Liên Xô, Stalingard mùa đông năm 1942.
Mùa đông thật khắc nghiệt, từng cơn gió lạnh buốt cứ mãi thổi qua nhưng ngôi nhà đổ nát. Mẹ thiên nhiên không hề có sự khoang dung cho con người, nhất là khi bọn họ đang cày xéo trên mảnh đất của bà ta bằng bom đạn. Đã 4 giờ sáng, chiến lũy ở Stalingard tưởng chừng như có thể bị kéo sập bất cứ lúc nào dưới những loạt đạn và pháo cao xạ của quân đội Phát xít. Từng đợt pháo liên tiếp được bắn từ hướng Bắc về phía các chiến sĩ Hồng Quân. Vũ khí và lương thực của các anh đang gần cạn kiệt và viện quân vẫn chưa thể đến kịp lúc.
Trong tình trạng liên tiếp thua các trận đánh lớn ngay trên đất nước của mình, quân đội Liên Xô đang trong thế nghìn cân treo sợi tóc. Tay của bọn họ vẫn cầm chặt khẩu súng trường nhưng tinh thần chiến đấu thì đang bắt đầu rệu rã, đã hai ngày rồi bọn họ vẫn chưa được ăn gì.
“Nào! Đứng lên và lên nòng cho khẩu pháo đi chứ! Tại sao các anh lại nằm xuống như con rùa vậy!”
Viên chỉ huy trong bộ áo khoác dày màu nâu sẫm hét lên trong sự tức giận, tay của ông ta đã bi thương vì một viên đạn lạc trên chiến trường. Giờ đây tinh thần của binh lính là quan trọng hơn tất cả, và ông cũng biết điều đó. Giờ đây, ông phải dùng mọi cách để tiếp sức mạnh cho bọn họ.
“Đứng lên đi nào!”- Viên chỉ huy trừng mắt và nắm lấy cổ áo một tên lính trẻ đang mếu máo.-“Các anh đang chiến đấu cho quê hương của mình, hãy nhớ lấy điều đó!”
“Tôi sợ lắm!”-Tên lính bắt đầu mếu máo.-“Tôi muốn sống.”
Viên chỉ huy ném hắn xuống chiến lũy, thét to.
“Chỉ cần bọn chúng vượt qua được chiến lũy này thì gia đình, bạn bè của anh sẽ bị bọn chúng giết sạch hết đấy!”
Viên chỉ huy nói không sai. Chỉ cần Stalingard thất thủ, Liên Xô sẽ trong tình trạng vô cùng nguy cấp. Moskva sẽ nằm trong thế bị gọng kìm và hơn hết nếu mùa đông này trôi qua, toàn bộ lực lượng oach tạc cơ của Đức Quốc xã sẽ lập tức xuất kích. Với sức mạnh vượt trội về Không quân, bọn phát xít sẽ dễ dàng nghiền nát đất nước này.
Chiến lũy của Đại đội số 8 giờ đây chỉ còn là nhưng chiếc giường, tủ gỗ được xếp thành một hàng dọc chắn phía trước bọn họ để tránh đạn của kẻ thù. Toàn bộ hệ thống kẽm gai bọc xung quanh thành phố đã bị xe tăng phía Đức phá hủy. Bọn chúng còn cách họ hơn 5km về phía bắc và hoàn toàn có thể tấn công bất cứ lúc nào. Thành phố xinh đẹp tọa lạc phía Tây Nam Moskva giờ đây đã trở thành một bãi chiến trường khốc liệt nhất thế giới, lằn ranh giữa sống và chết chỉ cách nhau một viên đạn.
Bầu trời đang vào đông, tuyết gần như đã phủ trắng khắp cả thành phố nhưng không ai cảm thấy lạnh cả. Trong cái rét cắt da cắt thịt này không một người lình nào có thể lơ là vì vận mệnh đất nước đang nằm trong tay họ. Trong một đội quân mặc toàn bộ đồng phục màu nâu sẫm thì lọt thỏm vào đó, một bóng người nhỏ với chiếc áo khoác màu trắng. Đó là Macxim, đội trưởng của một tiểu đội gồm mười người.
Khác với những tiếng quát tháo của viên chỉ huy đại đội, Macxim bình tĩnh hơn rất nhiều, anh đang ngồi dựa lưng vào một chiếc tủ gỗ cũ kĩ và nhâm nhi một cốc cà phê nóng. Là một người nổi tiếng trong đoàn quân, anh lúc nào cũng khoác lên người bộ trang phục màu trắng, nó kì lạ đến mức đại đội trưởng từng miệt thị anh là “Con ma vô vọng”. Mùa đông, mặc áo trắng để vùi mình trong tuyết là không sai nhưng nó lại vô tình tạo ra một sự nổi bật trên chiến trường và chính những người đồng đội của anh cũng có thể gặp nguy hiểm.
“Tình hình sao rồi?”
Anh đặt cốc cà phê xuống và chạm nhẹ vào vai của Glovin, người đội phó đáng tin cậy của mình.
“Không có gì đặc biệt, hướng 8 giờ, bọn chúng đáng bắt đầu di chuyển khẩu pháo tầm trung. Anh chuẩn bị thế vị trí của tôi đi này. Oáp.”- Glovin vươn vai rồi ngồi xuống bên cạnh Macxim.
Được mệnh danh là kẻ có con mắt tinh tường nhất nước Nga, Glovin được Macxim giao nhiệm vụ quan sát trên chiến trường bằng chiếc ống nhòm. Glovin lớn hơn Macxim tận 15 tuổi nhưng cách xưng hô của hai người bọn họ lại không có gì khác nhau. Khác với Macxim là một chàng trai có vóc dáng mảnh khảnh, Glovin lại vô cùng vạm vỡ có những tin đồn anh ta từng là một võ sĩ đấm bóc có tiếng trước khi tham gia quân đội. Tất nhiên nó chỉ là lời đồn thôi vì giống như những người lính khác, Glovin chỉ là một người thương nhân buôn bán nhỏ bình thường.
“Tầm đó thì bắn được chứ?”- Macxim ghì khẩu súng trường M1 Garand vào người.
“Tôi nghĩ là không, chúng ta nên giao việc tấn công bọn chúng cho pháo binh xử lý.”
Glovin cởi chiếc găng tay, cầm một bao thuốc lá ra. Nó đã bị nhào nát đến thảm và điếu thuốc bên trong cũng xiêu vẹo.
“Chậc, hết rồi.”- Glovin thở dài tiếc nuối sau đó ném bao thuốc rỗng ra đằng sau.-“Bật lửa? Bật lửa đâu rồi?”
Macxim đưa cánh tay lên, cầm bật lửa châm cho anh bạn của mình.
Nét mặt Glovin thoáng bất ngờ nhưng sau đó anh cũng vui vẻ đón nhận lòng tốt của Macxim.-“Bất ngờ thật đấy! tôi cứ nghĩ cậu không hút thuốc.”
Macxim cởi chiếc mũ cối ra khỏi đầu và xoa máy tóc nâu đen đang rối bù của mình. Hơi thở của anh tạo ra một làn khói mỏng.
“Không! Tôi không hút thuốc, tôi đem bật lửa theo để đốt những chai Voldka nếu cần.”
“À loại bom lửa gần đây người ta hay xài đó à.”
“Ừm.”- Macxim chống một tay lên đất và nở một nụ cười đầy thiện cảm.-“Tôi không nhớ mình có quy định trong tiểu đội thì được hút thuốc nhỉ.”
Glovin nhả ra một làn khói thẳng vào mặt Macxim khiến cho anh chàng bị một tràng ho.
“Chậc, khó khăn quá làm gì nhỉ. Đằng nào đây cũng là điếu cuối cùng trong đời.”
Lời nói của Glovin không phải không có căn cứ, bọn họ đang bị bủa vây xung quanh bởi một đội quân đông hơn và được mệnh danh “không hề sợ chết” của Đức Quốc xã.
“Bi quan quá thế.”- Macxim tiếp tục cầm cốc cà phê lên nhâm nhi, nó đã dần lạnh đi dưới cơn mưa tuyết.
“Xin lỗi. Nhưng tình hình này nếu không có quân tiếp viện thì hai ngày sau sẽ mệt lắm đấy.”
Nếu thời tiết có chuyển biến tốt hơn- trời không còn bão tuyết- thì Tập đoàn số 2 của quân địch sẽ hội quân tại nơi này và tiến thẳng vào Stalingard. Điều đó đồng nghĩa với dấu chấm hết của mọi nỗ lực phòng thủ. Bộ binh dày dặn kinh nghiệm cộng thêm sức mạnh của xe tăng, Stalingard hoàn toàn sẽ bị giẫm nát dưới gót giày của người Đức.
Glovin tìm gỡ chiếc mũ cối ra khỏi đầu và lấy từ bên trong ra một mảnh giấy màu nâu. Rồi anh bật chợt nhếch mép tạo nên một nụ cười nhã nhặn.
“Gì thế?”
Macxim khá tò mò, anh đặt khẩu súng trường của mình dựa và chiến lũy, nhìn trộm sang mảnh giấy của Glovin. Nói chính xác hơn, nó không hẳn là mảnh giấy mà là một bức ảnh cũ được gắp gọn vừa đủ để cho vào mũ cối. Bức ảnh chụp một gia đình với một người phụ nữ và một đứa trẻ vừa mới sinh, cô ta đang nở một nụ cười nhưng nét mặt lại đượm buồn.
“Ai thế, vợ của anh à?”
“Không! Em gái tôi, nó đang sống ở Moskva.”- Glovin ném điếu thuốc tàn xuống đất và dùng chân giẫm lên nó.- “Còn đây là con trai của nó.”
“Thằng bé dễ thương ghê.”
“Còn phải nói.”
Glovin cười đắc ý, hai chân mày nhíu lại khiến cho khuôn mặt của anh trở nên già dặn hơn.
“Hai tháng trước tôi có viết thư cho nó, bảo mọi việc ở đây đang trở nên phức tạm và bảo nó phải rời khỏi Moskva để lánh nạn. Nhưng cậu biết không, con bé gửi lại thư hồi âm cho tôi và khẳng định rằng nó sẽ ở lại Moskva và chiến đấu như một quân dân. Thật không tin được, con bé đấy từ trước đến giờ chuột còn không dám giết thì chiến đấu làm sao được. Thế nên dù có chết đi nữa tôi cũng sẽ không để bọn phát xít đến được Moskva đâu.”
“Anh đúng là một người anh tốt. Một người có một thứ để bảo vệ.”
“Còn cậu thì sao? Tại sao lại gia nhập quân đội.”
“Tôi không biết nữa…”- Macxim vừa nói vừa lấy trong túi áo khoác một chiếc nhẫn bạc và mân mê nó.-“Tôi chiến đấu vì nó chăng?”
Anh cầm chiếc nhẫn lên ngắm một lúc, trên đó có một dòng chữ được khắc vội ở bên trong bằng vật nhọn.
“люблю.” (tình yêu.)
Mùa thu 1936, Stalingard…
Thành phố đang trong công cuộc xây dựng lại, hàng loạt đổi mới xuất hiện khiến cho con người không thể đuổi theo kịp thời đại. Tầng lớp quý tộc cũ đã mất dần quyền lực của mình vào tay của chính phủ vừa thành lập. Cả đất nước Liên Xô đang trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ai nấy cũng làm việc vất vả nên bọn họ cực kì khó chịu khi thấy một ai nó đang lưới biềng nằm dài trên hàng ghế gỗ trong công viên trung tâm. Từ những người thợ mọc đang sửa chữa ở một cửa hàng gần đó hay cả những đứa nhóc 7,8 tuổi. Khi đi ngang qua hắn ta đều để lại một cái nhìn khinh bỉ. Một số tên quá khích còn nhổ nước bọt và người hắn.
Nhưng mặc kệ mọi thứ, hắn không muốn làm gì cả. Nhà không có, tiền không có, tài sản duy nhất trên người hắn là một chiếc quần dài qua gối và một chiếc áo khoác da cũ sờn mà bố hắn để lại. Không phải hắn lười biếng mà không làm việc nhưng chẳng ai chịu nhận hắn cả, cơ thể còi cọc của hắn khiến cho những ông chủ làm gần đây lắc đầu vì sợ rằng nếu làm việc quá sức hắn sẽ chết mất. Với chút ít vốn từ tiếng Nga ít ỏi, hắn ta gần như không thể giao tiếp được với mọi người xung quanh.
Mái tóc đen của hắn dài quá cổ, được cột qua loa bằng những sợi vải mỏng. Và chính mái tóc này đã tạo nên một cái nhìn không mấy thiện cảm của người dân nơi đây hay nói đúng hơn là bọn họ có ác cảm với hắn. Mà cũng phải thôi…
Hắn không phải là người Liên Xô.
Mà đơn thuần chỉ là một tên Trung Á lọt vào giữa thành phố Stalingard, một tên hành khất nhưng chẳng ai cho tiền cả. Kẻ đáng thương nhất trong số những người đáng thương. Cha mẹ của hắn đã bị giết trong một cuộc trộm cắp vì họ muốn tìm đồ ăn cho hắn. Sau lần đó, hắn đã thù ghét mọi người trên đất nước này, ghét cả mái tóc vàng và ngôn ngữ của bọn họ. Bằng một cách kì lạ hắn vẫn sống sót được đến ngày hôm nay. Tuy nhiên nếu qua khỏi được ngày hôm nay sẽ là một câu chuyện khác vì đã 2 tuần trôi qua và hắn vẫn chưa có gì vào bụng cả.
“Này, này.”
Một bàn tay nhỏ chạm vào người khiến cho hắn bất ngờ.
“Này!”- Tiếng hét giận dữ từ chủ nhân đôi tay kia khiến cho hắn giật mình tỉnh giấc, dùng toàn bộ hơi sức còn lại của mình để ngồi lên chiếc ghế.
Đó là một cái gái với khuôn mặt ưa nhìn, mái tóc vàng dài đến chấm lưng và đôi mắt màu xanh biếc… Rõ ràng đây là một cô gái người Liên Xô chính gốc. Sau khi nhìn thấy hắn nhìn mình, cô bắt đầu tuồn một tràng diễn thuyết bằng tiếng Nga- thứ ngôn ngữ mà hắn ghét nhất.
“Phiền quá đi mất.”- Đó là những gì hắn nghĩ trong đầu. Tự nhiên lại xuất hiện một đứa dở hơi đến phá giấc ngủ của hắn và trên hết, đó lại là người Liên Xô nữa. Hắn ghét đất nước này, ghét của ngôn ngữ này nên những lời cô gái kia nó chẳng khác nào là tra tấn cả. Hắn thà gặp phiền phức với cảnh sát còn hơn là với những đứa dở hơi như thế này.
Cô gái dần cũng nhận ra hắn không biết tiếng Nga, cô bắt đầu chuyển nói tiếng Anh- một ngôn ngữ ít dùng tại Liên Xô- và tất nhiên hắn cũng không hiểu gì cả. Đơn giản mà nói, hắn không biết tiếng người.
Miệng không nói được nhưng cái bao tử của hắn thì lại khác. Nó phát ra những âm thanh kì lạ khiến cho cô bé giật mình lùi về phía sau. Và rồi cuối cùng, con quỷ nhỏ phiền phức cũng rời đi trả về không gian yên bình cho hắn.
5 phút sau, cô ấy quay trở lại với một ổ bánh mì lớn trên tay và một cốc nước. Cô đặt ly nước xuống trên chiếc ghế gỗ rồi đưa ổ bánh mì về phía hắn ta. Một lần nữa, hắn phải ngồi lên và xua tay bảo cô bé rời đi. Nhưng cô cứ đẩy ổ bánh mì vào tay hắn, một tay còn lại xoa vào bụng của mình.
Tuy nhiên với lòng tự trọng của mình, hắn kiên quyết không nhận thức ăn của người dân nơi đây. Đã từng có một thời gian, hắn bị những gã giàu có đùa giỡn với cái bụng đói của mình. Bọn chúng bảo thợ mộc làm một ổ bánh mì bằng gỗ và trêu đùa với hắn. Sau lần đó, hắn đã tự hứa với bản thân mình rằng đó là lần cuối cùng mình bị lừa như thế.
Gần như mất hết kiên nhẫn, khuôn mặt của cô chực òa lên khóc. Đối với tình cảnh như thế này, nếu người khác nhìn thấy sẽ bắt hắn tống giam vào đồn cảnh sát mất, dù sao thì hắn cũng không muốn nơi cuối cùng mình nằm xuống là nhà giam.
Bằng một cách thô kệt, hắn giật lấy ổ bánh mì trên tay cô rồi ngoạm lấy nó.
Đôi vai hắn rung lên, đã lâu lắm rồi, lâu lắm rồi hắn mới được ăn. Không thể kìm lại được những cảm xúc đó, hắn lại tiếp tục cắn, nuốt lấy ổ bánh trên tay. Và một miếng bánh lớn đã khiến cho hắn bị ghẹn.
Cô mỉm cười rồi đưa cốc nước cho hắn. Hắn nhận lấy nó rồi ngay lập tức uống sạch cả ly nước. Cả người hắn dần hồi sinh lại nhưng thế thì không ổn vì hắn muốn chết kia mà. Và chính cô gái kia đã trì hoãn cái chết của hắn, điều đó càng khiến hắn thêm thù ghét người Liên Xô. Hắn nuốn chết cũng chẳng được yên.
Cô bé cầm cốc nước và rời khỏi công viên với nụ cười trên môi. Còn hắn thì vẫn nằm lại chiếc ghế dài của mình cầu nguyện cái chết hãy mau đến bên cạnh hắn.
Rồi ngày hôm sau lại đến. Hắn vẫn chưa được toại nguyện, vẫn thở và tim vẫn đập như một cơ thể sống. Con nhóc hôm trước đã làm cho kế hoạch của hắn bị phá sản, giờ đây hắn phải nằm và đợi thêm một tuần nữa. Bộ quần áo của hắn đã bắt đầu bốc mùi hôi thối khiến cho ai nấy đi ngang qua cũng phải tránh sang một bên. Mọi người nhìn hắn như thể là một con thú hoang vậy, đầy hôi thối và bẩn thỉu.
Mặt trời vừa qua đỉnh một lúc thì mây đen bắt đầu xuất hiện trên bầu trời, không gian xung quanh dần ám xịt. Những cửa hàng buôn bán nhỏ gần công viên bắt đầu thu dọn những món hàng của mình, những chiếc xe ô tô bắt đầu chạy nhanh hơn vì họ sẽ không thể nhìn thấy đường khi cơn mưa ập đến. Ngay cả những chú chim cũng bắt đầu chui vào trong những hóc cây để tránh cơn mưa. Nhưng đối với hắn thì cơn mưa này có hề gì chứ, hắn đang tìm kiếm cái chết và cơn mưa này sẽ phần nào giúp hắn được toại nguyện.
Một giọt nước rơi xuống mũi của hắn, giọt thứ hai, và trời bắt đầu đổ cơn mưa nặng hạt. Người người lũ lượt chạy qua chỗ của hắn nhưng không ai quan tâm đến hắn cả, đối với họ, hắn còn thua cả một hòn đá bên đường.
Mưa càng lúc càng nặng hạt, kéo theo đó là từng đợt gió giật liên hồi tạo ra những cơn rét cắt da cắt thịt. Bộ quần áo mỏng cùng với chiếc áo khoác sũng nước không thể bảo vệ hắn trước cơn mưa này được. Nhưng hắn lại cười mãn nguyện vì đây là nhưng thứ mà hắn đang cầu mong.
“Hãy giúp ta chết trong cơn mưa này.”- Hắn thầm mong trong lòng.
“Này! Này.”
Có một ai đó đang kéo vạt áo của hắn, trong giữa trời mưa lớn thế này. Và lại thứ tiếng Nga đáng ghét đấy lại vang lên trong khoảng không gian thiêng liêng của hắn. Khó chịu! Hắn cực kì khó chịu khi nghe thấy giọng nói đó, và một lần nữa, hắn phải ngồi lên và mặt đối mặt với kẻ kia.
Dưới chiếc dù vải màu xám nhạt, một bóng người nhỏ khẽ run vì lạnh trong cơn mưa. Máy tóc vàng tung bay lên theo hướng gió. Lại là người phiền phức vào hôm qua à. Hắn ta thở dài ngao ngán.
Cô tiếp tục vươn tay ra phía hắn đưa một ổ bánh mì nóng vừa mới mua được trong giỏ.
“Bánh mì.”- Cô nói bằng chất giọng tiếng Nga rõ ràng.
Rút kinh nghiệm từ ngày hôm trước, hắn không từ chối nữa mà đưa cánh tay ra nhận lấy. Hắn ghét sự phiền phức và cô là một trong những thứ tạo nên sự phiền phức.
Đột nhiên cô bé rụt tay lại, đưa khuôn mặt bất mãn về phía hắn.
“Bánh mì!”- Cô nói lại từ đấy một cách to và rõ ràng.
Hắn tiếp tục đưa cánh tay ra và bắt hụt lấy nó. Thật không hiểu được con nhóc muốn giở trò gì với hắn.
“Bánh mì!”- Lần này cô nhấn mạnh rõ ràng từng chữ.
Hắn đã hiểu phần nào, con bé đang cố gắng tập cho hắn nói tiếng Nga- thứ ngôn ngữ mà hắn ghét cay ghét đắng trong suốt cuộc đời này. Không thể tha thứ được nữa, chẳng lẽ cô ta cũng như người khác xem hắn chỉ là một con chó hoang sẵn sàng vẫy đuôi khi nhặt được một mảnh rác từ một nhà hàng ư? Không không, tới giây phút cuối cùng hắn vẫn sẽ là một con người. Một con người với tấm lòng tự trong to lớn.
Hắn nằm xuống chiếc ghế gỗ, nhắm đôi mắt lại và để ngoài tai những câu nói của người đang đứng đối diện. Dần dần, tiếng nói của cô bị át đi hẳn bởi tiếng mưa.
Cơn mưa dần tạnh, và khi hắn mở mắt ra thì một ngày mới lại đến. Và một lần nữa ông trời lại trêu đùa với số phận của hắn, một kẻ cầu xin cái chết vẫn đang sống.
Rồi ngày một, ngày hai trôi qua, con bé phiền phức kia không đến nữa. Hắn cảm thấy vô cùng thoải mái nhưng cái bụng của hắn thì không được như vậy, nó lại tiế tục kêu gào.
Mùa hè ở Stalingard không nắng gắt, không mưa nhiều. Cơn mưa hai hôm trước chỉ là một trong số những cơn mưa hiếm hoi ghé thăm thị trấn vào dịp này. Vào cuối tuần, công viên gần trung tâm ồn áo thấy rõ, từng cặp nam nữ trong những bộ váy đắt tiền và vest thanh lịch dắt tay nhau dạo xung quanh công viên. Không ai dám bước qua chỗ của hắn cả vì mùi hôi thối của hắn khiến cho họ cảm thấy buồn nôn, ngược lại, mùi nước hoa của bọn họ lại khiến cho hắn thấy buồn nôn. Và rồi một lần nữa, mối phiền phức bé xíu kia lại xuất hiện một cách bất ngờ dưới bộ váy màu trắng ngà.
“Bánh mì.”
Cô tiếp tục đưa ổ bánh mì về phía hắn, cùng với niềm hi vọng nhỏ nhoi rằng hắn sẽ quay lại và nói chuyện với cô. Nhưng từng lúc một trôi qua, niềm hi vọng càng cạn dần và hắn vẫn nhất quyết không quay lưng lại. Phải nói rằng, giả câm được, giả điếc được nhưng giả vờ không đói bụng thì thật khó khăn.
“Bánh mì!”- Lần này cô cố gắng ấn ổ bánh mì vào tay của hắn nhưng lại không nhận được một chút phản hồi nào từ kẻ đang nằm trên chiếc ghế.
Cố gắng kìm nước mắt lại, cô xoay người bước từng bước nhỏ rời khỏi công viên, thì đột nhiên một điều kì lạ đã xuất hiện.
“Banh ì.”
Một chất giọng nam vang lên, đó là tiếng Nga, tuy nhiên nó chưa rõ ràng. Nhưng cô hiểu nó, vì chủ nhân của tiếng nói đó là người đang nằm trên chiếc ghế gỗ kia.
“Bánh mì!”- Cô phát âm lại to rõ một lần nữa để hắn ta nghe và lặp lại đồng thời chìa ổ bánh về phía hắn.
Hắn ngồi lên chiếc ghế, đón lấy ổ bánh từ tai cô và lặp lại một lần nữa.
“Bánh ì.”
Cô phụt cười.
“Bánh mì!!!”
“Bánh mì.”
Vừa dứt lời, hắn cầm ổ bánh mì lên cắn thật mạnh vào nó. Nó rất ngon, là món ngon nhất mà hắn được ăn từ bé đến giờ. Lớp bột nóng giòn cùng với một ít hương sữa tươi khiến cho nước bọt của hắn chảy ra, và hắn đã không kiềm được cảm xúc được nữa mà nuốt lấy nuốt để từng miếng bánh. Khác với lần trước, hắn chỉ nuốt lấy cho qua chuyện, giờ đây hắn đang thưởng thức ổ bánh mì nóng.
“Ngon không? À nhầm anh không biết tôi nói gì mà nhỉ.”
Hắn không phản hồi, bởi vì miệng đang bận ngấu nghiến ổ bánh mì. Và lại một lần nữa, một miếng lớn khiến cho hắn bị ghẹn. Cô cười và đưa li nước về phía hắn.
“Nước! À quên mất, anh đang mắc ghẹn mà.”
Sau khi nốc hết cốc nước mát lạnh, hắn đã phần nào ổn hơn, nhìn cô nhóc bằng ánh mắt chán chường, hắn cố gắng tìm cách nói:
“Ước.”
“Không phải! Nước.”- Cô kiên nhẫn sữa từng lỗi cho hắn.
“Nước.”
Hắn nói nhanh rồi nằm xuống chiếc ghế gỗ quen thuộc, thầm câu mong mình quên đi những gì mình đã nói vì đến bây giờ hắn vẫn ghét nó- đất nước này.
Cô mỉm cười khi nhìn vào lưng hắn sau đó rời khỏi công viên.
Ngày hôm sau lại đến với Stalingard, lúc này hắn mới nhận ra bộ tóc của mình bắt đầu mọc rêu. Giờ đây hắn không còn muốn chết một cách tầm thường nữa vì những hắn đã cảm thấy được bánh mì ngon như thế nào. Hắn muốn một cuộc sống thế này, yên bình và phẳng lặng. Được ăn và nghỉ ngơi, thì còn gì sướng bằng nữa.
Rồi hắn nghĩ đến những người đang phải làm việc cật lực để tìm được cái ăn hay chính tên cảnh sát đêm hôm nọ phàn nàn với hắn về mùi hôi thối. Bọn họ phải làm việc trong khi hắn chỉ nằm trên chiếc ghế gỗ là có thức ăn đến rồi, những con người đó thật tội nghiệp.
Từng cơn gió mùa hạ thổi qua công viên làm cho hắn cảm thấy vô cùng thoải mái, và rồi hắn bắt đầu quan sát mọi thứ xung quanh, từ bầu trời xanh cho đến cái thùng rác đặt bên cạnh hắn. Đột nhiên, một quả sồi rơi vào giữa trán của hắn, sẵn với đám bồ câu đang sà xuống ăn vụn bánh mì gần đó. Hắn nhặt quả sồi lên và ném nó vào giữa đám bồ câu nhìn bọn chúng bay tứ tung rồi cười phá lên.
“Cuộc sống thế này sướng quá đi mất.”Hắn tự cảm nhận như vậy. Nhưng rồi hắn cũng biết thời gian của mình không còn nhiều nữa, mùa thu rồi sẽ đến và khi đông tới hắn sẽ không thể nào sống sót qua được cái lạnh cắt da ở Stalingard. Vì hắn đã xác định chiếc ghế này sẽ là mồ chôn của mình nên đừng mong hắn di chuyển ra khỏi nó, hắn sẽ ở trên chiếc ghế này cho đến khi tim ngừng đập. Và kể cả khi hắn chết người ta cũng sẽ chôn hắn cùng với chiếc ghế này thôi vì linh hồn của hắn đã gắn lên nó rồi.
Chà, cột đồng hồ đã chỉ 3 giờ chiều nhưng cô ta vẫn chưa đến. Đột nhiên từ phía xa, tiếng giày cao gót quen thuộc vang lên, hắn lập tức ngồi lên, dùng tay vuốt nhẹ mái tóc của mình. Vẫn với bao giấy nâu quen thuộc, cô bước đến với bộ đầm màu xanh lá ngọc bích. Mái tóc vàng được chải gọn gàng và buộc lên phía sau.
“Bánh mì.”- Hắn tự tin mình đã phát âm đúng từ đó và chìa bàn tay ra.
“Không.”- cô lắc đầu rồi lấy trong giỏ ra một quả táo đỏ.- “Táo.”
Không phải bánh mì à, hắn hơi thất vọng khi nhìn thấy quả táo. Nhưng không còn cách nào khác.
“Tá… Táo.”
Cô mỉm cười rồi ném quả táo về phía hắn, động thời bước lên chiếc ghế đá ngồi bên cạnh hắn. Gương mặt của hắn hơi co lại tỏ vẻ khó chịu nhưng nó lập tức biến mất khi nhìn thấy nụ cười của cô. Người của hắn bóc mùi vô cùng hôi thối, chính hắn cũng cảm thấy thế nhưng cô lại có thể nói chuyện và ngồi bên cạnh hắn bình thường. Chính điều này khiến hắn vô cùng khó chịu.
Và bất ngờ, cô trỏ tay vào người mình và nói thật to.
“Lisvel.”
Ban đầu hắn tỏ vẻ không hiểu nên cô một lần nữa chỉ tay và người mình nói chậm rãi và rõ ràng.
“Lisvel. L-i-s-v-e-l.”
“Lasvel.”- Hắn đáp lại bằng nét mặt khó chịu.
“Lisvel!!! Tôi gần chịu hết nỏi rồi đấy.”
Hắn lẩm bẩm vài từ ngữ trong đầu rồi nhìn cô.
“Lisve! Toi gân chiu hết nôi rối đây.”
Hắn lặp lại những từ ngữ cô vừa nói như một con vẹt rồi ngoạm lấy quả táo đỏ trên tay. Nó ngon hơn hắn nghĩ, bên trong quả táo mộng nước và rất ngọt. Và rồi hắn quyết định lấy trộm quả thứ hai trong giỏ của cô bé.
Lisvel đã nhìn thấy hành động xấu xí của hắn nhưng cô không giận dữ mà từ tốn bước xuống ghế, nắm lấy bàn tay đầy bụi bẩn của hắn. Cô cố gắng dùng đôi tay nhỏ bé của mình để mở bàn tay đang nắm chặt của hắn. Tuy bản thân hắn yếu ớt nhưng sự cố gắng của cô vẫn không sao lay chuyển được nắm tay kia.
“Mở ra đi nào!”
Cô hạ giọng năn nỉ và hắn cũng đã nản lòng, lắc đầu ngao ngán và mở nắm tay của mình ra xem cô sẽ giở trò gì nữa.
Cô nắm chặt lấy bàn tay thô ráp và đầy bụi bẩn của hắn, cầm lấy ngón trỏ và chỉ vào người mình.
“Lisvel! Lisvel đấy.”- và cô muốn cánh tay của hắn ra.
“Lisvel!”- Hắn đã dần hiểu ra mong muốn của Lisvel, cô muốn hắn gọi mình bằng tên.
“Cảm ơn.”
Ánh mặt trời đã dần buông xuống và như mọi khi, cô phải rời đi khỏi công viên để trở về nhà của mình. Hôm nay, trông cô rất vui sướng, vì hắn- kẻ bị mọi người xem như không tồn tại- đã gọi được tên cô.
“Lisvel. Cảm ơn.”
Cô lập tức xoay lưng lại và nhìn về phía hắn ta, chiếc áo khoác của hắn ngoài còn chưa được chỉnh ngay ngắn. Điều này chứng tỏ hắn chỉ vừa mới nằm xuống và cô đã không nghe lầm, hắn đã nói lời cảm ơn. Chỉ một chút, chỉ một chút thôi, hắn đã trở nên giống một con người.
Lisvel cười thầm trong lòng và cô đang băn khoăn không biết ngày mai mình sẽ làm gì.
Rồi từng ngay cứ thế tàn nhẫn trôi qua, gã vô gia cư trong công viên vẫn không chết mà trái lại còn khỏe mạnh hơn vì có thức ăn nước uống đầy đủ. Nhưng lời đồn đoán xung quanh hắn vẫn chưa ngớt, có người bảo hắn đi trộm cắp tài sản của người khác. Có người lại thấy, hắn thường hay xuất hiện với một cô bé tóc vàng và bọn họ nghĩ rằng hắn đang tống tiền cô ta.
Và điều kì lạ nhất được kể lại bởi người nhân viên vệ sinh quét lá cạnh bên chỗ hắn nằm: “Hắn đã biết nói tiếng Nga.”Than ôi! Câu nói “Mặt trời mọc ở đằng tây còn dễ nghe hơn đấy.”
Trong suốt những ngày hè, không ngày nào Lisvel không gặp hắn. Lúc tiếng tháp chuông đồng hồ đổ vào 3 giờ chiều thì như thường lệ, cô lại xuất hiện ở chiếc ghế đá nơi hắn nằm. Những cuộc gặp gỡ đã trả nên quen thuộc với hắn và việc đó cũng không còn gây phiền phức gì với gã vô gia cư này cả. Chỉ cần ghi nhớ, lặp lại và lặp lại thì hắn đã có một bữa ăn tương đối đầy đủ. Không chỉ bánh mì mà còn có cả những chén súp đỏ, khi thì bánh quy và gần đây nhất là một phần ức gà nướng. Cách đây ba tuần, cô bé còn cầm thêm một chiếc bảng đen và viên phấn trắng để tập cho hắn đọc từng chữ cái.
Nếu nói với người dân nơi đây rằng trời sập xuống thì con dễ nghe hơn việc hắn chịu đọc tiếng Nga. Cũng khó lắm mới thuyết phục được hắn, kể cả khi cô xuống nước van nài và mua thức ăn ngon thì hắn vẫn nhất quyết không lay chuyển. Hắn thà nhịn đói còn hơn phải đọc thứ ngôn ngữ đáng ghét đó, và cứ như thế hắn nằm lỳ ra chiếc ghế đá và không chịu nhấc đầu dậy. Ấy vậy mà, khi hắn liếc mắt và nhìn thấy khuôn mặt buồn bã của cô bé, cái gã tưởng chừng như đến cả Chúa trời cũng không thể lay động nổi trái tim của gã giờ đây đã bị khuất phục bởi một cô bé.
Sau hơn ba tháng cố gắng, giờ đây hắn đã có thể nói được vài câu đơn giản như:”Cảm ơn”, “Xin lỗi”, “Tạm biệt”,… và nhận biết được hầu hết các món ăn mà cô đem đến. Tuy nhiên ngoài cô ra, hắn không hề nói chuyện với người nào khác và cũng chính hắn cũng không hiểu lý tại sao khi gặp Lisvel hắn lại trở nên thoải mái hơn.
Tất nhiên niềm vui nào cũng sẽ đến lúc phải kết thúc. Mùa đông của Stalingard đã đến, bầu trời thiếu đi những ánh nắng tươi mát, thay vào đó là sự u ám của những đám mây mùa đông. Hắn- gã vô gia cư- vẫn cứ nằm dưới gốc cây sồi, hắn không hề lay chuyển trước cái lạnh khiến cho những người lính tuần tra phải khoác lên mình chiếc áo khoác dày màu nâu sẫm. Mọi hoạt động trên phố vào buổi cuối thu đầu đông trở nên tẻ nhạt hơn bao giờ hết. Nhưng tiếng xe ô tô ồn ào ở giao lộ gần công viên đã không còn nữa mà thay vào đó là tiếng lộc cộc phát ra từ vó ngựa.
Vài ngày trước, hắn nhận được nhiều lời cảnh báo của những tên lính tuần tra của thành phồ về một mùa đông khắc nghiệt đang sắp đến. Họ ra lệnh cho hắn phải rời đi nhưng hắn vẫn ngoan cố bám chặt lấy chiếc ghế như thể nó là một phần của hắn vậy. Họ nói, hắn không trả lời. Họ hét lên trong giận dữ, hắn vẫn im lìm nhắm mắt vì vẫn chưa đến 3 giờ chiều. Không còn cách nào khác, bọn họ phải dùng đến bạo lực để lôi hắn ra khỏi chiếc ghế, hậu quả là để lại những vết bầm trên gò má và lưng của hắn. Tuy nhiên, sau tất cả mọi cố gắng thì họ vẫn bất lực và bỏ hắn lại trên chiếc ghế một mình.
Trời bắt đầu lạnh đi, những cơn gió cuối thu cũng phải làm cho những người binh lính ở cung điện Mùa đông cảm thấy rùng mình. Đã hơn 3 giờ chiều và cô bé vẫn chưa xuất hiện, liệu cô đã ngại giá rét mà quên hắn rồi à. Vậy thì tiếc thật đấy vì chỉ vài hôm nữa khi mùa đông đến, khi những bông tuyết rơi xuống công viên Stalingard này thì hắn cũng sẽ trút hơi thở cuối cùng trên chiếc ghế. Hắn sẽ không còn được gặp và chào cô lần cuối nữa.
“Xin chào Lisvel.”- Hắn bất giác nói lên rồi chạm vào đôi môi thô ráp đang bị nứt nẻ của mình.
Tiếng chuông đồng hồ vang lên báo hiệu 6 giờ tối. Bên ngoài đường phố đã dần vắng người qua lại. Ai nấy cũng muốn ngồi cạnh bên lò sưởi để tránh đi những cơn gió lạnh bên ngoài, cùng nhau thưởng thức những chén súp thịt nóng hổi trên bàn ăn.
Hắn chỉ muốn nhắm mắt lại và chìm sâu vào trong giấc ngủ bởi nếu có thức thì cũng chẳng có gì để làm.
“Khốn kiếp! Thật khốn kiếp.”
Một gã say rượu với cái đầu trọc đi ngang qua chỗ của hắn. Gã ta cầm một chai liên tục nốc voldka vào mồm và chửi rủa. Bộ áo khoác xám xịt cộng với chiếc quần dài rách gối đã phần nào nói lên tình trạng của gã kia. Không khác gì hắn, gã kia cũng chỉ là một tên vô gia cư. Với vóc dáng to lớn như một chú gấu nâu, trên đầu gã còn có vài vết sẹo. Chúng đan xen vào nhau tạo nên một cảnh tưởng khó coi.
Không loại trừ trước hợp gã say xỉn vừa rồi là một thành viên trong băng nhóm tội phạm mới thành lặp gần đây tại Stalingard. Hắn đoán vậy. Vì nhiều đêm trước, hắn đã bị giật mình thức giấc bởi tiếng hét thất thanh của một người đàn ông trung niên bị bọn chúng đánh gục và cướp tài sản. Nhưng trên hết đối với hắn, gã bờm nhậu này còn tốt hơn khối người đang ở ngoài kia vì gã sẽ không bao giờ tấn công hắn để cướp tiền cả.
Nhưng ngày hôm này thì khác, mọi việc đã diễn ra ngoài tầm dự đoán của hắn.
“Này! Thả tôi ra.”
Tiếng kêu cứu của một cô gái trẻ vang lên gần chỗ hắn nằm. Lập tức hắn nhận ra được chủ nhân của giọng nói và đứng lên.
“Lisvel!”- Hắn gào lên và cố gắng đánh thức đôi chân tê cóng của mình.
Cô bé đã bị gã bờm nhậu bóp cổ được và nhấc bổng lên không trung. Gã gào rú lên một tràng những câu chửi bới về phía cô và đập mạnh chai rượu vào bồn hoa, cầm một mảnh chai nhọn hoắc chực đâm vào người cô. Khuôn mặt của cô dần tím tái đi vì cổ họng đang bị siết chặt, cô không còn sức để phản kháng lại nữa.
“Không! Lisvel! Không.”
Bằng vài từ tiếng Nga ít ỏi, hắn hét lên như một con chó đang giận dữ. Tông toàn bộ cơ thể vào người gã say xỉn.
Nhận ra công việc của mình đang bị làm phiền, gã kia thả Lisvel xuống và đẩy hắn ngã xuống nền đất.
Gã dần tiến đến hắn với mảnh thủy tinh sắc nhọn trên tay còn hắn thì không có gì ngoài đôi tay gầy gộc chẳng còn sức mạnh. Hắn đứng lên khó nhọc, hơi thở trở nên gấp gáp hơn vì đã lâu rồi cơ thể hắn mới được vận động. Cái chết đã ở trước mặt của hắn và không có lý do gì hắn lại từ chối nó. Hắn đứng yên ở một chỗ và giang hai cánh tay ra trước mặt một kẻ khát máu với mảnh thủy tinh nhọn trên tay.
Nhưng không. Gã kia quay ngoằn đi về phía sau và tiến về phía Lisvel. Gã không thích giết những người đã sẵn sàng để chết như hắn, thứ gã muốn là con bé.
Lisvel vẫn còn choáng sau khi va đập xuống nền đất, gã nhanh chóng tiến đến và dồn toàn bộ lực vào bàn tay để kết liễu con bé.
“Không!!!”
Hắn gào lên, đứng sừng sững trước mặt của gã để chặn đòn tấn công.
“Lisvel là bạn!”
Một chút bất ngờ thoáng xuất hiện trên mặt gã khi hắn bất ngờ xuất hiện. Mặt của gã trọc nhợt nhạt hẳn đi, từng bước nhỏ, gã lùi về phía sau rồi mất hút trong màn đêm.
Hắn dìu Lisvel đứng lên và xem xét vết thương dưới chân của cô.
“Không sao, tôi ổn. Cảm ơn anh.”
“Ừm.”
Hắn đỡ lấy cánh tay của cô và tiến về chiếc ghế gỗ quen thuộc. Lisvel phủi bụi bẩn trên chiếc áo của mình rồi bất chợt ôm chằm lấy hắn.
“Cảm ơn anh rất nhiều. Nếu không có anh, tôi rất có thể đã bị giã kia giết chết.”
Không thể hiểu hết cả câu nói vừa rồi của cô nhưng hắn vẫn khẽ gật đầu.
“Không… không sao đâu.”- Khuôn mặt của hắn thoáng thắt lại vì đau đớn.- “Lis… Lisvel đến đây làm gì? Lý do.”
“Xin lỗi vì tôi đến trễ, nhưng có quà cho anh đấy.”
Cố ấy lấy trong giỏ của mình một đôi bao tay và một chiếc khăn choàng cổ, tất cả đều được làm bằng len trắng. Và hơn hết, chúng được đan bằng chính đôi tay của cô.
“Trời đang lạnh đi đấy, anh hãy mặc những món đồ này trong mùa đông nhé.”
Choàng chiếc khăn qua cổ, mang một găng tay trắng ấm áp vào bàn tay trái đầy bụi bẩn của mình. Hắn đã rơi lệ, có lẽ vì đã lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được sự ấm áp này và hắn đã biết được rằng trong thành phố này vẫn còn người quan tâm đến hắn.
“Này còn cánh tay kia nữa.”
“Không.”
Hắn nhất quyết không chìa cánh tay phải ra mà ghì nó thật chặt vào bụng của mình để che đậy một bí mật đáng sợ. Cú đâm của gã say xỉn ban nãy đã trúng vào bụng của hắn.
Hạnh chưa được bao lâu, mắt của hắn đã mờ đi, hình ảnh trước mặt dần trở nên nhạt nhòa và bàn tay của hắn cũng không còn đủ lực để giữ máu không chảy ra nữa. Sự ấm áp đang dần mất đi và thay vào đó là không gian lạnh lẽo, chưa bao giờ hắn sợ lạnh đến mức này. Cánh cổng giữa sự sống và cái chết đã mở ra trước mắt của hắn, giờ đây hắn không còn gì để hối tiếc nữa.
Gã vô gia cư ngã xuống khỏi chiếc ghế gỗ rồi nằm bất động dưới nền đất lạnh của công viên, cô bé vô cùng hoảng hốt và khi nhìn thấy cánh tay phải đầy máu của hắn, cô đã hiểu ra mọi việc.
“Anh có sao không! Tại sao, anh không nói với tôi!”
Lisvel hoảng loạn đến cùng cực, cố gắng ép đôi tay nhỏ của mình vào bụng hắn để ngăn máu chảy ra. Và chẳng mấy chốc, bàn tay của cô đã bị nhuộm đỏ.
Hắn nhìn cô bé, đưa bàn tay của mình chạm nhẹ vào khuôn mặt của cô rồi nở một nụ cười. Hắn biết rằng thời gian của mình sẽ không còn nhiều nữa vì thế hắn quyết định dùng những hơi thở sau cùng để nói với cô.
“Cảm… cả…. cảm ơn… Lisvel.”
“Đừng nói vậy chứ, anh sẽ phải sống.”
Cô đành dùng chiếc khăn choàng cổ để cột chặt xung quanh bụng của hắn nhằm ngăn máu chảy ra. Khoác một tay của hắn lên vai của mình và kéo lê từng bước nhỏ ra khỏi công viên.
Từng bước, từng bước nhỏ, Lisvel di chuyển một cách nặng nề dọc theo những con phố thiếu đi ánh đèn đường. Đã hơn 8 giờ tối, hai người bọn họ chỉ vừa mới rời khỏi công viên một chút. Hắn đã ngất đi vì mất máu còn cô bé thì đang loay hoay dìu hắn từng bước nhỏ trên con đường lạnh giá. Đêm nay, Stalingard rất lạnh, một phần lạnh vì thời tiết còn phần còn lại thì lạnh vì tình người. Ai nấy cũng nhìn cô bằng ánh mắt ái ngại nhưng không kẻ nào dám giúp đỡ hai người bọn họ.
“Cố gắng lên, tôi sẽ cứu anh bằng mọi giá.”
Cô thì thầm vào tai hắn. Đôi chân của cô đã bắt đầu mất đi cảm giác vì sức nặng mà nó đang gánh chịu. Và tệ hơn tất cả, cô đang bị viêm phổi.
Với tình trạng sức khỏe đang xấu đi trong thấy của mình, cô hoàn toàn có thể bỏ hắn lại nếu như không muốn bản thân suy kiệt vì những cơn gió lạnh buốt. Từ lúc sinh ra, Lisvel đã không có cơ thể khỏe mạnh, cô dễ bị mắc bệnh đến mức gia đình phải có một bác sĩ riêng để thường xuyên chăm sóc cho cô. Và giờ đây cô lại mạo hiểm tính mạng của mình để cứu một gã vô gia cư xa lạ với tính cách quái đản.
Nặng nề và mệt mỏi, cuối cùng cô đã ngã quỵ xuống trước cổng nhà của mình.
Tháng 11 năm 1936, Stalingard.
Hơi ấm đã bao trùm khắp người hắn, nó làm cho hắn nhớ lại những khoảng khắc còn ở bên gia đình của mình. Nó thật ngắn ngủi nhưng cũng thật hạnh phúc. Không biết giờ đây nếu gặp lại cha mẹ của mình, hắn sẽ nói gì đây hay là òa khóc lên như một đứa trẻ. À không, hắn sẽ kể cho họ nghe về cô bạn vừa quen được- người đã khiến hắn thay đổi cái nhìn về cuộc sống.
Mùi súp thịt từ dưới bếp tỏa lên khiến cho cái bao tử trống rỗng của hắn bắt đầu kêu lên. Đôi mắt của hắn dần mở ra và nhìn thấy phía trước là một màu trắng bạc. “Đến thiên đườg rồi à.”- hắn thầm nhủ rồi vươn cánh tay phải ra phía trước.
Đồng tử của bắt đầu co lại một cách kinh ngạc.
Nó- cánh tay của hắn- đã được băng bó cẩn thận bằng băng gạc. Hắn dùng cánh tay sờ lên trên mặt của mình. Mọi vết thương khi bị lính tuần tra đánh vào lúc trước đã được băng bó lại. Cảm giác êm ái đến khó chịu sau lưng báo cho hắn biết mình không còn nằm trên chiếc ghế gỗ ngoài công viên nữa.
Khoan đã nào. Hắn bắt đầu lục lại những kí ức của mình. Đêm hôm trước, rõ ràng là hắn đã bị một tên bờm nhậu say xỉn đâm gục ở công viên và ngất đi. Không thể sai được, hắn lẽ ra phải chết, chắc chắn phải chết vào lúc đó rồi mới phải.
Nhưng giờ đây hắn lại đang nằm trong một căn phòng ấm áp, các vết thương đã được băng bó cẩn thận.
Bao nhiêu câu hỏi dần hiện ra trong đầu hắn.
Cạch.
Cánh cửa gỗ ở căn phòng hắn nằm mở ra, một quý ông với bộ ria xám bạc bước vào. Ông ta cởi chiếc mũ rộng vành màu nâu đen và đặt nó lên chiếc bàn gỗ cạnh giường, để lộ mái đầu hói của tuổi trung niên. Khuôn mặt của ông ấy vẫn còn đang ngáy ngủ, đấy là khuôn mặt cau có đến khó chịu. Ông đặt chiếc valy gỗ của mình lên một chiếc ghế cạnh bên giường của hắn, lấy ra một lọ thủy tinh.
“Đứng lên.”-Ông nói bằng chất giọng đặc sệt của người ngoại quốc.
Hắn gồng người, vịn một tay vào cạnh giường. Cơ thể của hắn vẫn còn đau đớn vì những vết thương hôm trước nên mọi hành động đều được diễn ra với một tốc độ chậm rãi. Bỏ tấm chăn ra khỏi người, hắn giật mình khi thấy vùng bụng của mình được băng kín.
Người đàn ông có vẻ là bác sĩ này đeo chiếc bao tay y tế rồi ấn thử vào vùng bụng của hắn để kiểm tra vết thương. Ngay khi bàn tay của ông ấy vừa chạm vào vết thương, bụng hắn lập tức quặn lại trong đau đớn. Hắn không kêu lên nhưng nét mặt khó chịu của hắn đã nói lên tất cả.
“Tốt rồi, phẫu thuật đã thành công. Nhóc may mắn thật đấy, hôm trước ta phẩu thuật cho 8 người thì đã hết 5 ca thất bại rồi.”
Ông ấy vừa tuồn ra một tràng tiếng Nga khiến cho hắn không sao bắt kịp. Rồi ông ấy lấy hai viên thuốc màu trắng đưa cho hắn cùng với một cốc nước.
“Uống đi, nếu không vết thương sẽ bị nhiễm trùng đấy.”
“Cảm ơn.”
Hắn đón lấy hay viên thuốc kia và cho thẳng vào miệng mình. Mặt của hắn nhanh chóng nhăn lại khi lưỡi cảm nhận được vị đắng từ viên thuốc, hắn nhanh chóng nốc cốc nước lọc vào để nó trôi khỏi miệng.
Vị bác sĩ cười phá lên, ông ta vỗ vào vai hắn.
“Nhóc lần đầu uống thuốc đúng không.”
“Xin lỗi. Khụ… Khụ.”
Cánh cửa phòng lại một lần nữa mở ra, một cô gái với mái tóc màu vàng óng bước vào. Cô ta nhìn giống Lisvel nhưng có vẻ lớn tuổi hơn.
“Gochov! Ông lại giở trò gì với thằng nhóc đúng không.”- Cô ta cáu gắt và nhìn vào tên bác sĩ- “Con bé đã bảo là không nói chuyện nhiều với cậu ta rồi mà.”
Gochov cười hào sảng rồi đứng lên cầm chiếc valy của mình lên.
“Con bé như thế nào rồi?”
“Vẫn còn đang sốt cao. Con bé ngốc này! Nó biết mình đang yếu mà lại dám bước ra ngoài.”
Rồi ông ta bước ra khỏi căn phòng, rảo bước nhanh trên hành lang căn nhà.
Người phụ nữ kiến tiến đến sát bên giường bệnh, nhìn hắn môt hồi lâu rồi cất lời.
“Chào, tôi là Bosa.”- Cô vừa nói vừa trỏ ngón tay vào người mình để giúp hắn dễ hiểu.
“Chào Bosa.”
“Tôi là chị của Lisvel.”
“Lisvel… Lisvel khỏe không?”
Ngay khi nghe thấy tên của cô bé, khuôn mặt của hắn thay đổi thấy rõ.
“Không.”-Người phụ nữ lạnh lùng đáp.
Hắn vội vã bước xuống giường, bước ra khỏi cánh cửa phòng. Nhưng cánh tay của hắn đã bị người phụ nữ kia giữ chặt.
“Cậu định làm gì?”
“Gặp… Lisvel… tôi gặp… Lisvel.”
“Với tình trạng này à!”- Cơ mặt Bosa chau lại thấy rõ, cô ta đang không hài lòng với cách cư xử của hắn.
“Không.”
Bosa lắc đầu rồi dìu hắn trở về giường bệnh. Vốn tiếng Nga ít ỏi không thể giúp hắn nói hết những suy nghĩ của mình cho Bosa nghe được, hắn quan tâm đến Lisvel vì cô là người duy nhất quan tâm đến hắn.
“Đúng như lời con bé nói, cậu chỉ nói được một chút tiếng Nga. Thật kỳ lạ khi cậu lại tồn tại được ở Liên Xô này trong ngần ấy năm.”
Hắn hiểu được hàm ý trong câu nói của bosa và khẽ gật đầu.
“Gia đình cậu ở đâu?”
“Gia đình?”- Hắn hỏi lại Bosa.-“Là gì vậy?”
Cô ta như đã ngừng thở, trái tim của cô thắt lại khi nghe thấy câu nói của hắn. Đó là câu trả lời không thể đau đớn hơn. Bosa cười gượng rồi xoa mái tóc của hắn.
“Thảo nào con bé thích cậu đến như vậy…”
Hắn ngạc nhiên nhìn cô nhưng không có ý định phản đối hành động của Bosa. Bàn tay của cô khiến cho hắn nhớ đến mẹ của mình, thật mềm mại.
“Cậu nằm yên ở đây, tôi sẽ đem thức ăn lên.”
Bosa nói rồi rời khỏi căn phòng.
Thật bất ngờ, vừa mới ngày hôm qua hắn còn nghĩ rằng mình sẽ chết trong cái lạnh giá của công viên. Mà giờ đây, hắn đang được chăm sóc trong một căn phòng rộng rãi và ấm áp, có bác sĩ đến chữa bệnh, có người phục vụ thức ăn…. Mọi việc diễn ra cứ như là một giấc mơ vậy. Thật kì lạ, nếu cách đây ba tháng, hắn ghét người Liên Xô đến tận xương tủy giờ đây hắn lại được sự chăm sóc của bọn họ và còn bảo vệ họ nữa chứ.
Có nhiều thứ trong cuộc đời này, hắn không đoán được.
Vài phút trôi qua trong căn phòng khiến cho hắn suýt chút nữa ngủ quên vì sự êm ái của chiếc giường. Bosa mở cánh của gỗ và bước vào trong với một đĩa súp thịt nóng hổi. Cô ta đặt nó lên bên cạnh giường bệnh của hắn.
“Tự ăn được chứ.”-Bosa ngỏ lời giúp đỡ.
“Vâng.”
Hắn ngồi lên chiếc giường, cầm chiếc muỗng gỗ cẩn thận uống từ muỗng súp nhỏ. Vị của nó rất ngon và quen thuộc.
“Bosa… làm nó.”
“Ừ, tôi làm đấy. Lisvel chắc đã đem cho cậu vài lần rồi nhỉ. Sao nào ngon không?”
À, đúng rồi, hắn đã nhớ ra cô nhóc đã từng đem cho hắn món súp này một lần. Vị của nó khiến cho hắn không sao quên được.
“Thiếu mặng mọt chút.”
“Chà chà, cậu nói chuyện hệt như con bé vậy. Và xem ra tiếng Nga của cậu cũng chưa tốt nhỉ”
Bosa tiến lại bên tủ sách, cầm một quyển vở trắng và một cây bút chì cho cậu,
“Cầm lấy.”- Giọng cô ta như thể ra lệnh.- “Từ nay cậu sẽ sống ở đây và tôi sẽ là người dạy tiếng Nga cho cậu.”
Hắn lập tức ngay người ra khi nghe thấy những từ ngữ phức tạp từ phía Bosa. Nhưng hắn hiểu được rằng cô ta muốn dạy tiếng Nga cho hắn.
Nếu cách đây vài tháng trước, hắn sẽ lập tức từ chối và bỏ đi ngay lập tức, tuy nhiên giờ đây, mọi thứ đã khác đi. Hắn đã tìm được niềm vui của mình và trên tất cả hắn muốn nói chuyện với Lisvel.
“Vâng… nhờ cô vậy.”
“Tốt.”- Bosa ngồi xuống chiếc bàn làm việc, cầm chiếc bút lông ngỗng và viết lên trên một mảnh giấy lớn toàn bộ chữ cái tiếng Nga. Rồi cô đưa nó cho hắn.- “Hãy học nó đi, hai ngày sau cậu sẽ được học những từ ngữ phức tạp hơn.”
Khác hẳn với Lisvel, cách dạy của Bosa nghiêm khắc hơn thấy rõ. Cô ta phát âm to và rõ ràng từng chữ cái và bắt hắn phải đọc theo mình một cách chuẩn xác nhất có thể. Nhưng với sự giúp đỡ của những bài học trước đây của Lisvel và sự ghi nhớ xuất sắc của mình, hắn đã khiến cho Bosa cảm thấy vô cùng hài lòng. Chỉ trong ba giờ học, hắn đã ghi nhớ hầu hết các chữ cái trên tờ giấy.Thứ mà một người Nga bình thường cũng phải mất đến cả ngày để học thuộc.
“Bất ngờ thật đấy! Cậu học nhanh thật… à tôi còn chưa biết tên cậu.”
“Tôi… không tên.”
Đã từ lâu, hắn đã quên mất tên của mình vì nó cũng không có gì quan trọng.
“Thế này nhé.”- Bosa cầm một chiếc bút rồi đưa nó cho hắn.- “Cậu cứ chọn ngẫu nhiên những chứ cái trong này đi và nó sẽ trở thành cái tên của cậu. Cậu cũng muốn có tên để gọi như Lisvel chứ.”
“Ừm.”- Hắn gật đầu rồi cầm chiếc bút lên, cẩn thận khoanh tròn từng chữ cái.- “M-A-C-X-I-M.”
“Xem nào.”- Bosa cầm tờ giấy lên từ tay hắn.- “Macxim. Vậy cậu tên là Macxim nhé.”
“Macxim.”
Hắn lập lại từ đó một cách sáo rỗng rồi cười thầm trong lòng. Đó là tên của hắn.
Đã nửa tháng kể từ ngày hắn đến nhà của Lisvel, mùa đông cũng đã đến. Cơn mưa tuyết đầu tiên cũng đã xuất hiện ở Stalingard, công viên trung tâm thành phố giờ đây đã được bao phủ bởi một màu trắng xóa huyền ảo. Ngày mà hắn dự định mình sẽ chết cũng đã trôi qua từ tuần trước, thế mà giờ đây hắn vẫn đang sống khỏe mạnh trong một căn phòng ấm áp.
Macxim giờ đây đang đọc một quyển đồng thoại do chị Bosa mua từ hai ngày trước. Chỉ trong ba tuần ngắn ngủi hắn đã học thuộc toàn bộ bảng chữ cái và nói được nhiều câu xã giao đơn giản. Bosa từng là một giáo viên trước đây nhưng cô chưa bao giờ thấy ai lại học được nhanh như Macxim. Hắn không chăm học, nói trắng ra là một tên lười biếng, nhưng điều đó không quan trọng nữa vì hắn đang làm hết sức để nói chuyện với Lisvel.
Bộ dạng của hắn cũng đã gọn gàng hơn rất nhiều. Mái tóc đen dài đã bị Bosa cắt đi vì cô cảm thấy chúng quá luộm thuộm. Bộ quần áo cũ đã được giặt cẩn thận và đặt vào trong tủ. Vì không như mái tóc, hắn không muốn bỏ chiếc áo khoác kia đi vì nó là một phần kỉ niệm của hắn. Chiếc áo khoác xanh lơ mà giờ đây hắn đang mặc được từng thuộc về cháu của ông bác sĩ Gochov, cậu ta đã qua đời hai năm trước nên ông quyết định tặng loại toàn bộ quần áo của cậu cho Macxim. Chiếc áo kể ra cũng hơi rộng so với dáng người mảnh khảnh của hắn, nên khi mặc vào trông hắn cư như một đứa trẻ vậy.
Đã quá trưa, bụng của hắn lại bắt đầu gào lên. Mùi đồ ăn dưới bếp báo hiệu cho hôm nay sẽ là một bữa ăn thịnh soạn. Macxim bước ra khỏi phòng mình, đi dọc theo dãi hành lang trong căn nhà, khi đến phòng của Lisvel, hắn chợt dừng lại và nhìn cánh cửa một lúc. Suốt nửa tháng nay Lisvel vẫn chưa hề bước ra khỏi căn phòng. Ông Gochov ngày nào cũng phải đến nhà để xem xét bệnh tình của cô ấy. Không được gặp con bé, hắn như ngồi trên đống lửa vậy. Cứ bứt rứt không yên.
Nhưng hôm nay thì khác, khi hắn bước đến. Cánh của phòng Lisvel chợt mở ra.
Một cô gái nhỏ với mái tóc vàng hoe đứng bên cánh cửa. Vừa nhìn hắn, đôi mắt của cô đã òa lên nức nở.
“Chào Lisvel.”- Hắn gượng gạo vẫy bàn tay của mình về phía cô.
Bất ngờ, cô chạy ngay đến và ôm chặt lấy người Macxim, dụi đầu vào lòng ngực của hắn.
“Òa òa, anh ác lắm đấy! Anh có biết tôi lo lắng đến mức nào không?”-Đôi mắt của cô đã nhòe lệ.
“Xin lỗi.”
“Anh xin lỗi làm gì chứ!!?”- Lisvel bắt đầu hờn dỗi.- “Giờ đừng đi đâu nữa, hãy ở bên cạnh tôi nhé.”
“Được, nếu đó là điều cô muốn.”
Cô nhìn hắn bằng ánh mắt ngạc nhiên.
“Giờ đây anh có thể nói tiếng Nga tốt thế.”
Hai người bọn họ đang vui vẻ trò chuyện với nhau thì từ cầu thang, tiếng của Bosa vọng lên.
“Macxim, đồ ăn đã có rồi này.”
Lisvel buông đôi tay ra khỏi người hắn khi nghe giọng Bosa, cô lúng túng lùi về phía sau.
“Macxim? Đó là tên của anh à.”
“Ừm, tôi vừa “chọn” nó hai tuần trước.”
Từ phía cầu thang, chị Bosa bước lên.
“Thật tình, Macxim này, cậu định đợi tôi gọi đến bao giờ nữa.”- Rồi cô đưa ánh mắt thăm dò sang Lisvel.- “Còn nhóc này, em vẫn phải ở trong phòng dưỡng bệnh, nhớ chứ.”
“Không sao đâu, đằng nào thì em cũng đã khỏe mạnh rồi mà.”
Bosa chau mày lộ rõ vẻ không hài lòng.
“Gochov nói với chị em cần phải nghỉ ngơi một tháng thì bệnh mới đỡ được.”
“Không đâu”
Lisvel đáp lại một cách trẻ con, cô trốn sau lưng Macxim và biến hắn thành một tấm khiên đỡ đạn.
“Con bé này”- Bosa khoanh tay trước ngực, lắc đầu ngao ngán trước sự ương ngạnh của con bé.
Rồi bất chợt, cả ba người cùng bật cười.
Một năm dài nhanh chóng trôi qua…
Trong căn nhà của bọn họ chưa bao giờ mất đi tiếng cười. Cho đến một ngày…
Đó là một buổi chiều lạnh giá, Macxim vừa tan ca trực của mình bên ngoài một xưởng gỗ thông. Bảy tháng trước, hắn ta vừa được nhận vào làm việc bởi sự giới thiệu của ông Gochov. Giờ đầy Macxim đã có thể nói chuyện được như một bản xứ. Ngay cả những đồng nghiệp cũng phải ngạc nhiên về nhiên về sự hoạt bát của hắn, mọi người yêu quý hắn và hắn cũng đã niềm nở hơn.
Nhưng đó không phải là niềm vui lớn nhất của hắn…
“Anh vừa về à.”
Nghe thấy tiếng bước chân ngoài cửa, Lisvel đã chạy ngay xuống dưới nhà và ôm chằm lấy Macxim.
“Ừm, anh vời về đây. Hôm nay anh có mua bánh hạt dẻ cho Lisvel đây.”
“Oa, đưa nó cho em nào.”- Cô cố vươn cánh tay lên để lấy túi bánh trên tay Macxim.
“Chờ chút đã nào. Anh còn chưa kịp cởi giày ra này.”
“Không, đưa cho em trước.”
Lisvel nhón chân lên để và điều đó khiến cho cô mị mất đà và đổ sầm vào người Macxim. Hai người ngã ra dưới đất khiến cho chiếc tủ gỗ đặt ở trước nhà bị đổ xuống.
“Gì đấy.”- Giọng Bosa vang lên từ căn bếp.- “Không cần thiết phải quấn quít với nhau như vậy đâu, ai mà chả biết hai người thân thiết với nhau.”
Lisvel thoáng đỏ mặt khi nghe thấy câu nói đó, cô kéo Macxim đứng lên và nở một nụ cười.
“Để cảm ơn anh vì đã mua bánh cho em. Hôm nay, em sẽ cho anh biết một bí mật.”
“Gì chứ? Phải chăng là ý nghĩa của hai từ tiếng Nga mà anh đã hỏi em vào vài ngày trước.”
Khuôn mặt Lisvel giờ đây đỏ như như bị sốt vậy, cô thì thầm trong miệng: “Đồ ngốc.”
Sau một bữa tối thịnh soạn bằng súp phô mai và thịt bò nướng gỗ táo. Hắn định bước lên phòng của mình để nghỉ ngơi thì bị Lisvel khoác vai và kéo vào phòng của cô ấy. Cô dùng hay bàn tay của mình che mắt hắn. Chắc hẳn phải có một thứ gì rất quan trọng cô ấy mới giữ bí mật như thế.
“Sao nào Lisvel, anh mở mắt ra được chưa vậy?”
“Chờ một chút đã.”
Lisvel rướn người, dùng chân của mình để bật bóng đèn điện vì hai tay của cô đang bận che mắt của Macxim.
Cạch.
“Được rồi!”- Cô reo lên rồi mở đôi tay của mình ra.
Hắn bắt đầu mở đôi mắt của mình ra, nhìn xung quanh căn phòng. Nó được dán đầy những tấm ảnh chụp đầy màu sắc, không, không phải, đó vốn chỉ là những tấm ảnh trắng đen nhưng đã được Lisvel tô lại cẩn thận bằng màu nước. Những tấm ảnh chụp cảnh hồ nước thì được cô ấy chọn màu xanh nhạt để vẽ lên khiến cho chúng trở nên sinh động hơn rất nhiều. Hàng trăm bức tranh được dán kín phòng, mỗi tấm ảnh chụp một cảnh đẹp khác nhau từ rừng núi cho đến những con sống xanh biếc. Chúng vốn chỉ là những bức ảnh trắng đen tẻ nhạt nhưng dưới đôi tay của Lisvel thì chúng lại trở nên sống động đến lạ thường.
“Thấy thế nào?”- Cô bé nhìn vào mắt của hắn rồi đặt câu hỏi.
“Đẹp quá, chưa bao giờ anh được chứng kiến một vẻ đẹp thế này.”
“Em biết mà.”
Lisvel nở một nụ cười đầy từ hào, em xoay một vòng như một vũ công bale sau đó chạm nhẹ vào chiếc máy ảnh bên cạnh chiếc bàn gỗ.
“Là nhờ nó đấy.” – Cô vuốt nhẹ vào ống kính chiếc máy ảnh.-“Lúc em còn khỏe mạnh, em thường thích đi du lịch cùng với Bosa. Nó cực vui luôn, được tận mắt quan sát từng rừng thông, từng hồ nước và giao tiếp với mọi người đúng là một trải nghiệm tuyệt vời. Em đấy nhé. Yêu đất nước này cực kì luôn.”
Hắn đã từng nghe về bệnh tình của cô, từ lúc sinh ra Lisvel vốn đã rất yếu. Phổi của cô rất dễ bị mắc bệnh và trong quá khứ cô đã từng suýt chết hai lần do bị viêm phổi vì thế Bosa luôn cấm tiệt Lisvel ra ngoài khi trời lạnh. Theo lời Gochov, thì thời gian của Lisvel không còn nhiều nữa nên hắn muốn dành khoảng thời gian ngắn gủi hai người ở bên nhau để làm cô ấy được vui.
“Đây này.”- Cô ấy hào hứng chỉ tay vào một bức hình. Đó là một cánh rừng thông xanh ngát được thể hiện một cách xuất sắc bởi những nét vẽ của Lisvel.- “Đây là một cánh rừng thông ở Leningard, em chụp tấm hình này 4 năm về trước và mất đến 2 tháng để nhớ lại toàn bộ màu sắc của khu rừng.”
“Đẹp đấy!”
Đó là lời khen thật lòng của hắn.
“Còn đây là điện Kremlin, tu viện Percherky,…”- Cô bé cứ thao thao bát tuyệt về những tấm ảnh của mình. Cho đến một tấm hình, giọng của cô nhỏ hẳn đi.
Điều đó khiến cho Macxim cảm thấy kì lạ và quyết định nhìn thật kĩ vào tấm hình này. Đó là một buổi đêm nhiều sao, nhìn cảnh vật xung quanh hắn có thể quả quyết đây là một công viên với nhiều cây cối và bồn hoa. Trên dưới bức ảnh có ghi dòng chữ bằng màu trắng.
“Công viên Stalingard, em chụp nó khi nào vậy?”
Đúng là một nơi hoài niệm, nó khiến hắn nhớ lại những ngày tháng cơ cực dạo trước. Và bằng một cách kì lạ, hắn nhìn kĩ vào góc phải của bức hình, trên chiếc ghế gỗ cạnh bên cây sồi. Có một bóng người đang lặng lẽ ngắm nhìn bầu trời sao.
Đó chính là hắn, và cô là người chụp bức hình này.
“Đó là lý do em đến và bắt chuyện với anh à.”
Lisvel mím chặt môi, rồi cô bé khẽ gật đầu.
“Vâng, vì lúc đó em thấy ánh mắt của anh lạnh lẽo đến lạ. Cứ như đã cô đơn từ rất lâu vậy.”
“Em không sợ anh như những người khác à? Bọn họ thường chọn cách tránh né để không ngửi thấy mùi hôi của anh.”
Cô lắc đầu rồi nắm lấy bàn tay của hắn.
“Không đâu. Em không hề sợ hãi, vì khi nhìn anh em lại nghĩ ngay đến mình.”
“Anh đã hiểu rồi. Cảm ơn Lisvel.”
Hắn lướt mắt qua toàn bộ các tấm hình trong phòng rồi phát hiện ra một khoảng trống trên tường. Nó trống rỗng đến mức khó chịu.
“Khoảng trống trên tường dùng để làm gì vậy?”
“À, lúc đấy sức khỏe của em đã bắt đầu yếu đi nên không thể có một chuyến du ngoạn ở miền Nam được. Em để trống một khoảng để sao này nếu có cơ hội thì sẽ đi đến đấy và chụp những tấm hình.”- Rồi đột nhiên giọng của cô chùn xuống.-“Nhưng xem ra, ngày đấy sẽ không đến. Đôi chân của em giờ đây đã rất yếu.”
Câu nói của Lisvel khiến cho lòng hắn quặn đau, hắn ước gì mình có thể bán đi toàn bộ thời gian, tuổi thọ và sức khỏe của mình để giúp cô khỏi bệnh. Hoặc nếu không…
“Nếu em muốn những bức hình đó thì anh sẽ trở thành đôi chân của em.”
Một ý kiến táo bạo đột nhiên xuất hiện trong đầu hắn. Hắn sẽ đi đến những vùng đất này và chụ những tấm hình giúp cô.
“Ý anh là sao?”
“Anh sẽ đến miền Nam và chụp những tấm hình này giúp cho em.”
Cô bất ngờ trước lời đề nghị của hắn, nét mặt phân vân của Lisvel lúc này hệt như một đứa trẻ mười tuổi đang không biết chọn kẹo hay bánh ngọt trong bữa tiệc trà. Hắn suýt cười khi nhìn thấy vẻ mặt đó của cô nhưng khi nghe giọng nói có phần nghiêm túc của Lisvel, nụ cười kia đã vụt tắt trên môi của Macxim.
“Chà cũng khó mà đưa ra câu trả lời quá nhỉ.”-Lisvel gãi đầu, cô nàng bước đến đứng bên cạnh Macxim.-“Nếu đến mùa xuân anh mới bắt đầu chuyến đi thì nó sẽ kéo dài đến 6 tháng mất.”
“Vậy anh sẽ bắt đầu đi ngay trong mùa đông này.”- Bản thân hắn giờ đây cũng đã ý thức được rằng, sức khỏe của Lisvel đang ngày một yếu đi, cuộc chia ly đã đến gần. Giờ đây hắn muốn cả hai người đều mỉm cười trong cuộc chia ly đó hoặc ít nhất là Lisvel sẽ nở một nụ cười.
“Thật chứ? Nhưng trời sẽ lạnh lắm đấy.”
“Anh không quan tâm. Nhưng hãy hứa khi nào anh trở về, hãy giải thích cho anh hiểu từ “tình yêu” nghĩa là gì nhé.”
“Ừ, ừm, em sẽ trả lời. Em hứa đấy.”- Cô vừa nói vừa ôm hắn thật chặt.
Đã khá lâu về trước, khi Bosa còn dạy chữ cho Macxim thì hắn đã được cô cho phép tự do ghép các chữ cái với nhau để tạo ra các từ ngẫu nhiên. Nếu chúng có nghĩa, Bosa sẽ giải thích chúng cho hắn. Bằng một cách vô tình, Macxim đã ghép được từ “tình yêu” nhưng Bosa đã không giải thích cho hắn, cô ta chỉ bảo rằng: “Tứ đó đúng là có nghĩa đấy, nhưng tôi cũng quên mất rồi cậu hãy hỏi Lisvel thử xem.”. Và khi hắn đến hỏi Lisvel, cô ấy vẫn lắc đầu và bảo:”Giờ chưa phải là lúc.”
Macxim đã chờ ngày biết nghĩa của hai từ này rất lâu rồi và lời hứa của Lisvel đã cho hắn thêm hi vọng… Rằng một ngày hắn sẽ hiểu được hay từ đó quan trong với hắn như thế nào.
Trở về với căn phòng của mình, hắn nhìn lên trần nhà và ngủ quên từ lúc nào mà chẳng biết.
Sáng hôm sau, hắn dùng toàn bộ số tiền mình làm ra được trong một năm để mua một chiếc xe moto cũ. Nhưng từng ấy tiền vẫn chưa đủ, hắn phải vay mượn thêm một vài người bạn nữa để có thể tiêu dùng trong cuộc hành trình dài. Trong bữa sáng, hắn đã nói với Bosa rằng mình sẽ đi du ngoạn một thời gian dài ở phía Nam, cô ta chỉ lặng lẽ gật đầu nhưng ánh mắt đượm buồn.
Giờ đã qua tháng 12, ngày mai Macxim quyết định lên đường để trở về nhà trước khi hè đến. Hắn chỉ đem theo vài ba bộ quần áo được xếp ngay ngắn trong balô bởi Lisvel và chiếc máy ảnh cô đưa từ hôm trước. Hành trang có phần đơn sơ nhưng hắn tự tin mình sẽ sống tốt vì đã có một khoảng thời gian dài hắm sống mà không cần tiền bạc gì cả.
Đồng hổ đã điểm nửa đêm nhưng Macxim vẫn không ngủ được, cảm giác bồn chồn và lo lắng khiến cho hắn không yên tâm để ra đi. Trong lòng hắn tồn tại một nỗi sợ vô hình.
“Em vào nhé.”-Giọng Lisvel vang lên ngoài cửa, giờ này rồi mà cô vẫn còn thức.
Macxim vội bước xuống khỏi chiếc giường, mở cánh của ra và mới cô bé vào phòng.
“Trễ rồi đấy, sao vẫn chưa ngủ.”
“Em có vài món quà muốn tặng cho anh.”
Cánh tay của Lisvel đang giấu một vật gì đó ở sau lưng. Macxim mời cô vào phòng, dáng đi thấp thỏm của em ấy như một chú thỏ đang rụt rè trong sợ hãi vậy
“Anh có cần phải nhắm mắt không?”
“Không.”
Cô đưa cánh tay ra phía trước, trên đó là một chiếc áo len trắng được đan bằng tay. Ngay khi nhìn thấy nó, tim của Macxim như ngừng đập.
“Em vừa làm xong nó lúc nãy, do chỉ ước lượng chiều cao và cân nặng thôi nên có lẽ chiếc áo sẽ khá rộng đấy. Xin lỗi anh vì năm ngoái chiếc khăn choàng cổ bị dính máu nên em đã vứt đi rồi.”
Lisvel nói chậm rãi rồi đưa chiếc áo cho hắn.
“Mặc thử xem nào.”
“Ừm.”
Macxim choàng chiếc áo qua người, đúng là nó vẫn hơi rộng. Vạt áo đã dài qua đầu gối của hắn nhưng điều đó không còn quan trọng vì khi hắn mặc nó lên, hắn cảm nhận được sự nồng ấm tỏa ra từ chiếc áo. Giọt nước mắt bắt đầu xuất hiện ở khóe mắt của Macxim và nó là giọt nước mắt của sự hạnh phúc. Nhận được món quá của Lisvel, giờ đây hắn là người hạnh phúc nhất thế giới.
“Sao anh khóc thế? Nó không ấm à?”
“Không, nó ấm lắm chứ. Mắt anh hơi khô nên…”
“Vậy à, may quá. Mà em vẫn còn một món quà nữa đấy,”
Cô ấy mở lòng bàn tay ra, bên trong đó là một chiếc nhận bạc. Cô cầm lấy nó và đặt vào trong lòng bàn tay to lớn của Macxim.
“Nó.”- Hắn chỉ vào chiếc nhẫn.- “Cho anh à.”
Bên ngoài chiếc nhẫn được khắc bằng những nét xiêu vẹo và vội vã. Cô đã khắc lên trên đó chữ “Macxim”.
Lisvel gật đầu rồi khép bàn tay của Macxim lại. Cô nở một nụ cười rồi hôn nhẹ lên gò má của anh.
“Chúc may mắn nhé. Khi nào trở về em sẽ cho anh hiểu, hai từ “tình yêu” nghĩa là gì.”
Từng bước nhỏ, Lisvel dần lùi bước về phía sau và bước ra khỏi căn phòng của hắn.
Bằng một cách bất ngờ, Macxim chạy vụt lên phía trước. Gì thật chặt bóng người nhỏ bé kia vào lòng mình. Nước mắt của hắn lại trào ra và giờ đây hắn không thể tiếp tục nói dối nữa.
“Em tệ lắm Lisvel, anh đã đặt hết quyết tâm để ra đi rồi. Nhưng tại sao khi đứng bên cạnh em, anh lại yếu đuối đến mức khó chịu. Để lại cho anh nhiều kỉ niệm đến thế này rồi bảo anh phải ra đi, em thật sự quá tàn nhẫn đấy!”
“Em xin lỗi.”
“Hãy đứng ở đây với anh một chút nữa, một chút nữa thôi. Vì 6 tháng sau chúng ta sẽ không gặp nhau nữa.”
“Ừm.”
Nước mắt của cô cũng đã rơi xuống, chúng chảy thành dòng theo gò má và rơi xuống cánh tay của hắn.
Sáng hôm sau, trời đổ cơn bão tuyết ở Stalingard như muốn chặn đường hắn đi vậy. Nhưng với lòng quyết tâm của mình, Macxim dẫn chiếc xe ra khỏi gara. Hắn chào tạm biệt Bosa rồi xoa đầu của Lisvel khiến cô nàng khá dỗi.
“Em không phải là con nít!”- Cô gắt lên.
“Hứa với anh nhé, hãy chờ anh trở về. Chúng ta sẽ cùng đi dạo công viên vào mùa hè và em hãy giải thích cho anh hai từ “tình yêu” nghĩa là gì nhé.”
“Biết rồi, em hứa.”
“Giỏi lắm!”- Hắn lại tiếp tục xoa đầu cô rồi bước ra chiếc xe máy dựng ở bên ngoài.
Cuộc chia ly của bọn họ diễn ra không có nỗi buồn, không có nước mắt, cả người đi và kẻ ở lại ai nấy cũng nở một nụ cười trên môi cả. Nhưng khi tiếng xe của Macxim đã khuất sau làn mưa tuyết…
“Lisvel, vào nhà đi em.”- Chị Bosa nhắc nhở.
Cô ấy vẫn đứng bên ngoài cánh cửa, lặng lẽ nhìn lên trên bầu trời và giọt nước mắt đã rơi xuống.
“Xin lỗi, nhưng xem ra em không thể giữ được lời hứa rồi.”
…
Hắn chu du khắp mọi nơi mà không cần đến tấm bản đồ. Đi đến đâu hắn cũng đều chụp lại những cảnh đẹp nhất của những nơi đó. Hắn cứ đi, đi mãi cho đến khi đến được một thành phố khác thì hắn lại dừng xe, chụp lại cảnh vật nơi đó. Có một lần xe của hắn đã bị hết xăng ở giữa rừng và hắn phải đi bộ hơn 3km để đến nhà một người dân gần đó nhờ giúp đỡ. Được nói chuyện với mọi người nhiều hơn, tấm lòng của hắn dần trở nên cởi mở hơn, hắn đã hiểu tại sao Lisvel lại yêu quý người Liên Xô nhiều đến vậy.
Cuộc hành trình của hắn đầy tuyết và mồ hôi, nhiều lúc trên đường người ta còn không nhìn thấy bóng dáng của hắn vì chiếc áo len màu trắng kia chẳng khác nào màu tuyết cả. Truyền thuyết về một chiếc xe không có người lái bắt đầu được lan rộng ở vùng Nam Âu và chính hắn cũng không biết rằng mình chính là nhân vật chính trong câu chuyện đó. Đến khi số tiền ít ỏi đã hết do phải chi trả cho phần thức ăn và chỗ ngủ, hắn chủ động ở lại các thành phố lớn trong vài ngày để tìm một công việc ngắn hạn. Macxim cũng không quên ghi lại những câu chuyện vui mà mình gặp được trên đường đi vào một mảnh giấy, đôi khi dừng xe lại giữa núi, hắn lại đọc và cười thầm. Và cứ như thế, chiếc balô chứa hành trang của hắn cứ thế mà đầy dần lên bởi những tấm hình hắn chụp.
Macxim cứ đi mãi, đi mãi cho đến một ngày những cơn mưa tuyết đã ngừng rơi ở Stalingard và nắng ấm trở lại với thành phố này. Hắn quyết định trở về nhà khi nhận ra chiếc cặp của mình đã đầy ứ. Chuyến đi không phải là vô nghĩa, hắn đã được gặp nhiều người hơn tại đất nước này, ngắm nhìn những cảnh đẹp bằng đối mắt của mình. Suy nghĩ của hắn về người dân nơi đây đã khác hoàn toàn so với trước và hắn đã cảm thấy như bản thân là một phần của đất nước này.
…
Trở về căn nhà cũ, hắn quyết định sẽ không bao giờ rời nó đi nữa. Vì phía sau cánh cửa này, có một người đang chờ hắn trở về và giải thích cho hắn nghe hai từ “tình yêu” có ý nghĩa như thế nào. Nhưng tiếc rằng…
Không hề viết thư báo trước, hắn mở cánh của gỗ ra và bước vào ngôi nhà để tạo sự bất ngờ.
“Anh về rồi đây!”- Macxim đẩy thật mạnh cánh cửa rồi bước vào bên trong với vẻ mặt vui sướng.
Nhưng nụ cười trên môi của hắn đã bị dập tắt khi nhìn thấy ánh mắt buồn sầu của Bosa, cả bác sĩ Gochov nữa. Ông ta đứng lên và cởi chiếc mũ trên đầu xuống, cúi chào hắn một cách trang trọng.
Nước mắt của Bosa đã rơi xuống, cô không kìm nổi cảm xúc khi nhìn thấy khuôn mặt vui tươi như thế của Macxim.
Hắn đặt chiếc balô xuống đất, cởi đôi giày sũng nước vì trận mưa hôm qua ra rồi bước vào nhà.
“Anh về rồi đây Lisvel! Em ở đâu rồi.”- Hắn gọi to rồi bước lên phía cầu thang.
Mở cánh cửa phòng của cô bé ra nhưng bên trong không có ai cả. Những bức tranh trên tường bắt đầu tróc ra, khung cửa sổ cũng không được đóng lại. Trên bàn của cô ấy là một chiếc khăn choàng đang được đan dở bằng len trắng, nó hơi bám bụi, có lẽ là đã để đó khá lâu. Hắn tiếp tục đi sang phòng của mình nhưng cũng không thấy ai cả, rồi cứ như thế, hắn bắt đầu sợ hãi và mở từng cánh cửa ra. Lisvel vẫn chưa xuất hiện.
Macxim chạy ngay xuống phòng ăn, túm lấy cổ áo ông Gochov rồi trừng mắt.
“Lisvel đâu rồi? Cô ấy không có ở đây! Ông đã đem cô ấy đến bệnh viện rồi đúng không.”
Hắn đã dần mất đi sự bình tĩnh của mình.
“Không, con bé đã không còn ở đây nữa.”- Gochov cùi gầm mặt của mình xuống.
“Không còn ở đây nữa…”. Những từ ngữ đó cứ lượn quanh đầu của hắn như một bầy ruồi khó chịu.
“Thế em ấy ở đâu!”- Hắn gào lên.
“Em ấy đã qua đời ba tuần trước rồi.”- Bosa gục xuống bàn khóc nức nở.
Cả thế giới như đổ sụp dưới chân hắn, hắn không tin những gì đang diễn ra. Hắn muốn đánh thức bản thân ra khỏi cơn ác mộng nhưng rồi lại nhận ra mình đã không ngủ.
“Aaaaaaaaaaaaaaaaa!!!”
Macxim quỳ sụp xuống đất, hắn gào lên như một con thú dữ bị thương. Đập thật mạnh tay xuống nền nhà, hắn hi vọng rằng mọi người xung quanh chỉ đang nói dối mình nhưng những giọt nước mắt kia của Bosa thì không thể là nói dối được. Hắn điên cuồng, chạy thẳng ra khỏi cánh cửa, chạy thẳng đến nghĩa trang của Stalingard.
Hắn đi loạng choạng như một gã say, nét mặt trở nên hoang dại. Từng tiếng nấc trong cô họng của hắn đã nói lên rằng, nỗi đau này đã quá mức chịu đựng của bản thân. Và rồi, tinh thần của hắn hoàn toàn sụp đổ khi nhìn thấy một ngôi mộ vừa mới đắp ở cuối nghĩa trang.
“Lisvel, em ở đây à. Hức.”- Giọng của hắn cũng đã khàn đi.
Mây đen bắt đầu kéo đến, những người đi thăm mộ ở nghĩa trang cũng vội vã ra về, bỏ lại hắn một mình cùng với ngôi mộ.
“Đừng sợ, anh sẽ cứu em lên đây.”- Hắn dùng tay, đào xuống lớp đất vứa mới đắp từ ngôi mộ.
Hắn vừa đào, vừa cười một cách điên dại cho đến khi móng tay bật máu. Hắn gục đầu xuống ngôi mộ, khóc nức nở như một đứa trẻ.
Trong suốt cuộc đời của mình, hắn chi khóc duy nhất 5 lần: 1 lần là khi chào đời, 1 lần khi cha mẹ của hắn qua đời và ba lần còn lại đều là cho Lisvel.
Cô ấy đã kéo cuộc đời hắn ra khỏi vũng bùn nhưng chính thần chết lại bắt cô ấy đi. Tại sao? Tại sao? Một người lúc nào cũng cầu xin cái chết như hắn lại không được chết cơ chứ. Hắn bắt đầu nguyền rủa thần chết,
Cơn mưa đầu mùa đã đến với Stalingard, đối với hắn giờ đây nó còn lạnh lẽ hơn cơn bão tuyết nữa.
“Này Lisvel, chắc em lạnh và chán lắm đúng không, anh ở đây trò chuyện với em nhé…”
Hắn ngồi đối diện với ngôi mộ, kể mọi câu chuyên mà hắn nhớ được trong cuộc gặp gỡ của hai người bọn họ. Và rồi hắn nhớ lại lời hức của cô.
“Em tệ lắm đấy Lisvel, em đã hứa sẽ nói cho anh nghe “tình yêu” nghĩa là gì mà.”
Hắn cắn chặt đôi môi khiến cho nó bật máu. Đầu của hẳn giờ đây trống rỗng, đột nhiên, hắn nghe thấy giọng của cô vang lên bên cạnh.
“Anh vừa về đấy à.”
“Ừm, anh đã về rồi đây.”- Hắn lại bắt đầu khóc.
“Đi có mua quà cho em không đấy?”
“Có, rất nhiều, rất nhiều đây.”
Cơn mưa càng lúc càng nặng hạt và hình ảnh trước mắt của hắn trở thành một màu xám xịt. Tiếng của cô cứ vang lên xung quanh hắn. Và rồi, hắn ngã xuống…
Cơn mưa tầm tã suốt cả đêm…
Sáng hôm sau khi người ta đi đến nghĩa trang thăm mộ thì nhìn thấy hắn đang ngất đi gần ngôi mộ của Lisvel. Họ nhanh chóng đưa hắn đến bệnh viên để kiểm tra sức khỏe và báo về cho Bosa.
Một lát sau, cả Bosa và Gochov đến bệnh viện thành phố, họ sửng sốt khi thấy Macxim tiều tụy đến thảm thương. Chỉ trong một ngày, hóc mắt của hắn sâu đi trông thấy, khuôn mặt không còn một chút cảm xúc.
Bosa lặng lẽ đến bên giường bệnh, cô đưa cho hắn một mảnh giấy được gấp gọn.
Thấy cô bước đến, hắn khẽ gật đầu nhưng gương mặt vẫn không hề lay chuyển.
“Đây là mảnh giấy của Lisvel để lại cho cậu. Đọc thử xem, đây là những lời cuối cùng mà con bé muốn nhắn với cậu đấy.”
Hắn ngước mắt nhìn Bosa, run rẩy nhận lấy mảnh giấy và mở nó ra. Bên trong đó là những nét chữ xiêu vẹo của Lisvel.
“Chào anh, nếu như anh đọc được bức thư này nghĩa là em đã không còn trên cuộc đời này nữa. Trước tiên thì xin lỗi nhé, xin lỗi vì không giữ được lời hứa với anh, xin lỗi vì đã nói dối với anh, em thật sự xin lỗi anh rất nhiều.
Về bệnh tình của mình thì em đã biết từ lâu rồi. Tháng 9, năm trước, Gochov đã nói với em rằng thời gian của em chỉ còn nhiều nhất 6 tháng nữa. Nghĩa là trong tháng 3 năm nay em sẽ không còn tiếp tục sống cùng với anh nữa. Anh biết đấy, hai chúng ta gặp nhau là một sự ngẫu nhiên tuyệt vời nhất cuộc đời của em, được ở cùng anh em vui lắm. Xin lỗi vì đã nói dối anh nhé, chụp được những bức ảnh phong cảnh ở miền Nam từ lâu đã không còn là ước mơ của em nữa
Anh biết ước mơ của em là gì không nè? Anh sẽ không đoán được đâu. Ước mơ của em giờ đây đã thành hiện thật rồi, được ở cùng với anh là vinh hạnh lớn nhất của em đấy. Tiếc rằng những tháng cuối đời của mình, em không còn được bên cạnh anh nữa nhưng em vẫn rất vui vì đã được ở bên cạnh anh suốt 1 năm. Mình chơi cùng nhau, nói chuyện cùng nhau, ăn cùng nhau vui quá anh nhỉ. Em không biết anh còn nhớ không, nhưng Lisvel nhớ rất rõ đấy nhé, em nhớ đến từng chữ cái mà anh đọc đầu tiên, từng kỉ niệm nhỏ nhất của chúng ta đấy.
Chuyến đi của anh có vui không? Anh có gặp trục trặc gì không? Mục đích em muốn anh đi khắp Liên Xô này không phải chỉ để chụp ảnh đâu, em muốn anh hãy là một phần của đất nước này. Bọn họ - người dân ở đây- không hề xấu xa như anh vẫn nghĩ đâu, em tin chắc sau chuyến đi này anh sẽ yêu quý đất nước này như em vậy.
Vì thế em xin lỗi vì đã lừa anh đi xuống phía nam, bởi vì em không muốn cuộc hành trình của chúng ta kết thúc trong nước mắt. Kéo dài từ đầu đến cuối sẽ mãi mãi là những nụ cười nhé.
Em xin lỗi vì đã đi trước mà không có sự cho phép của anh. Giờ đây, anh sẽ đi tiếp trên một con đường mà em không hề biết nhỉ, cũng khá buồn đó. Nhưng yên tâm đi Lisvel sẽ không khóc đâu, Lisvel của anh mạnh mẽ lắm đấy! Đừng quan tâ, đến giây phút cuối đời của em như thế nào nhé vì em đã sống một cuộc sống trọn vẹn rồi.
À, suýt chút nữa em quên mất. Em xin lỗi vì đã không thể giải thích cho anh biết được ý nghĩa của hai chữ “tình yêu” là gì. Nhưng anh đừng vội mà quên đi hai chữ đó nhé, em mong anh sẽ tìm được một người khác có thể giải thích được ý nghĩa của hai từ đó.
Tái bút: Anh hãy giúp em chăm sóc cho Bosa nhé, chị ấy cứng rắng vậy thôi chứ thật ra rất yếu đuối đó.
Giờ đây, tạm biệt Macxim.
Lisvel.”
Đôi vai của hắn run lên, nước mắt của hắn rơi xuống ướt đẫm cả bức thư. Hắn cúi đầu xuống và khóc…
Sau khi được xuất viện, Macxim quay trở về ngồi nhà một thời gian. Và vào một hôm, hắn ta quyết định ghi tên mình vào danh sách những quân dân đi lính tình nguyện. Vì hắn muốn bảo vệ những gì mà cô- Lisvel – yêu quý nhất.
3 năm sau, ngọn lửa chiến tranh bao trùm cả Liên Xô. Bosa phải đi tị nạn ở những thành phố khác còn hắn vẫn nhất quyết ở lại Stalingard.
4 năm sau, hắn vẫn ở Stalingard và chiến đấu để bảo vệ mảnh đất mà Lisvel yêu quý. Một kẻ chưa hề biết “tình yêu” là gì mà lại đi chiến đấu để bảo vệ “tình yêu” của người khác à? Nghe thật nực cười, nhưng cũng thật đau khổ.
Liên Xô, Stalingard mùa đông năm 1942.
Macxim cầm chiếc nhẫn ra và ngắm nhìn, suốt bốn năm nay, anh chưa bao giờ rời mắt khỏi nó.
“Đội trưởng. Chiếc nhẫn của ai thế?”- Glovin cất tấm hình lại trong mũ của mình và nhìn sang Macxim
“À, nó của tôi đấy.”- Macxim cười gượng.
“Thì nó có khắc tên của anh bên ngoài mà. Ai lại chả biết. Ý tôi là chữ bên trong kìa.”
“Ý của anh là chữ bên trong đúng không? Đó đọc là “tình yêu” nhỉ. Mà anh có biết ý nghĩa của nó là gì không?”
Glovin cười phá lên, vỗ mạnh vào vai của Macxim.
“Này anh bạn,chẳng lẽ anh lại không biết? “Tình yêu” là…”
Ầm.
Một tiếng nổ lớn vang lên gần chiến lũy họ đang ngồi, ngay sau đó là một loạt đạn bắn về phía các chiến sĩ Hồng quân.
“Bọn chúng tấn công!”- Một người lính hét lên rồi chỉ tay về đằng xa.- “Bọn Phát xít đang tiến về phía công viên trung tâm!”
“Công viên trung tâm!!?”- Macxim lẩm bẩm trong miệng rồi anh nhanh chóng đội chiếc mũ cối lên đầu.-“Không thể để bọn chúng tiến vào đó được.”
Anh cầm lấy khẩu súng trường và bước ra khỏi chiến lũy. Tuy nhiên, Glovin đã ngăn anh lại, anh ta cầm chiếc ống nhòm đứng lên quan sát bọn lính ở phía trước.
“Không được đâu!”- Glovin lắc đầu rồi lau đi giọt mồ hôi trên trán.- “Số lượng lục binh của bọn chúng phải đến 2000, không, phải 3000 tên là ít. Chúng ta thua rồi, đầu hàng thôi.”
Tiếng súng máy từ phía bọn Đức quốc xã vẫn không ngừng vang lên từ đằng xa. Chúng như muốn cày xéo toàn bộ mặt đường ở Stalingard nhưng mọi việc còn tồi tệ hơn nữa khi bọn họ còn nhìn thấy vài chiếc xe tăng đang xông thẳng về phía mình. Đây là một cuộc chiến không cân sức, một đại đội chỉ có 600 người được trang bị súng trường, lựu đạn và bảy khẩu pháo tầm trung không thể chống lại sức mạnh hủy diệt từ những chiếc xe tăng, thiết giáp được. Tất cả bọn họ đã chuẩn bị cho một cuộc thảm sát.
Nhưng từ lâu, Macxim đã không còn sợ cái chết nữa.
“Này Glovin, anh có biết gì không. Nếu chiến đấu chúng ta cũng chết, nếu không chiến đấu chúng ta sẽ phải sống một cuộc sống tệ hơn cả cái chết. Anh sẽ chọn cái nào.”
“Tất nhiên là chết rồi.”
Glovin đặt chiếc mũ của mình xuống đất một cách cẩn thận, phủ vài lớp đất đá lên nó. Sau đó anh kiểm tra lại đạn trong khẩu súng trường của mình.
“Lên thôi! Cùng tiến về công viên trung tâm nào.”
Hành động của bọn họ đã nhận được sự cổng hưởng của một số đồng đội. Bọn họ tình nguyện đi theo Macxim.
“Đó là tự sát.”- Viên chỉ huy của đoàn quân quả quyết và ngăn cản hành động của bọn họ lại.-“Tôi không thể để mọi người mạo hiểm tính mạng của mình như vậy được.”
Bằng tất cả sự tự tin, Macxim vỗ ngực.
“Hãy giao cho chúng tôi nhiệm vụ này và rút toàn bộ binh lính vê để chờ chi viện. Chúng tôi sẽ cầm chân chúng.”
Khi mệnh lệnh của viên chỉ huy được đưa ra, đó sẽ là một nhiệm vụ tự sát. Điều này làm cho ông rất bối rồi vì trong hàng ngũ của mình vẫn có vài tên lính trẻ tuổi chưa hề có kinh nghiệm chiến đấu. Nếu ở lại và tử thủ chắc chắn sẽ không cầm cự được lâu.
Ông ta đành cắn răng và đưa ra quyết định sau cùng.
“Macxim và những người tình nguyện theo anh ta hãy ở lại chiến lũy này. Kéo dài được thời gian càng lâu càng tốt. Tôi giao cho anh ta quyền chỉ huy đội quân này.”
“Cảm ơn ngài.”
“Hãy cố gắng sống sót nhé.”
Rồi ông ra lệnh cho toàn bộ số bộ số lục binh còn lại của đại đội rút lui về phía bắc Stalingard, bỏ lại toàn bộ vũ khí hạng nặng cho bọn họ. Đội của Macxim chỉ còn khoảng 70 người lính nhưng ai ai cũng là những chiến binh dày dạn kinh nghiệm trên chiến trường.
“Tạm biệt nhé. Con ma vô vọng.”- Ông nhìn Macxim lần cuối rồi bước theo đội quân của mình.
Macxim bố trí 70 người lính phục kích vào những chổ khuất trong công viên. Đã từng sống ở đây một khoảng thời gian dài, anh đã nắm rõ từng đường đi trong lòng bàn tay. Số súng cối và pháo còn lại, anh đặt trong những ngôi nhà đổ nát, tất cả bọn chúng sẽ khai hỏa một lượt khi quân địch đến.
Còn riêng Macxim, anh đang vùi mình dưới đống tuyết trước đường đi của bọn lính Đức với một khẩu súng máy. Anh giao quyền quan sát và chỉ đạo lại cho Glovin vì anh ta đang ở một vị trí quan sát tốt hơn.
Và chỉ vài phút sau, quân Đức đã áp sát gần khu vực công viên. Bọn chúng thận trọng, co cụm lại thành từng tốp lính nhỏ đi xung quanh những chiếc xe tăng. Ở phía sau, hàng ngàn bộ binh đang di chuyển gấp gáp. Và rồi, bọn chúng đã lột vào ổ phục kích.
Đoàng.
Glovin cầm khẩu súng lục, bắn chỉ thiên để ra lệnh cho pháo binh tấ công.
Lập tức, 7 khẩu pháo đồng loạt khai hỏa thẳng vào những chiếc xe tăng của bọn chúng. 3 trong số 8 chiếc xe tăng, thiết giáp của bọn chúng bị phá hủy hoàn toàn, quân Đức bị rơi vào thế hoảng loạn. Từ bên những tòa nhà, các người lính được bố trí trên những tầng lầu liên tục bắn xuống đám đông bên dưới bọn họ.
Giành được lợi thế bất ngờ, các chiến sĩ Liên Xô liên tiếp xả súng xuống quân Đức. Bọn chúng giờ đây như bầy ong vỡ tổ vậy, chạy trốn và xô đẩy nhau bất chấp cả tiếng thét của viên chỉ huy đang vang lên đằng xa. Nhưng khi loạt tấn công bị ngừng lại, Đức tập trung một lượng lớn hỏa lực vào các tòa nhà. Rất nhiều chiến sĩ Liên Xô đã hi sinh, không một ai trong số bọn họ thoát được họng súng của kẻ thù.
Dưới lệnh của Glovin, toàn bộ số lính còn lại bắt đầu khai hỏa từ phía công viên. Phía Đức cũng đáp trả bằng một loạt pháo đối đất, tạo ra một biển lửa dúng chìm công viên Stalingard. Không còn gì để mất, toàn bộ những người lính Liên Xô còn sót lại xông ra từ biển lửa. Dùng mọi thứ có trên người họ đánh giáp lá cà với quân Đức từ lưỡi lê, xẻng đến những quả lựu đạn tấn công thẳng vào quân giặc.
Khung cảnh chiến trường giờ đây chẳng khác nào địa ngục, tiếng gào thét, tiếng khóc vang lên khắp nơi cùng với tiếng súng. Quân Đức chịu một thiệt hại không hề nhỏ nhưng bọn chúng đã đánh bại hoàn toàn các chiến sĩ Liên Xô và tiến thẳng về phía công viên. Và ngay lúc này.
Macxim xuất hiện giữa đoàn quân của bọn chúng với một chiếc áo khoác trắng xóa, anh cầm khẩu súng máy bắn điên cuồng về phía quân Đức. Bọn chúng không ngờ được, vội cầm sùng bắn vào nhau tạo nên một khung cảnh đẫm máu.
“Aaaaaaaaaaa!!!”- Anh gào lên như một con mãnh thú đói mồi, cầm hay quả bộc phá trong người và ném về phía xe tăng của bọn chúng.
Cuộc hỗn chiến chỉ kết thúc khi khẩu súng ngắn trong người Macxim đã hết đạn, anh quỳ phục xuống vòng vây kẻ thù nhưng chẳng ai bắn anh cả. Cả người anh chi chít đầy những vết thương do đạn của quần thù. Chiếc áo khoác trắng mà Lisvel tặng lúc trước giờ đây đã hóa đỏ bằng máu của anh.
Từng bước ngắn ngủi, anh bước chân về phía công viên Stalin gard đang rực cháy. Nằm trên chiếc ghế đá của mình, ngắm nhìn bầu trời đầy khói lửa và bom đạn, nở một nụ cười.
“Chà, không biết có ai sẽ đem bánh mì cho mình không nhỉ?”- anh thầm nghĩ rồi nhắm đôi mắt lại.- “Anh sắp đến bên cạnh em rồi đây Lisvel, giờ đây đừng trốn tránh anh nữa nhé và hãy giải thích cho anh hai từ “tình yêu” là gì…
Hắn ta cuối cùng cũng rời bỏ cuộc đời. Một cách lạnh lẽ và cô đơn như thế.
Ai mà biết được kẻ đáng thương như hắn có tìm được ý nghĩa của hai từ “tình yêu” không chứ? Nhưng tôi nghĩ là có.
Đất nước Liên Xô cuối cùng cũng đã đánh bại kẻ thù xâm lược, Stalingard trở thành một thành phố anh hùng nhưng câu chuyện của gã vô gia cư và cô bé ngày nào cũng đã bị quên lẫn theo thời gian.