Chu Minh Thụy, “Nhớ mua bánh mì mới đó. Mua tám pao thôi nhé. Trời đang nóng, mua nhiều dễ hỏng. Cả thịt cừu non với đậu ngọt nữa. Anh nhớ chưa!”
Em ấy thực sự quan tâm tới người anh trai mọt sách này, còn dặn đi dặn lại như thế... Chu Minh Thụy gật đầu cười, "Anh nhớ rồi."
Đối chiếu cảm giác trong ký ức của Klein với kinh nghiệm cá nhân, Chu Minh Thụy nhận thấy một pao ở vương quốc Loen xấp xỉ nửa cân ở thế giới cũ.
Melissa không nói gì nữa. Em đứng lên thu dọn qua loa, cất chiếc bánh mì cuối cùng vào túi làm bữa trưa, đoạn cầm chiếc mũ mạng sờn cũ của mẹ và túi vải đựng sách vở tự may đến cửa.
Hôm nay không phải Chủ Nhật nên em phải đi học cả ngày.
Đi bộ từ căn hộ này đến trường kỹ thuật Tingen mất khoảng năm mươi phút. Dù có xe ngựa công cộng với giá một Penny mỗi cây số (tối đa bốn Penny trong thành phố và sáu Penny ở ngoại ô), Melissa vẫn thường dậy sớm đi bộ đến trường để tiết kiệm tiền.
Vừa mở cửa, em bỗng khựng lại, xoay người dặn dò, “Klein, anh đừng mua nhiều đậu với thịt cừu quá đấy nhé. Có khi Chủ Nhật anh Benson mới về. Với lại, mua tám pao bánh mì thôi nhé.”
"Ừ, biết rồi mà." Chu Minh Thụy bất đắc dĩ đáp. Đồng thời, anh lẩm nhẩm từ "Chủ Nhật" trong lòng mấy bận.
Ở Lục địa Bắc, một năm cũng được chia thành mười hai tháng với ba trăm sáu mươi lăm hoặc ba trăm sáu mươi sáu ngày, một tuần cũng có bảy ngày. Cách tính theo thành tựu thiên văn học này khiến Chu Minh Thụy hoài nghi đây là một thế giới song song. Việc chia tuần thì bắt nguồn từ tín ngưỡng tôn thờ bảy vị thần chính thống, gồm Mặt Trời Chói Lọi Vĩnh Hằng, Chúa Tể Bão Tố, Thần Tri Thức Và Trí Tuệ, Nữ Thần Đêm Đen, Mẫu Thần Đại Địa, Thần Chiến Tranh cùng Thần Hơi Nước và Máy Móc.
Dõi theo bóng em gái khuất sau cánh cửa, Chu Minh Thụy bỗng buông tiếng thở dài rồi nhanh chóng dồn hết tâm trí vào nghi lễ đổi vận.
Thực xin lỗi, tôi chỉ muốn trở về nhà…
Chu Minh Thụy lại ngả người ra ghế cho đến khi tiếng chuông nhà thờ phía xa lại ngân nga bảy hồi liên tiếp. Lúc này, anh mới chậm rãi đứng dậy, bước đến tủ lấy quần áo.
Áo gi-lê đen, bộ lễ phục cùng màu, chiếc quần hơi bó ở cổ chân, chiếc mũ quả dưa cùng với vẻ trí thức thanh lịch. Nhìn bản thân trong gương, Chu Minh Thụy có cảm giác như đang xem một bộ phim truyền hình Anh về thời Victoria vậy.
“Mình chỉ đi mua thức ăn với chuẩn bị đồ cho cái nghi lễ kia thôi, chứ có phải đi phỏng vấn đâu mà…” Anh trầm giọng lẩm bẩm, rồi lắc đầu tự giễu.
Klein nhớ nhung cuộc phỏng vấn sắp tới đến nỗi cơ thể đã hình thành phản ứng tự nhiên. Mỗi lần thiếu tập trung, anh sẽ vô thức khoác lên mình bộ quần áo tươm tất duy nhất này.
Chu Minh Thụy thở hắt ra, thay áo vest và áo gi-lê bằng chiếc áo khoác cũ màu nâu vàng, rồi đội chiếc mũ nỉ vành tròn cùng màu lên. Sửa soạn xong xuôi, anh bước tới chiếc giường tầng, nhấc tấm đệm phía trên và thò tay vào một lỗ hổng khó phát hiện ở đáy. Mò mẫm một lúc, anh chạm tới khoảng trống giữa hai lớp vách.
Khi bàn tay phải rụt lại, trong lòng bàn tay anh đã nắm chặt một cuộn tiền giấy, chừng bảy tám tờ xanh sẫm, có chỗ đã bạc màu.
Đây là toàn bộ số tiền dành dụm của Benson, bao gồm cả tiền sinh hoạt cho ba ngày tới. Trong đó chỉ có hai tờ 5 Soli, còn lại đều là 1 Soli. Ở vương quốc Loen, đồng Soli có nguồn gốc từ đồng bạc cổ đứng thứ hai trong hệ thống tiền tệ. Một Soli đổi được mười hai đồng Penny, và có hai mệnh giá là 1 và 5. Loại tiền có giá trị nhất được gọi là Bảng Vàng. Nó là tiền giấy được neo bằng bản vị vàng. Một Bảng Vàng đổi được 20 Soli, có ba mệnh giá là 1, 5 và 10.
Chu Minh Thụy mở cuộn tiền, hít hà mùi mực in đặc trưng thoang thoảng. Đây chính là mùi của tiền. Không biết là do ảnh hưởng từ ký ức của Klein hay vì tình yêu bất biến với tiền bạc trong anh, mà trong giây phút ấy, Chu Minh Thụy bỗng cảm thấy yêu quý những tờ tiền nhỏ bé này đến lạ.
Nhìn xem, họa tiết tinh xảo đến nhường nào, đến cả gương mặt để ria mép, nghiêm nghị, cổ lỗ của George Đệ Tam cũng nom thật đáng yêu... Rồi cả hình chìm ẩn hiện dưới ánh sáng, quyến rũ đến nao lòng và con tem chống giả được thiết kế tỉ mỉ này nữa. Nó hoàn toàn khác biệt với lũ tiền giả lòe loẹt kia!
Sau khi ngắm nghía mấy chục giây, Chu Minh Thụy mới miễn cưỡng rút ra hai tờ 1 Soli, cuộn số còn lại cất trở lại chỗ cũ. Anh vuốt phẳng mảnh vải lót đã sờn, cẩn thận gấp tiền bỏ vào túi trái áo khoác, để riêng mấy đồng Penny lẻ trong túi quần.
Thu vén xong xuôi, anh bỏ chùm chìa khóa vào túi phải, mang theo một túi giấy màu nâu đậm cỡ lớn rồi bước nhanh ra cửa.
Cộp, cộp, cạch… Tiếng chân bước nhỏ dần rồi im hẳn.
Chu Minh Thụy đứng bên cửa, đôi mày không biết đã cau chặt từ lúc nào.
Chuyện Klein tự sát còn nhiều vấn đề, cứ thế này mà ra ngoài, lỡ gặp chuyện bất ngờ thì sao?
Cân nhắc một lúc, anh quay lại bàn, mở ngăn kéo lấy khẩu súng lục ổ quay màu đồng. Đây là thứ duy nhất anh có thể nghĩ ra để tự vệ, và cũng là vũ khí mạnh nhất trong tay anh lúc này! Dù không biết bắn, nhưng chỉ cần rút súng ra là đủ làm người ta khiếp vía rồi!
Anh vuốt nhẹ ổ quay kim loại lạnh ngắt trước khi nhét khẩu súng vào túi đựng tiền. Bàn tay Chu Minh Thụy siết chặt cuộn tiền, ngón tay giữ chắc báng súng. Cảm giác an toàn tự nhiên dâng lên trong lòng. Tuy nhiên, với kiến thức nửa vời của mình, anh chợt nảy ra một nỗi lo, “Lỡ cướp cò thì sao?”
Vô số ý tưởng ùa đến trong tâm trí, Chu Minh Thụy nhanh chóng tìm thấy giải pháp. Anh rút khẩu súng ra, lắc sang trái để mở băng đạn, xoay ổ trống đến vị trí chờ bắn, rồi đóng lại với một tiếng "cách".
Như vậy, dù có vô tình bóp cò thì cũng chỉ là nổ khô!
Sau khi cất gọn khẩu súng, Chu Minh Thụy nhét tay trái vào túi quần và để yên ở đó. Anh dùng tay phải chỉnh lại mũ, kéo cửa ra, bước ra ngoài trong tiếng cọt kẹt của cánh cửa.
Dù đã là ban ngày, hành lang vẫn chìm trong bóng tối, chỉ le lói chút ánh sáng từ ô cửa sổ cuối lối đi. Chu Minh Thụy vội vã bước xuống cầu thang, bước ra khỏi tòa nhà. Khi ấy anh mới thật sự cảm nhận được sự ấm áp từ ánh nắng rực rỡ bên ngoài.
Thời điểm này đã là chính hè, cận kề tháng Bảy, nhưng nhờ vào vị trí nằm ở phía Bắc vương quốc Loen nên thành phố Tingen sở hữu khí hậu rất đặc biệt. Nhiệt độ cao nhất năm cũng chỉ xấp xỉ ba mươi độ C nếu tính theo đơn vị đo ở thế giới cũ. Sáng sớm vô cùng mát mẻ.
Dọc đường ngập ngụa trong những vũng nước bẩn và rác rưởi. Theo ký ức của Klein, ngay cả khi đã có hệ thống thoát nước, cảnh tượng này vẫn thường xuyên xuất hiện ở các khu dân nghèo. Vì đông người, vì cuộc sống.
“Đến đây, đến đây, thịt cá áp chảo thơm lừng đây!”
“Súp hàu nóng hổi vừa thổi vừa húp, sáng làm một chén, đảm bảo tỉnh cả người!”
“Cá tươi rói vừa cập bến đây, 5 Penny một con thôi!”
“Bánh nướng xốp đây! Súp lươn om bia gừng nóng hổi đây!”
“Ốc đây! Ốc biển đây! Ai mua ốc biển nào!”
“Rau xanh mướt vừa hái ngoài đồng đây, tươi ngon mà lại rẻ!”
"......"
Những người bán hàng rong bán rau, bán trái cây, bán đồ ăn nấu chín lớn tiếng rao hàng, mời gọi những khách bộ hành hối hả. Một số người dừng chân, chọn lựa cẩn thận trước khi mua hàng, số khác lại vội vàng xua tay từ chối bởi vẫn chưa tìm được việc làm hôm nay.
Chu Minh Thụy ngửi thấy mùi hôi thối và mùi thơm đan xen trong không khí. Tay trái anh nắm chặt báng súng và tiền giấy, tay phải giữ lấy chiếc mũ nỉ vành tròn, người hơi khom xuống, cúi đầu len lỏi qua con phố xô bồ. Chỗ đông người luôn có kẻ trộm cắp, nhất là ở cái phố đầy rẫy kẻ có công việc bấp bênh, dân nghèo kiếm sống qua ngày và lũ trẻ đói ăn bị xúi bậy đi ăn cắp này.
Khi đi được một quãng, đám đông xung quanh đã thưa thớt hơn, Chu Minh Thụy mới dần ưỡn thẳng lưng, ngẩng cao đầu và nhìn về phía đầu phố. Nơi đó có một nhạc sĩ lang thang đang chơi đàn xếp. Tiếng nhạc khi thì lãng đãng du dương, khi lại tưng bừng sôi động. Xung quanh anh ta là đám đứa trẻ mặc quần áo rách rưới, nước da vàng ệch vì suy dinh dưỡng. Chúng say sưa với tiếng nhạc, nhún nhảy theo nhịp điệu, thân thể tự nhiên lắc lư, tạo nên những vũ điệu ngẫu hứng riêng của mình. Niềm vui tràn ngập trên gương mặt trẻ thơ, cứ như thể chúng là những hoàng tử bé, thiên thần nhỏ.
Một mụ đàn bà có gương mặt thất thần, nước da xám ngoét, khoác chiếc váy dơ dáy đi ngang qua. Đôi mắt vô hồn của mụ chỉ thoáng sáng lên khi nhìn thấy lũ trẻ, như thể mụ đang nhìn chính mình của ba mươi năm trước. Chu Minh Thụy lướt qua mụ đàn bà, rẽ vào một ngả đường khác, rồi dừng chân trước “Tiệm bánh mì Sling”.
Bà chủ tiệm bánh là một bà lão ngoài bảy mươi tên Wendy Sling, với mái tóc bạc phơ và nụ cười hiền từ thường trực. Từ khi Klein bắt đầu có ký ức, bà đã bán bánh mì và bánh ngọt ở đây rồi. Bánh Tingen sấy khô và bánh ga-tô chanh của bà vô cùng ngon…Chu Minh Thụy nuốt nước bọt, tươi cười nói, “Bà Sling, cháu mua tám pao bánh mì đen ạ.”
“Ô kìa, Klein đó hả con, mà Benson đâu rồi, bộ vẫn chưa về hả?” Bà Sling híp mắt cười hỏi.
“Dạ, chắc phải vài ngày nữa ạ.” Chu Minh Thụy đáp lời qua quýt.
Bà Sling vừa gắp bánh mì đen bỏ vào túi giấy vừa tấm tắc, “Thằng bé chăm chỉ thảo vát thật. Nó nhất định sẽ kiếm được cô vợ hiền.”
Nói đoạn, bà mỉm cười tinh nghịch, “Giờ thì tốt rồi, con đã tốt nghiệp, là cử nhân khoa Lịch sử đại học Khoy của chúng ta! Sớm muộn cũng sẽ làm ra tiền thôi. Các con không nên sống ở cái nhà đấy nữa. Kiếm chỗ nào có phòng tắm riêng ấy."
“Bà Sling, hôm nay nom bà trẻ trung phơi phới quá.” Chu Minh Thụy cười gượng đáp. Nếu Klein trúng tuyển và trở thành giảng viên ở đại học Tingen thì gia đình anh chắc chắn có thể tiến lên tầng lớp trung lưu! Những mảnh vỡ ký ức của anh thậm chí còn vương vấn cả giấc mơ về một căn nhà biệt lập nơi ngoại ô, với tầng trên gồm năm sáu phòng, hai phòng tắm và một ban công rộng rãi; còn tầng dưới có hai phòng ngủ, một phòng ăn, một phòng khách, một nhà bếp, một phòng tắm và một hầm chứa đồ.
Nó cũng chẳng phải giấc mơ hão huyền. Ở đại học Tingen, ngay cả giảng viên thực tập cũng nhận được 2 Bảng Vàng mỗi tuần, và sẽ lên tới 3 Bảng Vàng 10 Soli khi vào biên chế. Phải biết rằng Benson, anh trai của Klein, dù làm việc đã nhiều năm nhưng mỗi tuần cũng chỉ kiếm được 1 Bảng 10 Soli, còn công nhân nhà máy bình thường thậm chí không nhận đủ 1 Bảng hoặc chỉ hơn 1 Bảng một tẹo. Trong khi tiền thuê hàng tháng cho một căn nhà biệt lập kiểu đó thường dao động từ 19 Soli đến 1 Bảng 18 Soli.
“Đây chính là sự khác biệt giữa người thu nhập ba, bốn nghìn và người thu nhập mười bốn, mười lăm nghìn một tháng...” Chu Minh Thụy thầm nhủ.
Song, điều kiện tiên quyết cho tất cả những điều đó là anh phải vượt qua kỳ phỏng vấn ở đại học Tingen hoặc Backlund. Về phần những con đường khác… Thiếu người giới thiệu thì đừng mơ đến việc làm công chức, mà ngành Lịch sử vốn dĩ đã ít cơ hội việc làm, đến cả nhu cầu về cố vấn cá nhân cho những nhà quý tộc, chủ ngân hàng hay trùm công nghiệp cũng chẳng nhiều nhặn gì.
Nghĩ đến mớ kiến thức giờ đã vỡ vụn, thiếu trước hụt sau của Klein trong đầu mình, Chu Minh Thụy không khỏi hổ thẹn trước kỳ vọng của bà Sling
“Hừ. Bà lúc nào chả trẻ.” Bà Wendy hóm hỉnh đáp lời, nhét mười sáu ổ bánh mì đen vào túi giấy nâu của Chu Minh Thụy, rồi xòe bàn tay phải ra, “9 Penny.”
Mỗi ổ bánh nặng xấp xỉ nửa pao, sai số tất nhiên là có.
“9 Penny? Hai ngày trước cháu mua là 11 Penny mà bà?” Chu Minh Thụy buột miệng hỏi. Hai tháng trước thậm chí còn tận 15 Penny.
“Nhờ bãi bỏ《Dự luật Ngũ cốc》đấy. Con nên cảm tạ những người đã xuống đường biểu tình kia.” Wendy mỉm cười với đôi tay dang rộng.
Chu Minh Thụy gật đầu, cái hiểu cái không. Phần ký ức này của Klein có hơi thiếu sót, chỉ nhớ mang máng rằng《Dự luật Ngũ cốc》vốn là để bảo vệ giá nông sản trong nước. Trước khi giá tăng tới một mức nhất định, người ta sẽ cấm nhập khẩu lương thực từ các nước phương Nam như Feynapotter, Masin, Lenburg. Tại sao lại có người đi biểu tình phản đối nó chứ?
Chu Minh Thụy không hỏi thêm. Sợ vô ý để lộ khẩu súng, anh đâm ra cẩn trọng, chậm rãi móc ra một tờ tiền đưa cho bà Sling. Nhét ba đồng Penny thối lại vào túi, anh xách túi bánh mì đến chợ "Rau Thịt Các Loại" cách đó một con đường để mua món thịt cừu hầm đậu ngọt theo lời em gái dặn.
.
Tại ngã tư giữa phố Chữ Thập Sắt và phố Hoa Thủy Tiên có một quảng trường công cộng. Lúc này, những chiếc lều bạt được dựng lên kề sát nhau, các tên hề trong bộ trang phục kỳ quặc, hài hước thì tất bật phát tờ rơi khắp nơi.
“Tối mai có biểu diễn xiếc à?” Chu Minh Thụy liếc nhìn tờ bướm trên tay một người khác, lẩm nhẩm đọc.
Melissa chắc chắn sẽ thích, không biết vé vào cửa bao nhiêu nhỉ? Ý nghĩ vừa lóe lên, Chu Minh Thụy đã tiến lại gần.
Khi anh định mở miệng hỏi thăm một tên hề có khuôn mặt vẽ vệt đỏ vàng xen kẽ thì một giọng nữ khàn khàn bỗng vang lên tai, “Muốn bói một quẻ không?”
Chu Minh Thụy quay đầu theo phản xạ, trông thấy một người phụ nữ đội mũ nhọn, mặc váy dài đen đang đứng trước một cái lều thấp bé. Khuôn mặt cô ta phủ lớp phấn màu đỏ và vàng, đôi mắt xám xanh sâu hun hút.
“Không.” Chu Minh Thụy lắc đầu, anh không thừa tiền xem quẻ.
Người phụ nữ cười bảo, “Tôi bói Tarot chuẩn lắm.”
“Tarot…” Chu Minh Thụy khựng lại. Từ này có cách phát âm giống hệt từ Tarot trên Trái Đất! Thật trùng hợp, ở Trái Đất, Tarot cũng là công cụ xem bói, mỗi lá bài đều mang một ý nghĩa biểu tượng riêng.
Khoan đã… Anh chợt nhớ ra nguồn gốc của Tarot ở thế giới này.
Nó không bắt nguồn từ bảy vị thần chính thống, cũng không phải là di sản cổ xưa. Đây là phát minh của vị quan chấp chính Cộng hòa Intis Roselle Gustav từ hơn 170 năm trước.
Vị này không chỉ phát minh ra động cơ hơi nước và cải tiến thuyền buồm mà còn lật đổ sự thống trị của Vương quốc Intis. Nhờ được giáo hội Thần Thợ Thủ Công công nhận, ông đã trở thành vị quan chấp chính đầu tiên của nước Cộng hòa mới.
Sau này, ông ta đánh Nam dẹp Bắc, biến các quốc gia như Lębork thành nước bị bảo hộ, buộc các cường quốc ở Lục địa Bắc như Vương quốc Loen, Feynapotter, Đế quốc Fossac lần lượt cúi đầu. Tiếp đó, ông ta biến nước Cộng hòa trở thành Đế quốc rồi tự xưng là "Caesar Đại đế".
Trong triều đại Roselle, giáo hội Thần Thợ Thủ Công đã nhận được lời sấm công khai đầu tiên kể từ Kỷ thứ Năm, đổi danh hiệu từ "Thần Thợ Thủ Công" thành "Thần Hơi Nước và Máy Móc".
Roselle còn sáng tạo ra thuật bói bài Tarot, đặt nền móng cho cấu trúc và cách chơi bài hiện đại. Trong đó có vài loại mà Chu Minh Thụy quen thuộc như Sheng ji, đấu địa chủ, xì tố Texas, bài Gwent…
Chưa kể đội tàu được ông ta phái đi đã vượt qua bão tố và nhiễu động, tìm ra tuyến đường đến Lục địa Nam, mở màn thời đại thực dân.
Tiếc thay, ông ta lại bị phản bội ở tuổi xế chiều. Vào năm 1198 Kỷ Nguyên thứ Năm, Giáo hội Mặt Trời Chói Lọi Vĩnh Cửu, cựu hoàng tộc Sauron của Intis cùng các quý tộc khác đã hợp sức ám sát Roselle, khiến ông băng hà tại cung Bạch Phong.
Chuyện này… Những kiến thức bỗng ùa về khiến Chu Minh Thụy không khỏi ê răng.
Chẳng lẽ vị này là một người xuyên không trước mình?
Nghĩ vậy, Chu Minh Thụy bỗng tò mò muốn biết hình dáng của bài Tarot ở đây. Anh bèn gật đầu với người phụ nữ đầu đội mũ chóp nhọn, mặt trét thuốc màu kia, “Nếu miễn... À nhầm, giá cả phải chăng thì tôi thử.”
Người phụ nữ cười bảo, “Bởi hôm nay anh là khách mở hàng nên sẽ được miễn phí.”
“Miễn phí thật á? Có điều, của cho là của nợ!” Chu Minh Thụy lẩm bẩm, bụng bảo dạ nhất định phải từ chối hết mấy dịch vụ đi kèm. Có giỏi thì bói được tôi chính là người xuyên không đi!
Nghĩ đến đây, Chu Minh Thụy theo chân người phụ nữ mặt trét đỏ trét vàng kia vào cái lều thấp bé.
Trong lều tối om, chỉ có chút ánh sáng hắt vào, vừa đủ soi rõ mặt chiếc bàn phủ đầy những lá bài. Người phụ nữ đội mũ chóp hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi điều đó. Với tà váy đen dài thướt tha như lướt trên mặt nước, cô vòng qua bàn rồi ngồi xuống vị trí đối diện, châm một ngọn nến. Ánh nến lập lòe làm căn lều đang tranh tối tranh sáng phút chốc trở nên huyễn hoặc hơn.
Chu Minh Thụy ngồi xuống, nét mặt vẫn điềm tĩnh, ánh mắt lướt qua bộ bài Tarot. Anh lập tức nhận ra những lá Ẩn Chính quen thuộc như ‘Nhà Ảo Thuật’, ‘Hoàng Đế’, ‘Người Treo Ngược’, ‘Tiết Độ’...
Lẽ nào đồng chí Roselle thực sự là tiền bối… Liệu có phải đồng hương từ 'Đất Nước Tham Ăn' của mình không nhỉ? Khóe miệng Chu Minh Thụy hơi giần giật, lòng chợt thấy bàng hoàng.
Anh chưa kịp nhìn hết những lá bài bày trên bàn thì người phụ nữ tự nhận mình 'bói rất chuẩn' đã thoăn thoắt gom chúng lại thành một xấp, rồi đẩy về phía anh.
“Anh hãy xáo rồi chọn bài nhé.” Nữ thầy bói của gánh xiếc cất giọng khàn khàn.
“Tự tôi xáo á?” Chu Minh Thụy hỏi lại theo bản năng.
Vệt thuốc đỏ vàng trét trên mặt người phụ nữ mấp máy khi cô ta nhếch mép cười nhạt, “Đương nhiên rồi. Chỉ có anh mới biết được vận mệnh của mình. Tôi là người diễn giải mà thôi.”
Chu Minh Thụy lập tức cảnh giác và hỏi, “Giải thích có tính thêm tiền không đấy?”
“Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian bàn phím” ta đây lạ gì cái trò mèo này!
Nữ thầy bói sững người, một lát sau mới tiu nghỉu đáp, “Miễn phí.”
Chu Minh Thụy yên lòng, nhét sâu khẩu súng lục ổ xoay vào túi, rồi thản nhiên vươn tay xáo bài một cách điêu luyện.
“Xong rồi đây.” Anh đặt xấp bài Tarot đã xáo kỹ ở giữa bàn.
Nữ thầy bói đan tay vào nhau, chăm chăm nhìn vào những lá bài, bỗng mở miệng nói, “Xin lỗi, tôi quên mất chưa hỏi, anh muốn bói về chuyện gì?”
Xưa kia Chu Minh Thụy cũng từng nghiên cứu Tarot để cưa cẩm mối tình đầu, anh trả lời dứt khoát, “Quá khứ, hiện tại, tương lai.”
Đây là bài trận căn bản trong Tarot, lần lượt chọn ba lá tượng trưng cho quá khứ, hiện tại và tương lai.
Nữ thầy bói gật gù, nhếch mép, “Vậy thì mời anh xáo thêm một lần nữa, vừa xáo vừa nghĩ xem mình muốn hỏi gì, như vậy thì mới tìm được lá bài cho câu trả lời mà anh mong muốn.”
Cô đang đùa với tôi đấy à… Nhỏ mọn vừa thôi chứ… Tôi chỉ luôn ngậm từ “miễn phí” trong miệng thôi mà… Ý nghĩ này vừa thoáng qua đã khiến cơ mặt Chu Minh Thụy hơi co rúm lại.
Anh hít một hơi thật sâu, bốc lại bộ Tarot, xáo đi xáo lại một lần nữa.
“Lần này thì không còn vấn đề gì nữa chứ?” Anh đặt xấp bài đã chia lại lên bàn.
“Không.” Nữ thầy bói duỗi ngón tay, rút một lá từ đầu xấp bài, đặt sang phía tay trái Chu Minh Thụy, giọng trở nên trầm thấp, “Đây là lá tượng trưng cho quá khứ.”
“Đây là lá tượng trưng cho hiện tại.” Lá thứ hai được đặt ngay trước mặt anh.
Cô ta cầm lá thứ ba, đặt xuống phía bên tay phải Chu Minh Thụy, “Còn đây là tương lai.”
“Được rồi, anh muốn xem lá nào trước?” Cô ngước cặp mắt xanh xám lên nhìn Chu Minh Thụy.
“Xem ‘hiện tại’ trước đi.” Anh ngẫm nghĩ rồi đáp.
Nữ thầy bói khẽ gật đầu, lật lá bài ở giữa lên. Đó là lá bài số "0", vẽ hình một gã trai trẻ vận y phục lòe loẹt, đeo trang sức rườm rà, vai vác một cây gậy buộc tay nải, bên cạnh có chú chó con.
Nữ thầy bói bình tĩnh hướng đôi mắt xanh xám thẳng vào Chu Minh Thụy, đoạn cất giọng đều đều, “Kẻ Khờ”.