-268:22:30
Waver đã mong đợi ngày đó kết thúc với chiến thắng vẻ vang từ buổi lễ triệu tập thành công.
Sau một đêm vật lộn với lũ gà lắm mồm, giờ cậu đang trầm tư suy nghĩ về thành quả của mình, thỏa mãn với cả sự mệt mỏi xen lẫn hài lòng.
Và rồi –
“...Sao việc này lại có thể xảy ra ?”
Một cơn gió khô khốc thổi mạnh qua vùng Shinto, khiến Waver phải cuộn mình chống đỡ với cái lạnh lẽo và cô độc trên chiếc ghế dài nơi công viên hoang vắng. Cậu vẫn không thể hiểu được “làm thế nào mà kế hoạch của ta lại hỏng được?”
Nghi lễ đã kết thúc tốt đẹp. Cậu đã nhận được lời đáp lại ưng ý.
Cùng với thành công của buổi lễ, thân thế của vị Servant được mời đến vẫn còn in sâu vào tâm trí Waver. Ông ta thuộc trường phái của Rider. Dù không phải một trong ba hiệp sỹ chính yếu, khả năng của ông vẫn cao hơn mức trung bình. Không còn nghi ngờ về việc đó là một Servant hùng mạnh.
Ngay từ giây phút nhìn qua làn khói trắng mờ ảo, nhận thấy bóng người cao lớn ấy dần nổi lên từ vòng tròn triệu hồi, Waver đã quá phấn khích đến suýt ngất đi.
... Nghĩ đi nghĩ lại thì tình hình đã trở nên tệ hơn kể từ thời điểm ấy.
Với hiểu biết của Waver, “familiar” là con rối cho chủ nhân chúng.
Một thực thể chỉ vừa đủ tồn tại qua nguồn prana được pháp sư cung cấp.
Một búp bê gỗ mà người tạo nên sử dụng tùy ý anh ta muốn. Đó là bản chất của một familiar. Vậy nên cậu đã nghĩ các Servant cơ bản cũng như thế, không hơn không kém.
Nhưng vật xuất hiện từ vòng tròn triệu tập—
Ngay từ lúc ban đầu, hồn trí Waver đã bị cặp mắt sắc bén, sáng rực như lửa đỏ cướp mất.
Lúc hai cặp mắt của họ chạm nhau, bằng bản năng tự nhiên, cậu cảm thấy bị lấn át như một con vật nhỏ bé đứng trước loài mãnh thú to lớn.
Sự hiện hữu của người khổng lồ ấy chặn hết tầm nhìn của cậu. Tuy nhiên Waver vẫn thấy rõ một điều từ thần khí và vóc dáng vạm vỡ này. Không cần quan tâm đến cách nói bóng gió về việc ông ta là một bóng ma hay một kẻ hầu cận, người đứng trước mặt cậu thật sự KHỔNG LỒ.
Waver biết rằng các heroic spirit được Chén Thánh mời đến không chỉ là những linh hồn hư ảo, họ còn nhận một “thân xác” hữu hình để hiện diện trên thế giới này. Nhưng cậu không thể tưởng tượng nổi một con người với cơ bắp cuồn cuộn, không hề có dấu tích của ảo ảnh hay bóng ma, mà thực sự tạo ra cảm giác của một mối đe dọa ngay trước mắt.
Dù gì đi nữa, Waver căm ghét những kẻ to lớn.
Không chỉ vì việc cậu đôi chút thấp hơn một người bình thường. Tất nhiên cơ thể cậu sẽ trở nên yếu đuối, vì ngay từ bé Waver đã không làm việc gì khác ngoài miệt mài học tập. Do vậy cậu rất ít khi rèn luyện thể lực, nhưng cậu không nghĩ đó là một yếu điểm. Đúng hơn là Waver tự hào khi mở mang trí tuệ của mình.
Thế nhưng, không thể chối bỏ sự hiển nhiên rằng tất cả những thứ ấy chẳng cách nào vượt qua được cơ bắp của người đàn ông này. Dù thế nào, khoảng cách về mặt thời gian của trò chơi đánh đổi bằng tính mạng giữa hai người họ quá chênh lệch. Sẽ không có thời gian cho một cuộc tranh luận dù vắn tắt nhất, và cũng không có cơ hội để sử dụng phép thuật.
Bởi vì— một khi cậu bị bàn tay đầy bắp thịt ấy nắm lấy...
“...Này, ta hỏi cậu đấy. Cậu là Master của ta, đúng không?”
“Hả?”
Đó đã là câu hỏi thứ hai của người đàn ông. Ông ta có một giọng oai nghiêm khiến cả mặt đất phải rung chuyển.
Mọi giác quan của cậu đã bị chế ngự ngay bằng câu hỏi đầu tiên rồi.
“À— Vâng! Tôi... tôi.... tôi, ý tôi là đúng vậy! Tôi là Master của ông, gọi là Wa...Waver Velvet!... Đó là tên tôi! Tôi là Master của ông!!”
Dù thực tế nó chẳng có ích gì, Waver cố gắng lừa dối mình bằng cách đứng thẳng dậy trước thân hình to lớn... Ngay cả như thế, cậu vẫn bị tầm vóc của người khổng lồ không mong đợi này thống trị.
“Ừm, vậy thì giao kèo đã hoàn tất. Này, cậu bé, có thể dẫn ta tới vài tàng thư ngay bây giờ không?”
“Hả?”
Đầu óc của Waver lại bị thổi tung một lần nữa.
“Vài quyển sách, ta đang nói đến: Sách!”
Vị Servant cao lớn lặp lại một cách buồn chán, nghiêng người về phía Waver, vươn cánh tay to khỏe trông như gốc của một cây thông.
Mình sẽ bị giết—Ngay lập tức Waver nghĩ đến điều đó, khi cảm giác mình đang lơ lửng. Người khổng lồ đã túm lấy cổ áo cậu và nâng cậu lên không trung. Waver đã không nhận ra cho đến khi cậu được thả cho ngã sóng soài dưới đất. Lúc ấy cậu mới hiểu tại sao người đang nói với mình bất thình lình lại trở nên to lớn hơn trước.
“Nếu cậu là một pháp sư, cậu phải biết chỗ lưu giữ các tàng thư chứ? Giờ dẫn ta đi một vòng xem nào. Chúng ta cần chuẩn bị cho cuộc chiến.”
“C...Chiến tranh?”
Nhờ câu nói của người khổng lồ, Waver mới biết mình đã quên béng đi về trận chiến giành Chén Thánh— Heaven’s Feel.
Vì đang sống như một kẻ ăn bám hiển nhiên trong nhà riêng của người khác, Waver không có thứ gì gọi là “tàng thư”, nên miễn cưỡng đưa Rider đến thư viện.
Thư viện trung tâm thành phố Fuyuki nằm trong công viên công cộng thuộc vùng Shinto, và vẫn còn đang xây dựng. Thẳng thắn mà nói, thật bất tiện khi đi trong thành phố giữa đêm khuya — vì những vụ giết người kỳ lạ gần đây, cảnh sát thường xuyên thông báo tình trạng khẩn cấp — Waver cảm thấy rằng những gì kẻ vai u thịt bắp trước mặt cậu có thể làm còn là một cơn khủng hoảng lớn hơn cả việc bị tra hỏi bởi đội tuần tra.
May mắn là, khi họ vừa ra khỏi khu rừng, người khổng lồ trở nên vô hình.
Đó ắt hẳn là một khả năng của các Servant để chuyển về dạng hư không. Waver thấy nhẹ nhõm vì không phải trông đáng ngờ khi đi cùng một người to lớn trang bị giáp phục, nhưng cậu vẫn cảm nhận áp lực do thế lực mạnh mẽ ấy theo sau.
Họ gặp may vì không chạm mặt bất cứ ai khi đi qua cây cầu lớn dẫn đến vùng Shinto; vừa đến công viên, Waver chỉ vào tòa nhà với kiến trúc hiện đại ở phía sau.
“Ở đó sẽ có những quyển sách mà ông muốn.”
Sau đó, áp lực đè nén trên người Waver lặng lẽ biến mất. Ắt hẳn Rider đã vào trong tòa nhà dưới dạng tâm linh.
—Và thế là đã 30 phút trôi qua kể từ khi cậu bị bỏ lại. Được giải phóng bởi mối đe dọa không thể hiểu nổi, cuối cùng cậu cũng có thể bình tĩnh chọn lọc suy nghĩ của mình.
“...Sao việc này lại có thể xảy ra ?”
Waver chúi đầu vào cả hai tay, nhớ lại hành động đáng xấu hổ của mình lúc trước.
Dù mạnh mẽ thế nào, Servant là người chấp nhận giao kèo của cậu. Là một Master, Waver phải là người nắm quyền lãnh đạo.
Vị Servant Waver đã gọi đến dứt khoát là rất mạnh. Đó là tất yếu, dựa vào lịch sử của thánh tích cậu đã đánh cắp từ tay Kayneth.
Linh hồn anh hùng của Iskandar. Còn được biết đến như Alexander hay Alexandros.
Sở dĩ ông có nhiều tên như thế là vì cách phát âm của các vùng miền khác nhau, những nơi “vị vua của các nhà chinh phục” từng đi qua. Kế vị vương triều Macedonia khi chỉ 20 tuổi, dẫn dắt Hy Lạp cổ trong cuộc chinh phạt Ba Tư, sau đó xuyên qua Ai Cập, đến tận miền Tây Ấn qua “các chiến dịch tiến đến phương Đông”, đạt được thành tựu của một anh hùng vĩ đại chỉ trong 10 năm. Ông được ghi vào sử sách như “vị vua phi thường” người tạo nên thời đại của nền văn minh Hy Lạp cổ (Hellenistic civilization) .
Dù cho ông ta là người vĩ đại như thế nào, một khi được triệu tập như một Servant, ông không thể chống đối với Master của mình. Lý do đầu tiên là vì ở thế giới hiện tại, ông phải phụ thuộc vào Waver. Nếu Waver dừng cung cấp prana để ông tiếp tục hiện hữu, ông không còn cách nào khác ngoài việc biến mất.
Có nguyên do để tất cả các Servant đáp lại lời gọi của Master― hay tại sao họ lại tham gia Heaven’s Feel cùng với các Master. Đó là, cũng giống như Master, họ muốn có Chén Thánh. Với hy vọng đạt được cỗ máy điều ước này, họ cũng phải chiến đấu đến khi chỉ còn lại một người duy nhất, và họ có thể giành được món quà mà Chén Thánh ban tặng cùng với Master mình bảo vệ. Nói cách khác, sự hợp tác giữa Master và Servant là chuyện tất nhiên.
Hơn nữa, các Master còn giữ con át chủ bài là những Phong Ấn Chỉ Huy.
Ba dấu ấn đuợc sử dụng lần lượt như 3 mệnh lệnh tuyệt đối. Đó là thứ vạch rõ mối quan hệ giữa Servant và Master. Một Servant không thể chống lại mệnh lệnh từ Phong Ấn Chỉ Huy, ngay cả khi đó là điều vô lý như việc bắt họ phải tự sát. Đây là điểm chính yếu của hệ thống các giao kèo do một trong “ba gia đình khởi thủy” lập ra, nhà Makiri.
Mặt khác, người Master đã dùng hết 3 Phong Ấn Chỉ Huy của mình sẽ chịu sự nguy hiểm của việc tạo phản bởi chính Servant của anh ta, nhưng đó là rủi ro có thể tránh được nếu Master biết cách hành động cẩn thận.
Đúng vậy, miễn là những Phong Ấn Chỉ Huy còn nằm trên đôi tay này― kìm ném sự khó chịu trong bụng, Waver, mất hết ý thức với mọi thứ xung quanh, nhìn chằm chằm vào tay phải mình, cười khúc khích― ông ta có thể là tên lực sĩ khổng lồ, nhưng ông ta không có lý do để chống đối pháp sư Waver Velvet này.
Ngay khi Servant đó quay lại, mình phải nhắc quy luật không thể xâm phạm này vào mặt ông ta...
Bất thình lình, trong lúc Waver đang suy nghĩ, một tiếng nứt lớn vang lên.
“Hở !?”
Nhảy sang một bên vì bất ngờ, cậu quay lại và thấy cánh cổng vẫn đóng im lìm của thư viện giờ bị biến dạng và phá nát. Người đang bình thản đi ra từ đó, hiện rõ dưới ánh trăng, không ai khác hơn ngoài Servant của Waver, Rider.
Vì khu rừng khi trước quá tối, lúc này mới thực sự là lần đầu tiên cậu có thể nhìn rõ ngoại hình của ông ta.
Ông chắc chắn cao hơn 2 mét. Cánh tay và bắp đùi ông vươn rộng ra khỏi bộ áo giáp, và từ kích cỡ của các cơ bắp khắp người ông, Rider trông như người có thể giết cả một con gấu bằng tay trần. Trên gương mặt nghiêm nghị, cứng rắn như làm từ nghệ thuật điêu khắc là cặp mắt sáng đến kinh ngạc, cùng với bộ râu và mái tóc đỏ rực màu lửa. Chiếc áo choàng ông mang trên người cũng có cùng tông màu đỏ, với những đường viền tương tự trên cổ tay của ông, được trang trí lộng lẫy, trông như một chiếc màn che sân khấu của các nhà hát.
Dáng điệu tráng lệ của con người to lớn ấy đứng trước một thư viện hiện đại tạo thành một sự kết hợp có phần ngồ ngộ, nhưng Waver chẳng quan tâm đến điều đó vì tiếng chuông báo động lanh lảnh như thúc giục cậu chạy trốn.
“Đồ ngốc! Ngu ngốc, ngu ngốc, ngu ngốc! Ông nghĩ gì mà lại đạp cổng đi như thế! Sao không biến thành linh hồn như khi vào !?”
Kỳ lạ thay Rider lại cười khoái chí, đưa ra hai quyển sách trước mặt Waver.
“Ta không thể cầm lấy cái này khi trở thành linh hồn, đúng không nào?”
Hai quyển sách, một có bìa cứng và một trông khá mỏng. Tất nhiên là Rider đã lấy chúng từ thư viện. Nhưng Master của ông không thể chấp nhận việc quấy rối trật tự công cộng chỉ vì thứ vặt vãnh đến vậy.
“Còn chờ gì nữa! Chạy mau!”
“Thật là khó coi khi bối rối như vậy. Cậu trông như một tên trộm hay thứ gì đó tương tự.”
“Ai là trộm chứ, ông có bị sao không hả !”
Rider ngạc nhiên bởi sự dọa dẫm trong tiếng hét của Waver.
“Cậu nhầm to rồi. Những kẻ phải trốn chui trốn nhủi trong bóng tối là bọn trộm đêm, còn bước đi trong hoan hỉ mới là việc một vị vua chinh phục phải làm sau khi cướp phá.”
Không thể nói lý lẽ với người này, Waver thầm nghĩ, trong khi điên cuồng gãi đầu. Dù cho thế nào, Rider rõ ràng sẽ muốn hiên ngang diễu hành với hai quyển sách trên tay, trông như một kẻ hóa trang đáng ngờ, và không có ý định quay về dạng tâm linh.
Dùng hết tất cả phương cách, Waver lao vào Rider, giật lấy hai quyển sách từ tay ông ta.
“Được rồi chứ!? Giờ hãy biến đi! Biến ngay bây giờ! Biến ngay lập tức!”
“Ồ, vậy ta sẽ giao chúng cho cậu. Không cần phải lặp đi lặp lại như vậy đâu.”
Dường như đã thỏa mãn, Rider gật đầu và lại trở nên vô hình.
Nhưng Waver vẫn không thể thoải mái. Chuông báo động hẳn đã đánh thức đội bảo vệ. Không thể biết chắc khi nào thì họ sẽ chạy đến đây.
Ồ, lúc này thì ai cần quan tâm đến chuyện ấy chứ.
“Aaa, khỉ thật, Sao chuyện này lại xảy ra vậy trời?”
Waver không nhớ rõ mình đã than vãn như thế đến bao nhiêu lần, cậu chỉ cắm đầu chạy nhanh nhất có thể.
Khi đã chạy tới con đường dành cho khách bộ hành hai bên bờ sông Fuyuki, cậu nghĩ là đã an toàn .
“Hộc... hộc... hộc...”
Là một người chẳng màng tập luyện thể lực, Waver cảm thấy như tim mình muốn vỡ òa ra khi phải chạy quãng đường xa kinh khủng. Không còn sức để đứng dậy, cậu quỳ phịch xuống mặt đường ― giờ mới đủ thời gian nhìn vào hai cuốn sách Rider mang ra từ thư viện.
“... Tuyển tập văn thơ Homer? Và... một tấm bản đồ thế giới? Sao lại thế này!!!”
Quyển sách với tấm bìa lộng lẫy sang trọng là tác phẩm từ một nhà thơ nổi tiếng của Hy Lạp cổ. Còn quyển mỏng dẹp là một bản in màu bạn thường dùng trong trường học.
Từ đằng sau cậu bé đang lúng túng, một cánh tay chắc nịch vươn ra nắm lấy tập bản đồ bằng đầu ngón tay.
Trở lại với thân hình thật sự, Rider ngồi bắt chéo chân giữa đường, và bắt đầu lật từng trang bản đồ ông lấy từ Waver.
“Này Rider, lúc nãy khi ông nhắc đến cuộc chiến...”
“Chúng ta không thể mở một cuộc chiến nếu không có bản đồ, đúng không nào?”
Với vẻ mặt hài lòng, Rider cười toe toét, nhìn vào nội dung của tấm bản đồ.
“Ắt hẳn tận cùng của thế giới đã được khám phá, thậm chí nó còn cuộn lại như một khối cầu... thì ra là vậy, giống như khi ta vẽ một quả đất tròn lên giấy...”
Theo như Waver biết, khi một heroic spirit được Chén Thánh triệu tập thành Servant, họ nhận lượng thông tin tối thiểu để không bị mâu thẫn kiến thức với thời đại hiện tại. Thế có nghĩa là người cổ đại này cũng hiểu rằng Trái Đất tròn. Vì vậy cậu không thể hiểu Rider lấy cắp một thứ như bản đồ để làm gì.
“À... Này nhóc, Macedonia và Ba Tư ở đâu?”
“...”
Cảm thấy chán nản với tính kiêu ngạo thường trực của Rider khi gọi Master của mình là “nhóc”, dù vậy Waver vẫn chỉ tay vào một phần của bản đồ. Ngay lúc đó―
―
“Wahahahahaha!!”
Waver lại một lần nữa điếng người vì tiếng cười kích động của Rider.
“Hahaha! Nhỏ quá! Chỉ có thế trên một quả đất to lớn! Um, được đấy! Ta đã lo lắng sợ phải gặp một thời đại không còn những vùng đất để khám phá... Nhưng nếu nó lớn thế này thì thật tốt!”
Hợp với thân hình to lớn của Rider, giọng cười của ông thật vang dội. Waver cảm thấy như đang đứng giữa một trận động đất hay lốc xoáy.
“Được, được! Ta vui lắm! ...À, nhóc, chúng ta ở đâu trên bản đồ?”
Waver bồn chồn chỉ vào Nhật Bản ở phía Đông. Rider lầm bầm trong kinh ngạc, và...
“Hô hô, mãi phía bên kia trái đất cơ à... Ừm, vậy thì cũng thú vị lắm. Mục tiêu của chúng ta càng rõ hơn.”
Hai ngón tay mân mê chiếc cằm, ông khẽ gật đầu thỏa mãn.
“...Mục tiêu?”
“Đầu tiên chúng ta sẽ đi nửa vòng thế giới, thẳng về hướng tây. Và chúng ta chiếm hết các quốc gia chắn ngang đường. Với sự trở về khải hoàn của ta, thần dân Macedonia chắc chắn sẽ ăn mừng ta sống lại. Phù phù phù... Cậu thấy thế nào?”
Lặng người đi một lúc, Waver thét lên, vẫn còn choáng váng vì giận dữ.
“Thế ông đến đây để làm gì! Heaven’s Feel, Chén Thánh, nhớ chứ?”
Rider thở dài, có vẻ chán cái kiểu đe dọa của Waver.
“Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu thôi. Làm gì mà om sòm vậy―"
Rider nói như thể giờ mới biết đến chuyện này.
“Đúng rồi, Chén Thánh, lẽ ra ta nên hỏi về nó trước. Nhóc, cậu sẽ làm gì nếu đạt được Chén Thánh?”
Không hiểu cách nói chậm rãi của Rider, Waver cảm giác có một sự ớn lạnh không thể tả.
“...Giọng điệu đó là thế nào? Tại sao ông lại hỏi việc ấy?”
“Ta cần nắm rõ chuyện đó. Trong trường hợp cậu cũng muốn làm bá chủ thế giới, vậy cậu sẽ thành kẻ thù của ta, đúng không? Không thể có đến hai kẻ thống trị hành tinh này.”
Quả là nghịch lý khi một Servant dám nói ra điều đó, hầu như quay lưng lại với Master và Command Seal của cậu ta; tuy vậy Waver vẫn phải rùng mình trước cách ám chỉ đầy tàn bạo từ lời lẽ trơ tráo của kẻ khổng lồ. Sự sợ hãi đã khiến cậu quên mất quyền lực chính yếu của một Master.
“Điều... điều đó thật ngớ ngẩn! Tôi không cần thế giới...”
Lặng thinh từ lúc đó, Waver giờ mới chợt nhớ ra việc cần thiết là phải giữ phẩm giá của mình.
“Chinh phục thế giới?! ― Hừ, tôi chẳng quan tâm đến loại mục đích tầm thường thế!”
“Hở?”
Biểu hiện của Rider hoàn toàn thay đổi, hồ hởi nhìn chằm chằm vào Waver.
“Thế là có một khát vọng lớn hơn cả chiếm hữu thế giới trong một người trẻ tuổi như cậu? Thú vị đấy. Nói ta nghe xem nào.”
Waver cười khỉnh, và bằng tất cả dũng khí của mình, bắt đầu nói một cách ngạo mạn.
“Tôi... Tất cả những gì tôi muốn là được đánh giá công bằng. Tôi sẽ làm thay đổi quan niệm của những thành viên trong Clock Tower, trước nay vẫn chối bỏ tài năng...”
Trước khi kịp nói hết câu, một cú đánh vô song đập vào mặt Waver.
Cũng chừng thời điểm ấy, cậu nghe thấy Rider hét lớn “Tầm thường quá!”, nhưng cú đánh và tiếng la mạnh đến nỗi cậu không thể phân biệt.
Thực ra, Rider còn chưa dùng đến sức đủ để đập một con muỗi; nhưng thế vẫn quá mạnh cho một pháp sư thấp bé, mảnh khảnh, Waver xoay tròn như con vụ và sập người xuống đất.
“Tầm thường! Tí tẹo! Vớ vẩn! Đó là tham vọng khiến cậu liều mạng chiến đấu? Và cậu là Master của ta? Thật buồn quá!”
Như thể không chấp nhận sự thật, Rider thốt lên với biểu hiện khiến người khác kinh ngạc, không hẳn là tức giận mà chỉ như than thân trách phận.
“À― ừ―”
Waver chưa từng đối mặt với sự mãnh liệt và thẳng thắn đến vậy. Bị công kích bởi sự thật làm tổn thương niềm kiêu hãnh của cậu hơn là vết sưng trên má.
Đôi môi Waver run lên vì giận, mặt cậu biến sắc, nhưng Rider chẳng tỏ vẻ quan tâm.
“Nếu cậu muốn người khác kính trọng đến thế... Hãy nghe ta, dùng sức mạnh của Chén Thánh để cao lên 30 cm đi. Khi đã nhìn mọi vật từ vị trí cao hơn, cậu sẽ thấy mình đứng trên rất nhiều người.”
“Ông...ông...”
Đó là sự sỉ nhục lớn nhất đời cậu. Không còn gì xúc phạm hơn, Waver thấy hoa mắt như thể bị thiếu máu đột ngột, cả thân mình cậu rung lên.
Không thể tha thứ được. Rõ ràng không thể tha thứ được.
Người đàn ông to lớn kia, một Servant, không gì hơn một kẻ hầu, lại đụng đến lòng tự trọng của Waver và ném nó đi không thương tiếc. Ngay cả thánh cũng không tha cho sự lăng mạ này.
Trên tay phải Waver, đang nắm chặt như muốn xé nát lòng bàn tay cậu năng lượng chảy vào ba dấu ấn.
“Nhờ những thần chú chỉ huy này ― người bảo vệ luật lệ của Chén Thánh ― cầu cho kẻ kia, Servant của ta ―”
Cầu cho Rider... khiến ông ta làm gì nhỉ?
Tất nhiên cậu không hề quên. Tại sao cậu rời khỏi Clock Tower, tại sao cậu đến miền viễn đông xa xôi này.
Tất cả là để giành được Chén Thánh. Vì thế nên cậu mới triệu tập một Servant. Và sự cố với heroic spirit đang gắn kết cùng cậu có thể xảy ra lần nữa. Sau ba lần sử dụng ― các Phong Ấn Chỉ Huy sẽ biến mất. Đó đồng nghĩa với một thất bại đáng hổ thẹn của người làm Master.
Tình huống ngặt nghèo để dùng đến chúng vẫn chưa đến, phải không? Ít nhất là không thể chỉ một giờ sau buổi lễ triệu tập...
Ngượng ngùng, Waver chăm chăm nhìn xuống đất, hít thở thật sâu vài ba lần; và bằng tính toán và suy luận tự nhiên, cậu dập tắt ngọn lửa trong lòng.
Nóng vội sẽ chẳng dẫn đến đâu. Thái độ của Rider đương nhiên không thể chấp nhận được; nhưng xét cho cùng Servant này vẫn chưa chống đối lại Master, hay khước từ bất cứ mệnh lệnh nào.
Waver chỉ có thể vung roi ba lần lên con mãnh thú này. Chẳng phải là bất cẩn nếu dùng nó khi mới chỉ bị sủa bậy?
Bình tĩnh trở lại, Waver ngước nhìn lên. Rider vẫn ngồi bệt xuống đất, chẳng thèm đoái hoài đến Master của mình; hoặc có thể ông ta đã quên mất mình có một Master, chỉ chăm chú xem tấm bản đồ. Waver nói trước tấm lưng đồ sộ ấy.
“Nếu ông có thể lấy được Chén Thánh, tôi không có phàn nàn gì. Tôi không cần biết ông sẽ làm gì sau đó. Ông có thể đi đến bất cứ đâu ông thích, Macedonia hay thậm chí Nam Cực.”
Hừm ― Rider thở dài chán nản― hoặc là hờ hững, bạn không thể đoán được qua tiếng thở của ông.
“...Dù thế nào đi nữa. Ông chắc hẳn có việc cần ưu tiên đúng không? Ông sẽ nghiêm túc tham gia vào cuộc chiến Chén Thánh?”
“À, ta biết chứ.”
Rider rời mắt khỏi tập bản đồ và nghiêng người nhìn Waver, nói với giọng lẩm bẩm.
“Việc đầu tiên là phải đánh bại sáu heroic spirit khác, phải không? Nghe phiền phức đấy, nhưng tất nhiên ta chẳng thể khởi đầu nếu thiếu Chén Thánh. Cứ yên tâm đi. Ta sẽ lấy báu vật đó.”
“...”
Ông có vẻ điềm tĩnh và chắc chắn, nhưng Waver vẫn chưa bị thuyết phục hoàn toàn.
Đương nhiên heroic spirit trước mặt cậu không chỉ biết nói ngoài miệng. Bằng những gì Waver có thể nắm được với tư cách một Master, Servant cậu sở hữu có những năng lực tuyệt vời.
Nhưng khi giao đấu, các Servant không chỉ dựa vào khả năng. Heaven’s Feel không phải là thứ dễ dàng đến mức người ta có thể thắng thế nhờ sức mạnh cơ bắp.
“Xem ra ông rất tự tin, thế cơ hội chiến thắng của ông là gì?”
Bằng một sự khiêu khích liều lĩnh, Waver giương mắt nhìn Rider. Tôi là một Master, chắc chắn tôi phải có thái độ hống hách; đó là những gì cậu nghĩ.
“Ý cậu là muốn thấy sức mạnh của ta?”
Đáp lại cái nhìn của cậu, Rider đổi sang một giọng lạnh lẽo khiến Waver khó chịu.
“Đúng vậy. Không hiển nhiên sao? Tôi cần bằng chứng để tin tưởng ông.”
Với giọng cười bằng mũi, vị Servant khổng lồ rút thanh gươm khỏi bao kiếm đeo bên hông. Đó là một cây bảo kiếm sắc sảo, nhưng dường như không đạt đến lượng prana của một Noble Phantasm. Tuy vậy, khi Rider cầm nó trên tay, không khí đầy hiểm nguy từ từ kéo đến làm Waver lo lắng. Ông ta không nghĩ đến chuyện giết mình chỉ vì vài câu nói đấy chứ…?
Chẳng để ý đến Master đang run lập cập, Rider nâng thanh gươm trần trụi lên khỏi đầu.
“Với đường kiếm này, ta, Iskandar, Vị vua Chinh Phục, thể hiện uy quyền!”
Hét lớn tới bầu trời trống trải, ông vung mạnh lưỡi gươm vào hư không.
Ngay lúc đó, một tiếng vang như sấm rền cùng với chấn động làm rung chuyển cả lòng sông, như thể tia sét vừa xé toạc màn đêm, tạo nên một va chạm cực kỳ ấn tượng.
Mất hết cả can đảm, Waver mất thăng bằng rồi ngã phịch xuống đất một lần nữa. Nếu lưỡi gươm của Rider không nhắm vào thứ gì, thế nó vừa cắt đứt cái gì vậy―
Waver đã nhìn thấy. Giữa hố đen từ đường nứt của không gian, một vật thể hùng mạnh không thể tưởng tượng nổi xuất hiện.
Và, Waver nhớ ra Servant là thứ gì.
Trong huyền thoại về một anh hùng, không chỉ có câu chuyện về anh hùng đó, mà cả những giai thoại về anh ta, về vũ khí anh ta sử dụng: tất cả những thứ đó là “biểu tượng” cho sự tồn tại của người anh hùng. Các “biểu tượng” này là bí mật tối thượng mà Servant, hiện thân của những linh hồn anh hùng, mang theo như lá bài mạnh nhất của mình. Đó là những vũ khí chết người thường được gọi là “Noble Phantasm”.
Vậy― không thể nhầm lẫn. Thứ hiện ra từ hư không bị đòn thế của Rider khuấy động, chắc chắn là Noble Phantasm của ông ta. Ẩn chứa trong nó là lượng ma thuật dày đặc, với sức mạnh vượt quá lẽ thường: Waver nhận ra nó. Một phép lạ siêu việt vượt lên cả nhân loại, hơn cả phép thuật của loài người.
“Đó là bảo vật ta sở hữu. Món quà dâng lên thần Zeus từ vua Gordias... Chắc hẳn vì danh tiếng của thứ này nên ta được xếp vào trường phái của Rider.”
Rider nhìn vũ khí ấy, nở nụ cười đầy ắp niềm tự hào. Ông không hề tỏ vẻ khoe khoang; đây là bằng chứng cho việc ông thường dùng đến vật này, khi đặt niềm tin tưởng lớn lao vào nó.
“Thực ra đây mới chỉ là khởi đầu. Noble Phantasm mà ta tin cậy là thứ khác. Được rồi, khi cơ hội đến, ta sẽ cho cậu xem. Đó là lúc ta gặp một đối thủ đáng gờm xứng tầm với nó.”
Kinh sợ, Waver nhìn Rider bằng một tia sáng mới. Vì là một pháp sư, cậu hiểu rõ sức mạnh hủy diệt của Noble Phantasm trước mặt mình. Nếu so sánh với vũ khí hiện đại, thứ này có thể sánh với một máy bay ném bom chiến lược. Rider có thể biến cả khu Shinto thành bình địa nếu ông vượt tầm kiểm soát không đến một tiếng đồng hồ.
Không còn nghi ngờ gì nữa. Rider chính là Servant mạnh nhất mà Waver ao ước. Uy lực của ông vượt xa mong đợi của cậu. Nếu tồn tại kẻ thù mà ông không thể đánh bại, đó chỉ có thể là sinh linh chống đỡ được cả sự trừng phạt của các vị thần.
“Này nhóc, gương mặt tái mét đi là thế nào, ta còn chưa bắt đầu mà.”
Cười nham hiểm, Rider nói với Master đang mất hồn.
“Nếu cậu muốn sớm có Chén Thánh, chúng ta nên nhanh chóng tìm ra vị trí của một hay hai heroic spirit. Ta sẽ giẫm nát chúng ngay lập tức... Trong khi chờ đợi, ta có thể xem bản đồ cho đỡ chán phải không nào?”
Gương mặt thất thần, Waver lặng lẽ gật đầu.
-221:36:01
Lâu đài Einsbern, tòa lâu đài nơi xa xôi tận cùng, quanh năm chìm trong băng tuyết.
Tòa lâu đài cổ nằm giữa vùng núi non trùng điệp không người lai vãng, đã từng là nơi cư ngụ của nhiều pháp sư cổ đại; trong một ngày hiếm hoi, bỗng không phải nghe tiếng bão tuyết gào thét.
Một ngày trời quang mây tạnh. Không gian sáng sủa hơn hẳn những ngày đất trời u ám trắng xóa màu tuyết: không một cánh chim chao, không những tán cây xanh trên nền tuyết trắng; chỉ có ánh sáng tràn ngập.
Vào những ngày như vậy, cho dù người cha có mệt mỏi hay bận bịu đến đâu cũng phải dẫn con ra khu rừng ngoài lâu đài chơi. Đó là một “điều luật” không thành lời giữa Ilyasviel von Einsbern và Kiritsugu Emiya.
“Cha coi nha, bữa nay con không thua đâu!”
Nói đoạn, cô bé Ilyaviel hớn hở chạy nhanh vào rừng trước cha. Cô nhóc bé xíu, đôi bốt cũng bé tí đã ngập giữa lớp tuyết dày; nhưng đôi mắt láo liên không bỏ sót bất cứ thứ gì khuất giữa những tán cây xung quanh.
“Ồ, được một cái rồi này. Cái đầu tiên của bữa nay đây.”
Nghe thấy giọng nói đắc thắng của Kiritsugu vang lên sau lưng, đôi mắt Ilyasviel chuyển dần từ ngạc nhiên sang giận dữ. Cô bé quay phắt lại.
“Không thể nào! Ở đâu vậy cha? Sao con nhìn sót đựơc!”
Đáp trả cô con gái cưng với khuôn mặt đang đỏ ửng lên vì tức bằng một nụ cười châm chọc, Kiritsugu chỉ tay lên một cành cây hồ đào đã đông cứng. Trên cành cây ấy là một mầm cây.
“Fuhhuhu, cha có điểm đầu tiên rồi đấy. Cứ thế này nhé.”
“Cha nhớ đó, con không thua đâu! Chắc chắn hôm nay con sẽ không thua!”
Nội dung cuộc đua tài giữa cha và con gái trong khu rừng ngập tuyết là tìm ra chồi non trên cây hồ đào giữa mùa đông. Trong năm ấy, Ilya đã thắng 12 lần, thua 9 lần và hòa một lần. Điểm tổng cộng cho Ilya là 427 và Kiritsugu là 374. Nhà quán quân đang phải chịu một áp lực nặng..
Dõi theo bóng dáng Ilyasviel, Kiritsugu cười cay đắng. Con bé đang ngó nghiêng trông chừng xem cha nó có tìm thêm được mầm cây nào không. Nó chẳng biết gì về tử thần đang chực chờ. Ngày hôm đó con bé phải kiểm tra kĩ năng.
“A, đây rồi. Ilya cũng thấy một cái nè~”
Nghe tiếng reo vui của Ilya, Kiritsugu tinh quái cười khúc khích.
“Fuhuhu, còn cha thì đã tìm thấy cái thứ hai rồi đây.”
Ilya nhảy dựng lên như một con mèo bị tạt nước.
“Đâu? Cha cho con coi xem nào!?”.
Lần này thì Ilya không thể cứ khăng khăng cô bé không bỏ sót cành cây nào. Mà quả thật, con bé chẳng bỏ qua cành hồ đào nào cả. Chỉ có điều người đang đua tài cùng Ilya lại là một kẻ gian xảo.
Mười giây sau, Kiritsugu cố nhịn cười, tay trỏ cái mà ông gọi là “mầm cây thứ hai”.
“Hơ --------- ? Cây đó đâu phải cây hồ đào?”
Ilya đã bỏ qua cành cây mà Kiritsugu đang chỉ.
“Không, không, Ilya à, đây là cành của cây wingnut, một dạng khác của cây hồ đào. Vì vậy mầm cây này cũng là mầm cây hồ đào đấy.”
Ilyasviel im lặng khoảng chừng 2 hay 3 phút; trông cô bé như thể đã bị đánh lừa bởi một tay cáo già. Rồi cô bé hét tướng lên, má đỏ bừng:
“Ăn gian, ăn gian ăn gian ăn gian! Cha, cha chơi vậy là không được!”
Thật sự thì Kiritsugu đã không công bằng. Ngay từ lần trước, ông đã tính luôn wingnut với hồ đào. Đó không chỉ là gian lận mà còn là chơi xấu.
“Cha mà không chơi vậy thì đâu thắng được con.”
“Không được! Cái cây đó chỉ có cha biết là cây hồ đào thôi! Không tính!”
Cô nhóc Ilya tức tối đấm thùm thụp vào chân cha.
“Hahaha, nhưng con này, chẳng phải đây là một cơ hội tốt để mở mang kiến thức sao? Sự thật thì quả wingnut không ăn được như quả hồ đào. Con nhớ nhé.”
Ilyasviel càu nhàu, chẳng thèm để tâm đến những lời ông nói.
“Cha mà cứ ăn gian như vậy thì con không thèm chơi với cha nữa đâu!”
“Nghe ghê nhỉ - thôi thôi, cha xin lỗi mà.”
Trước “tối hậu thư” của con gái, Kiritsugu đành ngoan ngoãn nhận lỗi. Nghe vậy, Ilya từ từ nguôi tức và lấy lại vẻ láu lỉnh thường tình.
“Cha hứa không chơi ăn gian nữa chứ?”
“Cha hứa, cha hứa mà. Không tính wingnut nữa."
Nhưng còn cây fieldnut cũng tương tự đấy con ạ... Kiritsugu cười thầm.
Ilyasviel vẫn còn quá nhỏ để biết nghi ngờ người khác. Cô nhóc ưỡn ngực tự hào, gật đầu mãn nguyện với người cha tính xấu khó sửa của mình.
“Tốt. Vậy con thách đấu cha lần nữa. Một chiến sĩ phải chấp nhận mọi lời thách thức đó nha.”
“Ừ, được rồi, thưa công chúa.”
Chiều lòng con gái, và cũng để phục vụ cho cuộc “săn” mầm hồ đào, Kiritsugu nhấc bổng Ilya, đặt lên vai mình.
“Ahaha! Cao quá!”
Với Ilyasviel, ngao du trên vai cha là thích nhất. Đôi chân của Kiritsugu có thể bước trên lớp tuyết dày; trong khi đôi chăn ngắn cũn của cô bé thì không thể. Ngồi trên cao, cô bé có thể nhìn thấy những quả hồ đào dễ dàng hơn.
“Đi nào!”
“Yawohl!”
Kiritsugu bước ra khỏi một lùm cây với cô con gái cưng trên vai. Tiếng xào xạc khiến Ilyasviel cười phấn khích, chân đá tứ tung.
Cõng con gái trên vai, Kiritsugu nhận ra con bé thật nhẹ, nhẹ đến nỗi khiến ông buồn.
Kiritsugu chằng có tí kinh nghiệm nào trong việc nuôi dạy trẻ con; do vậy, ông không biết con nít bình thường lớn lên như thế nào. Nhưng ông hiểu rằng một đứa trẻ không bình thường khi đã 8 tuổi mà chỉ nặng 15 kg.
Có lẽ nguyên nhân là do những vụ điều chỉnh sai lầm khi con gái ông chào đời. Kiritsugu và Irisviel thừa hiểu con bé sẽ lớn rất chậm. Liệu cơ thể con bé có trưởng thành theo năm tháng không đây?
Không, chẳng có hi vọng nào cả. Là một pháp sư, Kiritsugu hiểu rõ sự thật tàn nhẫn đó. Phải đến 80 – 90% Ilyasviel sẽ ngừng lớn trước khi những đặc điểm giới tính trên cơ thể con bé kịp phát triển.
Dù vậy, thay vì cho con bé biết tương lai tăm tối, hãy cố gắng làm sao để nó được hạnh phúc – đó là nguyện vọng của người làm cha làm mẹ. Nỗi đau trước bi kịch của con gái xoáy sâu vào lồng ngực là bằng chứng của tình thương còn sót lại trong người đàn ông mang tên Kiritsugu.
Từ cửa sổ lâu đài, một cặp mắt màu xanh ngọc bích dõi theo bóng dáng người đàn ông đang chơi đùa cùng con gái ở bìa rừng.
Một cô gái đứng bên khung cửa sổ, chẳng mơ màng cũng chẳng hề vội vã. Nàng có mái tóc ánh vàng óng ả; một chiếc váy kiểu xưa ôm lấy thân hình thon thả, mảnh mai. Rõ ràng là chiếc váy hoàn toàn phù hợp với hình ảnh một người phụ nữ đứng một mình trong căn phòng trống. Chẳng làm gì, chỉ đứng đấy nhưng khí chất lạnh lùng của cô gái đó đủ khiến không khí trong phòng như se lại. Tuy nhiên, cái lạnh của nàng không phải là sự lạnh giá như băng như tuyết, mà là cái lạnh lùng, tĩnh lặng của một dòng suối trong. Cô gái có một cái gì đó hoàn toàn khác biệt với mùa đông u sầu lạnh lẽo quanh năm ở lâu đài Einsbern.
“Cô nhìn gì vậy, Saber?”
Nghe tiếng Irisviel gọi, Saber – cô gái đứng bên cửa sổ, từ từ quay lại.
“Kiritsugu và con gái chị đang chơi ở khu rừng ngoài kia.”
Một chút bối rối, một chút hoài nghi phảng phất, một cái cau mày nhẹ nhàng mà kiên quyết; tất cả đều không làm phai vẻ đẹp của cô gái đó. Một nụ cười hài hước vu vơ không thể nào phù hợp với cô gái bằng sự tĩnh lặng thoáng buồn mà không hề mỏng manh của nàng: nàng có một vẻ đẹp lạ lùng hiếm thấy.
Liệu có ai tin đựơc một cô gái xinh đẹp, trẻ trung và sống động như vậy chỉ là sự “hữu hình hóa” của linh hồn một vị anh hùng? Nhưng đó là sự thật. Cô gái ấy là ‘Saber’…một trong bảy linh hồn anh hùng đựơc Chén Thánh mời đến hiện tại. Class của nàng là ‘Saber’, vị anh hùng sử dụng kiếm - một Servant hoàn thiện.
Irisviel đứng yên, nhìn ra ngoài cửa sổ. Bóng người cha Kiritsugu cõng đứa con gái trên lưng khuất dần sau những tán cây.
“Cô ngạc nhiên khi thấy Kiritsugu như vậy, phải không?’
Saber thật thà gật đầu. Irisviel mỉm cười.
Ở vị trí của mình, tất cả những gì Saber có thể nhìn thấy chỉ là mái tóc màu bạch kim mà Illya được thừa hưởng từ mẹ. Nhưng chỉ cần nghe giọng cười lanh lảnh âm vang tràn đầy hạnh phúc, bất kì ai cũng có thể hình dung ra niềm vui của người cha và con gái.
“Quả thật. Ấn tượng của tôi về Master là một người máu lạnh hơn nhiều”.
Irisviel mỉm cười bẽn lẽn đáp lại.
“Chà, chuyện này cũng không phải không có lý do đâu”.
Từ khi triệu tập Saber, Kiritsugu không hề nói lời nào với Servant của mình.
Cuối cùng thì, Servant cũng chỉ là công cụ để Master hoàn thành tâm nguyện. Chính vì lý do ấy nên Master cũng chẳng bao giờ đối xử thân tình với họ. Thế nhưng, thái độ của Kiritsugu quả thực có hơi quá đáng. Chẳng thèm nói chuyện với cô ấy, lờ tít đi những câu cô ấy hỏi, họa hoằn lắm mới được một cái nhìn; Kiritsugu đã phớt lờ Servant do chính mình gọi lên.
Dù không thể hiện ngoài mặt nhưng rõ ràng, Saber hoàn toàn không hài lòng với thái độ của Master. Kiritsugu mà cô biết khác xa người đàn ông đang chơi cùng con gái ngoài kia.
“Nếu đây mới là gương mặt thật sự của Kiritsugu, có lẽ tôi đã bị chính Master của mình ghét bỏ rồi....”
Lời thì thầm của Saber khiến Irisviel không thể giấu một tiếng cười khúc khích: gương mặt buồn bã đã tiết lộ phần nào tính cách thật sự đằng sau cái tiểu sử bóng bẩy của Saber. Nàng thật sự là người dễ rung động.
“Chẳng có gì đáng để chị cười cả, Irisviel.”.
“...Xin lỗi. Nhưng có vẻ cô vẫn còn ác cảm với Kiritsugu đúng không?”
“Một chút...Tôi hiểu ngoại hình của tôi khác xa với những gì người ta tưởng tượng. Nhưng lẽ ra hai người cũng không nên sững sờ đến thế vì điều đó cơ chứ.”
Trái ngược với sự chín chắn của Saber, trông nàng chẳng khác một thiếu nữ không quá tuổi trăng tròn là bao. Khi Saber xuất hiện trong vòng tròn phép thuật, cả Kiritsugu và Irisviel đều á khẩu.
Điều đó có thể hiểu đựơc, bởi vị anh hùng Kiritsugu đã gọi lên, trong sử sách, được nhắc đến với thân phận một người đàn ông.
Chủ nhân của chiếc vỏ kiếm hoàng kim, người được biết đến ở cương vị “người thống trị duy nhất của thánh kiếm Excalibur” ; liệu có ai tin rằng thật ra vị anh hùng Arthur Pendragon lại là phận nữ nhi?
“Đương nhiên tôi đã giả nam trang, và tôi cũng hi vọng rằng lời nói dối ấy sẽ tồn tại xuyên suốt lịch sử….Nhưng không thể vì thế mà nghi ngờ việc tôi là chủ nhân của chiếc vỏ kiếm này.”
“Nói như vậy cũng đúng, nhưng điều này thật khó tránh khỏi. Huyền thoại về Arthur đã được truyền tụng hơn 1500 năm rồi. Hình ảnh vua Arthur trong tiềm thức nhân loại quá khác so với sự thực. Do vậy nên...”
Irisviel mỉm cười gượng gạo. Saber thở dài đầy bất mãn.
“Tất nhiên mọi người sẽ đặt dấu chấm hỏi về ngoại hình của tôi. Kể từ giây phút tôi rút thanh thánh kiếm khỏi phiến đá giam cầm, phép thuật của nó khiến tôi không bao giờ già đi. Khi tôi đăng ngôi, dân chúng thậm chí không hề thắc mắc gì về mặt mũi tôi cả. Điều duy nhất tôi “được” đòi hỏi phải làm chỉ là hoàn thành trách nhiệm của một vị vua.”
Sự thật tàn nhẫn đến thế sao?
Khi bị bọn man di xâm lược, vương quốc Anh đã đứng bên bờ vực thẳm. Tương truyền, theo lời tiên đoán của pháp sư, một vị vua trẻ, “hiện thân của rồng”, đã gánh trên vai sứ mạng lãnh đạo. Ngài là chiến binh bất bại suốt mười hai năm chinh chiến trên sa trường.
Sau những chiến công lẫm liệt ấy, định mệnh tàn khốc đã khiến ngôi báu của nhà vua bị soán bởi chính dòng máu của ngài - kẻ phản bội đã kết thúc một huyền thoại.
Sự thật phũ phàng rằng một cô gái thanh tú nhỏ nhắn như vậy, đã phải gánh trên mình một số phận tàn khốc, bi thương, khiến Irisviel chạnh lòng.
“Có phải Kiritsugu...ghét tôi vì ngoại hình nữ tính của tôi? Vì tôi không xứng đáng với thanh kiếm ư?”
Saber thì thào bằng một giọng ráo hoảnh, mắt hướng về phía bóng dáng Kiritsugu đã khuất sâu trong rừng. Những lời nói đó đã chạm trúng tâm tình của Irisviel.
“Không phải đâu. Kiritsugu hiểu sức mạnh của cô mà. Anh ấy đâu có ngốc đến nỗi đánh giá thấp một vị anh hùng được xếp vào Saber class....Có thể anh ấy khó chịu là do một lý do nào đó khác.”
“Tức giận?”
Saber phản ứng mạnh mẽ.
“Ý chị là tôi khiến Kiritsugu giận dữ ư? Không thể hiểu nổi. Tôi chưa hề nói chuyện với ông ấy đến một lần.”
“Vậy thì có lẽ lý do ấy chẳng liên quan gì đến cô cả. Cái làm anh ấy cáu giận thật sự là truyền thuyết về vua Arthur mà chúng tôi đã nghe cơ.”
Nếu vị anh hùng Kiritsugu gọi lên là vua Arthur – “người đàn ông cao lớn” như sử sách ghi chép, hẳn ông đã không lạnh nhạt như vậy. Đơn giản rằng với Kiritsugu, đã quen che giấu suy nghĩ thì những lời giải thích dài dòng luôn được hạn chế đến tối thiểu. Và cuối cùng, kết quả của sự kìm nén cảm xúc cao độ đó là sự “không thèm đếm xỉa” với Saber.
Người đã rút thánh kiếm khỏi phiến đá chỉ là một cô gái còn rất trẻ; sự thật đó khiến Kiritsugu căm thù cái truyền thuyết sai lệch về Arthur.
“Anh ấy giận là giận những người xung quanh cô. Họ, những kẻ ác độc đã quẳng hết trọng trách thống trị nặng nề lên vai một cô gái nhỏ bé.”
“Chẳng sao cả. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng trước khi rút thanh kiếm từ đá rồi.”
Saber nói không do dự. Nét mặt nàng vẫn lạnh, vẫn trong. Irisviel gật đầu nóng nảy:
“Saber ạ, cô đã chấp nhận số phận quá dễ dàng. Điều đó càng khiến Kiritsugu cáu tiết hơn. Có lẽ vì điểm đó mà anh ấy giận cô, cô gái có tên Arturia.”
“...”
Saber nhìn xuống đất; cô không trả lời được. Nhưng khi Saber ngước mặt lên, trong đôi mắt màu xanh vẫn đầy những tia nhìn bướng bỉnh:
“Ông ấy cảm tính quá. Khi ấy, chẳng có ai phàn nàn về quyết định này cả.”
“Chính vì vậy nên Kiritsugu im lặng.”
Câu trả lời nhanh chóng của Irisviel khiến Saber chỉ còn cách ngập ngừng.
“Emiya Kiritsugu và linh hồn anh hùng Arturia quá mâu thuẫn ----- Bởi thế nên tôi cũng từ bỏ thôi. Chúng tôi mà nói chuyện thì chỉ càng thêm xung khắc.”
Irisviel chỉ có thể gật đầu đồng ý. Cho dù Kiritsugu có dành nhiều thời gian hơn cho vị anh hùng đầy kiêu hãnh này đi chăng nữa thì cũng chỉ khiến anh ấy càng nhận ra quan điểm của hai người họ đối lập nhau mà thôi.
Irisviel hiểu sự khó chịu của hai người. Sự thật rằng hai người đó sẽ chẳng bao giờ hòa hợp, một lần nữa khiến Irisviel nặng lòng.
“...Cảm ơn chị nhiều lắm, Irisviel. Nếu không có chị, có lẽ tôi đã thua trong cuộc chiến này trước cả khi bắt đầu giao đấu rồi.”
“Cô cũng vậy. Tôi mong chồng mình sẽ đoạt được Chén Thánh.”
Không chấp nhận hợp tác với Arturia, Kiritsugu đã thực hiện một quyết định không tưởng để giải quyết tình trạng bế tắc này.
Mater và Servant sẽ tách ra, hoàn toàn biệt lập với nhau.
Đầu tiên, mối liên hệ giữa Master và Servant không giới hạn khoảng cách vật lý. Cho dù hai người cách xa đến đâu, Command Spell vẫn có thể khống chế Servant, và prana cũng có thể cung cấp bình thường, trừ phi Master bất tỉnh. Nhưng việc Master và Servant tiếp xúc với nhau giúp mọi chuyện dễ dàng hơn. Chiến đấu không chỉ là trách nhiệm của Servant. Master nên có mặt ở chiến trường để điều khiển Servant của mình.
Kiritsugu họat động độc lập không cần biết đến họat động của Saber không có nghĩa ông tin tưởng cô ta. Kiritsugu ủy thác trách nhiệm trông coi Saber cho Irisviel.
Việc này cũng không phải liều lĩnh và táo bạo lắm. Ví dụ, nếu Servant của Kiritsugu muốn nổi loạn, cô ta cũng không thể giết Irisviel chừng nào vẫn còn muốn đoạt Chén Thánh. Không có Irisviel, cho dù Saber đánh bại tất cả các Servant khác, cô ta không thể chạm đến Chén Thánh. Cái “vỏ của Chén Thánh” mà Irisviel giữ là thứ không thể thiếu để Chén Thánh ở Fuyuki hữu hình. Do vậy, Saber sẽ phải bảo vệ Irisviel khỏi các Master khác.
Cách tách riêng độc đáo này không vấn đề với khả năng của Kiritsugu và Saber. Linh hồn các kiếm sĩ thuộc class Saber đều có thực lực và Noble Phantasm đủ mạnh để ứng phó với một trận “cận chiến hoàn toàn”. Tâm trí cô ta không thể để bất cứ đâu vớ vẩn được. Mặt khác, Master của cô ta, Kiritsugu Emiya là một nhà chiến lược tài tình luôn đề ra những kế hoạch sáng suốt. Cả hai người sẽ không để mọi việc đi quá giới hạn.
Hơn nữa, càng lúc, Kiritsugu càng chắc chắn rằng Irisviel là người đồng hành với Saber tốt hơn ông. Vợ ông, Irisviel là một homunculus, những con người bị xã hội ruồng bỏ. Tuy nhiên, nàng vẫn xuất thân từ gia đình quý tộc Einsbern, và vì vậy nên trong nàng đã có sẵn sự thanh lịch và cao quý. Irisviel là mẫu phụ nữ điển hình khiến các hiệp sĩ sẵn sàng trung thành phục vụ.
Sự thực, trong những ngày sống cùng nhau sau lễ triệu tập, Irisviel và Saber đều tỏ ra kính trọng và hiểu nhau. Khí chất quý tộc trong Irisviel tương tự như một nàng “công chúa” trong thời đại của Saber. Và cốt cách hoàng tộc của Saber thích hợp đến hoàn hảo với Irisviel.
Thêm nữa, sự thỏa thuận mà Kiritsugu sắp xếp để Irisviel làm “Master thay thế” ông chắc chắn sẽ được Saber chấp nhận. Chung quy thì vấn đề nan giải nhất chỉ là những mâu thuẫn giữa Kiritsugu và cô ta. Nếu người đứng sau lưng Saber là Irisviel thì cô ta vung kiếm càng thoải mái hơn. Vậy, hai người họ có mối quan hệ chủ-tớ gắn bó thực sự cả trên tinh thần hiệp sĩ chứ không chỉ là hợp đồng hời dễ dàng bị phá giữa Master và Servant thông thường. Đây sẽ là bước chuẩn bị tốt cho Heaven’s Feel.
“Irisviel, với chị, Kiritsugu là người như thế nào?”
“Với tôi, anh ấy là thầy, là chồng, là người mang ý nghĩa đến cho cuộc sống của tôi. Nhưng điều cô quan tâm không phải chuyện này, đúng không?”
Saber gật đầu. Điều Saber muốn biết không phải cảm nhận của Irisviel mà là những khía cạnh khác của Kiritsugu Saber chưa biết.
“Nói thật, anh ấy là người tốt. Vì quá tốt nên anh ấy không tha thứ cho sự tàn ác của loài người. Anh ấy mang mặt nạ máu lạnh để chiến đấu chống lại sự tàn tác ấy.”
“Tôi hiểu quyết định này. Để thực hiện nguyện vọng đó, Kiritsugu phải từ bỏ mọi cảm xúc thông thường của con người.”
Nghe vậy, có lẽ chẳng ai hình dung ra nổi Kiritsugu và Saber hoàn toàn khác nhau. Và biết đâu sự ghét bỏ của Kiritsugu với Saber cũng vậy.
“Cứu thế giới thông qua Chén Thánh ---- ý chị là vậy? Nguyện vọng của chị và Kiritsugu?”
“Phải. Nguyện vọng của anh ấy cũng là nguyện vọng của tôi. Tôi sẵn sàng đánh đổi mạng sống để thực hiện nguyện vọng ấy.”
Trước những lời của Irisviel, Saber gật đầu. Đôi mắt cô rực lửa kiên quyết:
“Nguyện vọng của tôi cũng tương tự. Tôi muốn cứu nước Anh, quê hương tôi, nơi tôi đã bất lực đứng nhìn không cứu vãn nổi. Tôi nghĩ con đường của chị và Kiritsugu không sai. Một hướng đi đáng để ngửa mặt tự hào đấy.”
“Đúng vậy...”
Mỉm cười, Irisviel đáp mơ hồ.
Niềm kiêu hãnh – đó chính là vấn đề.
Những lời Kiritsugu nói vang vọng trong tâm trí Irisviel. Lý do thật sự khiến Kiritsugu và Saber hành xử quá khác biệt.
‘Hai người sẽ là hoa nở trên chiến trường. Không bao giờ bỏ chạy hay lẩn tránh, tỏa hào quang rực rỡ đến nỗi không ai rời mắt khỏi Servant Saber.
Những con người tâm phục khẩu phục Saber ấy sẽ quay lưng với ta.’
Kiritsugu không hề có ý định để việc chiến đấu cho Irisviel và Saber. Đúng hơn, ông muốn sử dụng biện pháp riêng của mình để thay đổi chiều hướng diễn biến cụôc chiến. Ông sẽ là sát thủ ẩn mình trong bóng tối, và Saber sẽ là miếng mồi ngon lành nhử kẻ thù rơi vào bẫy của ông. Cô ta chẳng có vai trò gì hơn một miếng mồi nhử.
Irisviel không nói gì. Cách thức chiến đấu của Kiritsugu một khi cuộc chiến bắt đầu đã rõ ràng. Nhưng rồi nàng hiệp sĩ thật thà mà lòng đầy kiêu hãnh ấy sẽ phản ứng như thế nào khi biết được sự thật phũ phàng....điều Irisviel đang lo lắng.
“Irisviel, chị hiểu chồng chị và tin vào ông ấy nhiều quá.”
Không nhận thấy nỗi phiền muộn nơi Irisviel, Saber đứng nhìn người cha đang chơi đùa vui vẻ cùng cô con gái nhỏ ngoài khung cửa sổ.
“Hai người như một đôi vợ chồng bình thường đang kiếm tìm hạnh phúc.
Nhưng nếu Kiritsugu cho rằng tôi nên đi tìm hạnh phúc như một con người bình thường…thì ông ta đã lầm.”
“Vậy là cô đã không còn ác cảm với anh ấy?”
“Đương nhiên là không rồi.”
Saber gật đầu, nét mặt dịu dàng. Irisviel cảm thấy như cô đang lừa gạt người nữ Servant.
“Nhưng mà _____ Irisviel, nói với tôi mọi chuyện thế này có vấn đề gì không?”
“Ơ?”
Saber tiếp tục hỏi với đôi mắt tò mò:
“Ý tôi là…..chị sẽ phải rời xa con gái chị như Kiritsugu. Chắng phải ngày mai chúng ta sẽ bay đến Japan để tham gia cuộc chiến sao?”
“À, chuyện đó…Ổn thôi. Tôi và con không nhất thiết phải ở cùng nhau.”.
Irisviel mỉm cười hiền hậu để tỏ vẻ cảm ơn tấm lòng cùa Saber; nhưng nụ cười hờ hững, phảng phất nỗi cô đơn ấy càng khiến Saber băn khoăn hơn nữa.
“Một khi tôi không còn tồn tại dưới hình dạng Irisviel, điều đó không có nghĩa rằng tôi đã ra đi. Khi con gái tôi lớn lên, tôi chắc con bé sẽ hiểu. Vì nó là người phụ nữ của dòng tộc Einsbern.”
Gương mặt Saber đanh lại. Nàng không thể hiểu hết ẩn ý của Irisviel, nhưng có thể cảm nhận điềm không may trong câu nói ấy.
“Irisviel, chị sẽ sống. Tôi sẽ bảo vệ chị đến cùng. Tôi thề danh dự trên thanh kiếm của mình.”
Sự nghiêm trang của người hiệp sĩ khiến Irisviel nở nụ cười tươi tắn.
“Saber, hãy giành lấy Chén Thánh. Vì Master của cô và vì chính cô. Gia tộc Einsbern của chúng tôi sẽ có được thứ đã khát khao hơn 1000 năm qua. Rồi tôi và con gái tôi sẽ được giải thoát khỏi số mệnh. Tất cả chúng tôi trông cậy vào cô, Arturia.”
Một lần nữa, Saber không thể lĩnh hội hết ý nghĩa của nụ cười vương vấn buồn thương đó. Người phụ nữ có vẻ đẹp rực rỡ, mái tóc lấp lánh như màu tuyết và sự ấm áp dịu dàng, cô ấy đã bị số mệnh trói buộc vào điều gì? Để tìm ra câu trả lời thực sự vẫn còn là một quãng đường dài với Saber.
Cuộc tìm kiếm mầm cây kết thúc. Phần thắng nghiêng về Ilyasviel với 3 chiến thắng liên tiếp. Thật đáng tiếc cho Kiritsugu rằng họ không tìm thấy cây fieldnut nào để ông ăn gian cả.
Kiritsugu dẫn con gái về. Họ đang ở rất sâu trong rừng, sâu đến nỗi toà lâu đài Einsbern uy nghi chỉ còn là một cái bóng mờ trong màn sương.
“Lần tới con chơi với cha là khi cha từ Nhật về, cha nhỉ.”
Cô bé ngước nhìn cha với nụ cười tươi rói. Kiritsugu không dám nhìn thẳng vào mặt con; ông chỉ có thể giả vờ bình thản.
“Ừ…lần tới cha sẽ không thua con.”
“Uhuhu, cha mà không cố lên thì con sẽ hơn cha cả trăm điểm luôn đó!”
Nụ cười của con gái yêu bỗng trở thành nỗi dằn vặt với người đàn ông.
Nhưng làm sao ông có thể nói ra điều đó. Có lẽ khi mọi việc đã đến hồi tàn thì người cha mới dám nghĩ về nó.
Đây sẽ là cuộc chiến khốc liệt nhất từ trước đến giờ của Kiritsugu. Nhưng ông phải thắng. Để thực hiện điều đó, ông không được từ bỏ đời mình.
Lời hứa chơi cùng con gái yêu trong khu rừng đầy tuyết này chỉ là một chiến thắng nhỏ nhoi.
Cứu tất cả. Và hi sinh tất cả.
Đối với người đàn ông đã lập lời thề ấy, tình yêu là chướng ngại.
Nếu lỡ yêu ai, ông phải chôn chặt tình yêu ấy trong tim mình.
Đó là cái giá mà định mệnh buộc Kiritsugu phải trả để đổi lấy lí tưởng của ông. Tình yêu là nỗi cực hình để lại những vết thương không bao giờ lành.
Vậy thì, tại sao ---- ông tự vấn mình khi nhìn lên bầu trời lạnh giá trắng màu tuyết.
Tại sao ông lại yêu thương một người phụ nữ và đứa trẻ mang dòng máu của ông nhiều đến thế.
“Cha, chừng nào cha với mẹ mới làm xong công vịêc? Chừng nào cha về?”
Không biết đến những nỗi dằn vặt của cha, Ilyasviel hỏi bằng giọng vui vẻ.
“Chừng vài tuần nữa cha về, có lẽ thế ---- Còn mẹ, chắc là phải lâu hơn, để xem...”
“Vâng. Mẹ nói với Ilya rồi. Ilya sẽ không bao giờ được gặp lại mẹ nữa.”
Câu trả lời và gương mặt không gợn chút mây mù của con gái là đòn chí tử với Kiritsugu. Chân ông không còn đủ sức vượt qua con đường phủ tuyết.
Vợ ông đã sẵn sàng. Con gái ông đã chuẩn bị.
Sẵn sàng, chuẩn bị cho sự thật rằng Emiya Kiritsugu đang đem mẹ của con gái mình ra khỏi cuộc đời nó vĩnh viễn.
“Mẹ nói với con rằng cho dù con không còn được nhìn thấy mẹ nữa, mẹ vẫn ở bên con, rằng con không cần phải buồn. Mẹ luôn nói với con như vậy trước khi ngủ. Mẹ sẽ luôn ở bên Ilya.”
“...Cha hiểu rồi...”
Bàn tay Kiritsugu nhuốm đầy máu.
Ông không biết mình đã giết bao nhiêu người, cũng không biết đôi tay ông ô uế đến mức nào. Một người cha dùng đôi bàn tay nhơ bẩn ấy mà ôm con gái là không thể tha thứ - Kiritsugu luôn nghĩ như vậy.
Nhưng, chẳng phải nói câu ấy cũng như đang trốn chạy hay sao?
Con gái ông sẽ không bao giờ được mẹ ôm một lần nào nữa. Và nếu cha nó cũng từ chối làm điều đó… ai sẽ là người ôm Ilyasviel đây.
“Ilya con.”
Kiritsugu bảo con gái dừng lại, cúi xuống và vòng tay quanh con bé.
“Cha?”
Suốt 8 năm qua, mỗi lần ôm đứa con gái bé bỏng trong tay, Kiritsugu đều tự trách mình không làm hết trách nhiệm của một người làm cha. Ông chỉ có thể ghê tởm chính mình vì chẳng làm được gì hơn nữa.
Nhưng giờ, tất cả đều không còn ý nghĩa. Là một người cha, ông phải bao bọc con gái trong vòng tay ấm áp. Không trốn chạy, không gian dối.
“Con sẽ chờ cha chứ, Ilya? Con có thể chịu cô đơn một mình cho tới khi cha về không?”
“Vâng! Con chịu được. Con sẽ chờ cha mẹ về.”
Kí ức về ngày hôm nay và niềm hạnh phúc của người con gái có lẽ sẽ theo Ilya đến hết cuộc đời. Trong giọng nói tươi vui của con bé không hề có đau khổ.
“Vậy thì cha cũng hứa với con. Cha sẽ không để con chờ lâu. Cha sẽ về càng nhanh càng tốt.”
Emiya Kiritsugu lại gánh lên vai thêm một gánh nặng.
Tình yêu thương và cũng là sự tra tấn giày xéo ông. Ông ôm chặt đứa con gái của mình, một lần cho mãi mãi.
-222:24:48
Uryuu Ryuunosuke không thích xem những cảnh phim máu me đầy bạo lực. Dù vậy, hắn vẫn hiểu sự cần thiết của loại hình giải trí ấy.
Không chỉ có phim kinh dị, mà cả phim chiến tranh, những bộ phim gây sợ rẻ tiền và tất tần tật mọi thứ từ phim hành động cho đến những thể loại kịch nghệ; tại sao con người lại không ngừng tô vẽ cái chết trong tác phẩm của họ?
Câu trả lời ở đây có thể vì người xem muốn giảm đi nỗi sợ hãi cái chết khi quan sát một thứ hình ảnh giả tạo của “tử thần”.
Con người thấy tự hào vì “trí tuệ” và cũng là “sự ngu ngốc đến mức kinh tởm” của họ. Do vậy nếu họ có thể “trải nghiệm” và “cảm nhận” được sự sợ hãi kẻ khác hứng chịu, thì nó đâu khác gì một chiến thắng khi vượt qua chính nỗi sợ đó.
Tuy nhiên, “chết”... đơn giản là thứ mà người còn sống không thể lĩnh hội được. Vậy nên ta không có cách nào để hiểu rõ ý nghĩa của nó. Đó cũng là lý do mà con người chỉ có thể cố đoán định bản chất của cái chết bằng cách ngồi xem người khác chết đi thế nào, để rồi tự ngụy tạo ra một cảm nhận giả tưởng.
Quả thật, trong một xã hội coi trọng giá trị của sự sống, thứ trải niệm ảo này chỉ có thể xuất hiện trên phim ảnh mà thôi. Tất nhiên, ở nơi mà chiến tranh và bom đạn khiến cảnh đổ máu xảy ra thường xuyên như cơm bữa, thì chẳng có ai muốn xem phim kinh dị cả.
Tương tự như thế, thưởng thức những pha đau đớn về vật lý, khủng hoảng tinh thần hay một nỗi sợ hãi nào đó qua phim ảnh là một nhu cầu quan trọng. Nếu không thể tự mình trải qua những cảm giác kinh khủng ấy, bạn thường có xu hướng thích thú và thoải mái khi trông thấy người khác trải nghiệm chúng – Đó là lý do tại sao trên màn bạc hay màn hình TV chiếu những bộ phim đầy nước mắt, tiếng gào thét và nỗi đau.
Điều đó chẳng có gì xấu cả, nó cũng dễ hiểu thôi. Ryuunosuke đã từng sợ “cái chết” như bao người bình thường khác. Hắn đã có thể trở thành một tên nghiện phim kinh dị, nếu như cái chết thực sự nhẹ nhàng đến thế, và sự sợ hãi bị chinh phục chỉ nhờ vào việc nhìn thấy những xác chết được hóa trang bằng những hiệu ứng đặc biệt, hay màu mực đỏ cho ta cảm giác máu vương vãi khắp nơi, hoặc các diễn viên la hét trong những cảnh chết chóc nhạt nhẽo.
Nhiều người tốn bao hơi sức tranh luận rằng những thước phim miêu tả cảnh bạo lực gây ra ảnh hưởng tiêu cực tới giới trẻ, nhưng đối với Uryuu Ryuunosuke chuyện này cực kỳ lố bịch. Bởi lẽ nếu tiếng la hét và máu me bắn tung tóe trong loại phim ấy mà thực tế hơn được một chút, hắn đã chẳng trở thành một tên sát nhân điên loạn.
Xét cho cùng đây cũng chỉ là kết quả của sự tò mò. Ryuunosuke chỉ muốn biết “chết” thực sự là gì. Màu đỏ tươi của máu phun ra từ động mạch, được sờ và cảm thấy hơi nóng trong ổ bụng. Cơn đau quằn quại mà nạn nhân hứng chịu khi hắn rút hết ruột gan của họ cho đến chết, tiếng thét lúc ấy chả khác nào những giai điệu du dương. Chao ôi, chẳng có thứ gì có thể sánh được với chúng.
Người ta nói giết người là tội ác. Nhưng hãy nghĩ lại đi. Không phải Quả Đất này đã quá chật chội với 5 tỉ người rồi sao? Ryuunosuke hiểu rõ con số đó lớn đến mức nào. Bởi vì lúc nhỏ hắn đã từng đếm những viên sỏi trong công viên. Tất nhiên hắn nản lòng khi đếm tới viên thứ mười ngàn, nhưng cho đến giờ hắn cũng không quên cảm giác bực bội lúc đó. Loài người nhiều gấp năm trăm ngàn lần số sỏi hắn đếm được. Hơn nữa, hắn nghe nói số người sinh ra và chết đi mỗi ngày có thể lên đến mười ngàn người. Vậy việc quái gì phải nặng lòng nếu giết thêm một ai đó? Bên cạnh đó, bằng cách giết từng người một, Ryuunosuke có thể đem đến cho họ cái chết hoàn hảo nhất. Thường thì hắn thích thú để cho “quy trình của cái chết” kéo dài tới nửa ngày. Theo động cơ cũng như kinh nghiệm của hắn, lượng thông tin mà cái chết từ một người đem lại còn quan trọng hơn hết thảy trải nghiệm sống ngắn ngủi ta có được trên đời này. Với lập luận này, chẳng phải Uryuu Ryuunosuke đi giết người là một hành động mang tính sáng tạo hay sao?
Tin vào điều đó, Ryuunosuke lang thang khắp nơi, không ngừng gây ra án mạng. Hắn chẳng sợ luật pháp. Cái cảm giác bị giam cầm và còng tay ―nhiều kẻ khác dám phải kinh hãi khi nghĩ đến nó― là thứ mà hắn hiểu “tường tận” đến mức không còn xa lạ gì; hắn đã “chứng kiến” đủ kiểu chết cả từ treo cổ cho đến ngồi ghế điện rồi. Nhưng lý do khiến hắn trốn tránh pháp luật, đơn giản bởi vì sẽ chẳng làm được gì khi bị tách khỏi tự do mà sống trong tù; do đó hắn xem việc tìm kiếm khoái lạc đời thường là tốt hơn cả, rằng nó là lựa chọn đúng đắn cho một người khỏe mạnh.
Hắn thỏa mãn khi vắt cạn sinh lực của những người hắn giết, tách rời họ với những cảm nhận thông thường như cơn giận dữ hay xúc cảm. Khiến nạn nhân biết rõ thời khắc và tình huống họ phải chết, tự bản thân việc này cũng có ý nghĩa sâu sắc như sống hết một cuộc đời rồi.
Khi cận kề cái chết, những người bình dị nhất cũng có thể hành động lạ thường, và ngược lại, những kẻ được xem là đặc biệt lại chết một cách vô cùng nhạt nhẽo― để được chứng kiến vô số sắc thái khác biệt trong con người, Ryuunosuke đeo đuổi cái chết; và trong khi trở thành một chuyên gia nghiên cứu cái chết, hắn lại học được rất nhiều về một khái niệm hoàn toàn trái ngược của nó, sự sống. Càng giết thêm nhiều người, hắn càng hiểu rõ những sinh mạng mình đã cướp đi.
Cái kiến thức ấy, sự sâu sắc ấy tự bản thân nó đã là một dạng nhân phẩm, một phong cách.
Dù Ryuunosuke không tìm ra lời nào để giải thích chính xác bằng cách nào hắn có khả năng đó― nếu thực sự phải tóm gọn lại, hắn sẽ nhắc đến cảm giác “tuyệt đỉnh”.
Nếu phải so sánh, nó giống như tiếng mưa lách tách vỗ vào then sắt, hay như tiếng sỏi rơi tung tóe trên nền đất. Hắn là một kẻ không hề biết đến những sân chơi vui nhộn, không thân thuộc với bất cứ địa điểm nào, và cũng không hiểu nổi niềm vui của kẻ khác. Nhưng nếu nói về tích lũy kinh nghiệm và tuân theo một cách hành xử nhất định, thì hắn quả là một khách hàng thân thuộc, luôn được chào đón nồng hậu đến nơi mà hắn thỏa sức điều khiển tâm trạng con người. Đó mới là “tuyệt đỉnh” của một lối sống.
Có thể nói Ryuunosuke là một nghệ sỹ thực thụ khi nhắc đến khía cạnh cuộc sống. Cứ như thế, hắn sẽ tìm ra những phương cách mới mẻ để thưởng thức tinh túy từ các nạn nhân, tận hưởng hương vị của sự thỏa mãn trong hắn.
Đây không phải là cách nói ẩn dụ; vào buổi đêm trong thành phố, niềm vui thích của Ryuunosuke chính là khả năng tuyệt vời khi dụ dỗ nạn nhân của hắn, gần giống như bẫy đèn để nhử bọn côn trùng vậy, đặc biệt là với những người khác phái. Hắn có một mối quan tâm không nhỏ dành cho họ. Mặt khác, phụ nữ dĩ nhiên sẽ bị phong thái và phẩm cách từ dáng điệu bí ẩn của hắn quyến rũ. Sau khi cám dỗ họ bằng lạc thú, bao giờ hắn cũng thưởng thức vài ly rượu, và những cô gái hắn từng chạm đến đều kết thúc như một cái xác không hồn bê bết máu.
Thành phố giữa đêm sẽ luôn là bãi săn mồi của Ryuunosuke, và con mồi sẽ không bao giờ nhận ra mối hiểm họa là Ryuunosuke.
Có một lần, hắn nhìn thấy một con báo trong chương trình ‘Thế giới động vật’, và bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của nó. Hắn cảm thấy có một mối liên hệ với cách thức săn mồi của loài báo. Chúng quả là loại mãnh thú với cách tồn tại tuyệt vời nhất để hắn học theo.
Kể từ đó, Ryuunosuke tự cho mình là một con báo. Hắn luôn luôn mặc trang phục có gì đó từ loài vật này. Một chiếc áo khoác, quần dài, đôi giày hay chiếc mũ, thậm chí như chưa đủ phô trương, hắn còn có cả bít tất, quần lót hay găng tay loại này. Ngoài ra, còn một chiếc nhẫn mắt mèo màu hổ phách, thứ luôn nằm trong túi quần hắn mặc dù hắn không thể đút nó vừa ngón giữa của mình, và tất nhiên hắn không quên mang theo bên mình sợi dây chuyền có gắn một chiếc nanh báo.
Và cứ thế, cho đến khi tên sát nhân Uryuu Ryuunosuke bắt đầu cảm thấy mất hứng với động cơ của mình.
Sau khoảng 30 đối tượng, cách tra tấn và hành hình của hắn trở nên nhàm chán vì chúng cứ mãi lặp đi lặp lại. Dù đã thử hết phương pháp có thể nghĩ đến, ngay cả khi nhìn thấy cảnh họ đau đớn quằn quại mà chết, Ryuunosuke không còn thưởng thức được hương vị đầy kích thích từ sự phấn khích trong việc hành hạ con mồi nữa.
Quyết định trở lại nơi mình sinh ra, Ryuunosuke về nhà sau gần 5 năm trời, nhưng hắn không gõ cửa mà lẻn vào nhà kho cũ ở sân sau trong lúc cha mẹ hắn đang say ngủ. Cũng ngay tại nơi này hắn được nếm trải cảm giác giết người lần đầu tiên, giờ thì nó đã trở nên đổ nát, hoang vắng.
Cơ thể người chị của hắn nằm đó, giờ đây đã hoàn toàn biến đổi, nhưng hắn biết chị vẫn chờ hắn suốt 5 năm, ở cái nơi duy nhất mà hắn có thể trốn. Chị hắn vẫn câm lặng, và chẳng thể nhận ra từ cô chút thất vọng nào cho thấy cuộc viếng thăm của hắn chỉ là trò ngu ngốc; tuy vậy cô đã nhặt lấy một quyển sách mục nát từ đống đồ bỏ đi trong phút cuối cùng của mình.
Quyển sách mỏng manh bị mọt ăn gần hết này không phải bản in lại mà được viết tay. Tái bút ghi năm thứ chín triều đại Keiō. Nó đã hơn cả trăm năm tuổi, tính ngược từ kết thúc của thời Bakumatsu.
Thường xuyên đụng đến văn thư Trung Hoa khi còn đi học, Ryuunosuke đọc từng lời trong nó không mấy khó khăn. Nhưng vấn đề lại nằm ở chính nội dung của nó. Nét chữ rời rạc, đã thế lại rất nhỏ nhắc đến những điều vớ vẩn về một loại tà thuật nào đó. Hơn nữa, văn tự này bao gồm cả khái niệm của Cơ Đốc Giáo và quỷ Satan, ắt hẳn có liên quan đến ma thuật Tây phương. Đại loại là việc hiến tế con người cho quỷ dữ ở thế giới bên kia để triệu hồn, chỉ toàn những thứ hư cấu.
Vào giờ khắc tận diệt của thời đại Edo, nghiên cứu kiến thức Tây phương bị cho là hoạt động dị giáo. Vậy nên một quyển sách về phép phù thủy, được xem như vật báng bổ nhất của dị giáo, chỉ có thể là trò chơi khăm mà thôi; Thế nhưng Ryuunosuke lại cảm thấy hứng thú với nó, mặc kệ nó có xác thực hay không. Chỉ nguyên việc giữ một tài liệu cổ tà ác trong kho nhà mình đã rất lạ thường và đầy phong cách rồi. Thế là đủ kích thích để giúp một tên giết người điên cuồng như hắn hưng phấn.
Ngay tức thì, Ryuunosuke tìm một nơi làm “khu đất thiêng” như sách miêu tả, rồi tiếp tục việc tra cứu của mình. Hắn chỉ không hiểu ý nghĩa của nơi được gọi là thành phố Fuyuki, nhưng Ryuunosuke đang tạo ra những chi tiết quan trọng giúp hắn khám phá cách tàn sát cực kỳ mới mẻ, như thế là quá đủ cho hắn. Vì vậy, hắn làm theo hướng dẫn như trong quyển sách cổ mà không chút đắn đo gì.
Khi hắn ra tay hạ sát một cô bé đang nô đùa trong một khu xưởng bỏ hoang để làm vật hiến tế đầu tiên, sự hưng phấn còn tuyệt hơn cả mong đợi. Cách thực hiện lễ tế hoàn toàn cuốn hút Ryuunosuke dù hắn chỉ vừa biết đến nó. Và hắn càng trở nên cuồng dại, khiến cả thành phố ngập trong khiếp sợ sau ba lần thử nghiệm không thành công.
Tương tự như thế, Uryuu Ryuunosuke đột nhập vào một gia đình bốn người cho phi vụ thứ tư của mình; cho tới lúc ấy hắn vẫn say sưa ngây ngất bằng “trò vui” đầy mới lạ, nhưng sau đó hắn bắt đầu bình tĩnh lại khi đã lặp lại cùng một tội ác đến bốn lần. Tiếng gọi của lý lẽ như đang thì thầm bên tai hắn.
Hắn từng liên tiếp phạm tội khi lang thang khắp mọi miền đất nước. Tuy vậy hắn không bao giờ giết người đến hai lần trong một địa điểm, và luôn cẩn thận giấu kín những cái xác. Hầu hết nạn nhân của Ryuunosuke mãi đến giờ vẫn được xem như bị mất tích.
Nhưng lần này, một chuỗi các sự kiện chưa kịp phi tang sẽ khiến người dân chú ý; chuyện này thật là điên rồ. Vì quá chìm đắm vào phương thức mới, hắn đã hoàn toàn quên mất sự thận trọng thông thường của mình. Sai phạm lần này đặc biệt nghiêm trọng. Trong ba lần trước, hắn đã cố tạo vòng tròn ma thuật bằng máu, nhưng lại thất bại vì không lấy đủ máu, vậy nên lần này, để có một vòng tròn hoàn hảo, hắn quyết định giết nhiều người hơn thường lệ; Tuy nhiên, giết một lúc cả một gia đình có vẻ quá lộ liễu. Bọn cảnh sát sẽ náo động cả lên, mọi người trong vùng sẽ cảnh giác hơn nữa. Và phải trốn chui trốn nhủi chắc chắn không phải là phong cách của “loài báo”.
Cuối cùng thì Ryuunosuke cũng đưa ra quyết định ―tạm thời, hắn nên để thành phố Fuyuki yên lặng trở lại. Đương nhiên hắn không từ bỏ kế hoạch mới lạ vừa tìm được, nhưng hắn sẽ phải giảm con số nạn nhân từ 3 xuống còn 1 cho an toàn.
Sau khi ngẫm nghĩ một lúc, Ryuunosuke, giờ đã ổn định tinh thần, tập trung vào buổi lễ một lần nữa.
"♪ Lấp đầy, lấp đầy, lấp đầy nào. Với mỗi phép lặp, bốn lần...à không, năm lần. Ờ, chỉ khi hoàn thiện, hãy phóng thích...Phải không nhỉ?”
Vừa đọc đoạn thần chú triệu tập, Ryuunosuke vừa cầm cây cọ nhúng đầy máu phết lên sàn gỗ của phòng khách trong tòa nhà. Nghi lễ này đòi hỏi hành động nghiêm túc, và sự sắp đặt này chẳng hợp chút nào với phong cách của hắn. Dù gì thì hắn cũng chỉ làm để thỏa mãn cảm giác của mình thôi.
Đã luyện tập cả đêm, hắn hoàn tất vòng tròn trong chốc lát. Vậy thì không cần phải do dự thêm nữa. Dù hắn chỉ mới vừa giết người cha, người mẹ và cô con gái lớn để lấy máu của họ.
"♪ Lấp đầy, lấp đầy, lấp đầy nào. Vậy là đã năm lần. Được chưa nhỉ?”
Vết máu còn sót lại trông rất hợp với các tác phẩm nghệ thuật đang treo trên tường. Chán nản khi phải chờ thêm một phản ứng kế tiếp, hắn quay sang người còn sống sót cuối cùng giờ đang co ro trong góc nhà― một thằng bé cỡ học sinh tiểu học bị trói chặt bằng dây thừng. Nó đang khóc nức nở, hai mắt sưng mọng, nhìn trừng trừng vào những gì còn sót lại của những người thân trong gia đình.
“Này― nhóc, mày tin có ma quỷ trên đời không?”
Ryuunosuke nghiêng đầu đầy cảm xúc và hỏi thằng bé. Tất nhiên hắn chẳng trông đợi câu trả lời : bị bịt miệng lại, tất cả những việc mà nó có thể làm là run rẩy sợ hãi.
“Mày biết không, báo chí không ngừng gọi tao là ác quỷ. Nhưng không kỳ quặc sao? Chỉ một thanh thuốc nổ cũng giết nhiều người hơn tao rồi.”
Trẻ con rất thú vị. Ryuunosuke thích chúng. Người lớn thường la hét khi hoảng loạn, vậy tính ở khoản này thì con nít dễ xử hơn nhiều. Hắn chỉ cần ra tay đúng ngay lúc chúng mất kiềm chế.
“Hờ, cũng chẳng sao. Tao là một loại ma quỷ. Nhưng nếu thực sự có ma quỷ trên đời, tao muốn nói chuyện vài câu với chúng. Chà, thế mới tốt.” ‘Ừm, tên tôi là Uryuu Ryuunosuke, tôi là một con quỷ!’ đoạn giới thiệu ấy thế nào? Tao sắp được xác thực chuyện đó đây. Ma quỷ có thật hay không...”
Khiếu hài hước tăng lên, Ryuunosuke thử nó lên thằng bé đang run lẩy bẩy. Thường thì nói chuyện dễ gây bực mình, nhưng khi thấy máu― và đứng trước một người sắp chứng kiến tử thần, hắn trở nên khác hẳn và thích được nói.
Hắn chỉ cần máu của 3 người, vậy nên thằng bé mới sống được đến giờ. Mặc dù hắn có nghĩ đến việc bỏ chút thời gian xử nó, nhưng đó là sau buổi lễ kìa.
“Dù gì. Nếu tình cờ một con quỷ hiện ra, chẳng phải là ngốc nghếch khi chưa chuẩn bị trà nước? Vậy thì... nhóc, mày có nghĩ tao nên biểu diễn chút đỉnh khi ông Yêu Ma đến đây gặp ta?”
“..!”
Thằng bé hiểu được ý định của Ryuunosuke. Hắn cười khanh khách khi thấy nó, với hai mắt mở to, cố gắng xoắn người và vật lộn mà không nói được lời nào.
“Tao thắc mắc không biết bị một con quỷ giết sẽ thế nào. Nó sẽ nhanh gọn hay theo kiểu bừa bãi nhỉ, cảnh ấy đáng xem đấy. Không phải thứ ngày nào cũng được coi đâu― Ui da!”
Vết đau nhói bất ngờ như một gáo nước lạnh tát vào cơn điên loạn của Ryuunosuke.
Nó phát ra từ mu bàn tay phải của hắn. Cảm giác đó giống như đang nhúng tay vào một nồi độc dược. Ngay lúc cơn đau bắt đầu, một vết sưng từ từ hiện ra, dịu xuống thành một vết bầm trên da hắn.
“...Cái quái gì thế này??”
Bằng cách nào đó, một họa tiết trông như hình xăm ở ngay trên cánh tay bị đau của hắn, và hắn hoàn toàn chẳng hiểu được việc này.
“...Aaaa.”
Thay vì cảm thấy lo lắng, Ryuunosuke phản ứng một cách hào hứng. Cái họa tiết khó hiểu nhìn như ba con hắn cuốn vào nhau giông giống kiểu xăm mình của bộ lạc nào đó, thực sự trông nó cũng không tệ.
Nhưng sự khoái chí ấy không kéo dài lâu, Ryuunosuke phải quay người đầy cảnh giác khi cảm thấy một luồng khí chạy sau lưng mình.
Không khí trở nên nóng bức. Một luồng khí lẽ ra không thể ở nơi này. Chỉ phút chốc, cơn gió ấy biến thành một cột lốc thổi bay vật dụng trong căn phòng.
Ryunosuke nhìn trừng trừng vào vòng tròn triệu tập vẽ trên sàn, vì nó đang tỏa ra thứ ánh sáng lân quang kỳ dị.
Hắn đã trông đợi có sự khác thường xuất hiện, nhưng― một hiện tượng rõ ràng đến vậy hắn không hề nghĩ đến. Một việc quá kỳ lạ, cứ như trong những thước phim kinh dị mà hắn ghét. Nhưng những hiệu ứng mà hắn từng xem đều nực cười, còn thứ trước mắt hắn chắc chắn là có thật.
Cơn lốc dữ dội cuốn phăng mọi thứ, nó đập nát chiếc TV, lọ hoa và cả các đồ nội thất khác. Ở giữa vòng tròn ma thuật dần dần nổi lên một làn sương, với những tia sáng lấp lánh. Dù vậy cảnh tượng siêu nhiên này vẫn không làm hắn khiếp sợ, giờ hắn chỉ như đứa trẻ nôn nao khi thấy trò ảo thuật, trong lòng rạo rực sự trông đợi.
Bị lôi cuốn bởi sự việc bí ẩn―
Niềm say mê khi tìm ra điều kỳ diệu được gọi là “cái chết”. Ánh hào quang lộng lẫy đang tan biến dần khi hắn không còn hứng thú trong việc giết người, giờ lại tỏa sáng―
Một tia sáng lóa lên. Sau đó là tiếng gầm rống của sấm chớp.
Chúng tác động vào cơ thể của Ryuunosuke. Cảm giác ấy như bị tan chảy trong dòng nham thạch nóng cực độ.
Năng lượng đã từng chảy trong huyết mạch nhà Uryuu. Giờ đây bị quên lãng bởi chính con cháu họ, nhưng vẫn còn hiện hữu; lượng “Mạch ma thuật” luôn say ngủ bên trong Ryuunosuke cho đến tận lúc này đang tuôn trào như sóng vỡ bờ. Nguồn “năng lượng xa lạ” vừa xuất hiện trong người hắn lập tức chảy ngược sang thứ vừa được gọi lên từ thế giới ngầm.
― Có thể nói, đây là ngoại lệ trong các ngoại lệ.
Trước tiên, Chén Thánh tại Fuyuki cần có bảy Servant. Thực ra không phải những người đủ khả năng được triệu hồi Servant và trở thành Master, mà chính Chén Thánh sẽ chọn người thích hợp đến khi đủ con số cần thiết.
Việc triệu tập Servant cũng rất quan trọng trong sự xuất hiện của Chén Thánh. Những pháp sư cần mẫn thực hiện buổi lễ tế chỉ là sự chuẩn bị cho việc tạo ra mối liên kết với một Servant hoàn hảo và đáng tin cậy. Vì thế ngay cả khi chỉ có vòng tròn triệu tập tạm bợ và không biết niệm thần chú, một người vẫn gọi được Servant nếu anh ta có thánh tích, vật cần thiết nhất trong các điều kiện của cuộc chiến Chén Thánh...
“― Ta hỏi ngài”
Một giọng nói nhẹ nhàng nhưng lạ lẫm vọng ra từ màn sương mờ ảo.
Cơn gió đã ngừng thổi. Vòng tròn ma thuật không còn tỏa sáng nữa, căn phòng lại chìm trong đêm tối, và vệt máu tươi được vẽ lúc nãy đen sẫm lại như vừa bị đốt cháy. Và từ đó, người vừa cất giọng nói ban nãy thình lình xuất hiện trước Ryuunosuke.
Một gương mặt trẻ trung không hề thấy nếp nhăn nào. Một cặp mắt to kỳ dị cùng với gò má béo tốt. Thêm vào đó là vẻ xanh xao trên khuôn mặt, khiến Ryuunosuke liên tưởng người này đến một trong những bức tranh của Munch.
Quần áo của hắn trông cũng khá kỳ cục. Với dáng người đủ cao như có thể vươn đến các tầng mây, lại khoác chiếc áo choàng rộng lùng thùng, được trang trí bằng những nút khóa làm từ các kim loại quý; kiểu dáng này hệt như của những tên “phù thủy độc ác” trong truyện tranh vậy.
“Ngài, người đã gọi ta, người thỉnh cầu ta, triệu tập một Servant thuộc Caster class... Ta muốn biết tên ngài. Ngài là ai?”
“...”
Ryuunosuke không thốt nên lời. Thứ bước ra khỏi vòng tròn triệu tập vừa lóe sáng và bốc khói nghi ngút― chỉ là một người bình thường, không hề đúng như mong đợi của hắn. Chẳng phải quái vật kinh khủng gì, mà là một kẻ hoàn toàn bình thường? Ryuunosuke vẫn còn bối rối. Quần áo của tên này đúng là quái đản, nhưng liệu hắn có thực sự là quỷ?
Sau một lúc gãi đầu, Ryuunosuke quyết định trả lời.
“À ờ, tên ta là Uryuu Ryuunosuke. Ta hành nghề tự do. Sở thích của ta nói chung là giết người. Ta thích con nít và phụ nữ trẻ. Gần đây ta đang muốn rèn giũa lại ngón nghề của mình.”
Người đó gật đầu. Dường như ông ta chẳng quan tâm gì khác ngoài cái tên.
“Được lắm. Giao kèo đã hoàn tất. Mong muốn giành được Chén Thánh của ngài cũng là của tôi. Chúng ta sẽ chiếm lấy bảo vật của thiên đường.”
“Chén...Thánh?”
Ngay lúc ấy, Ryuunosuke còn chưa hiểu nó là gì. Nhưng, sau khi nghĩ lại, chẳng phải quyển sách cũ nát đó đề cập đến thứ tương tự như thế sao? Hắn đã bỏ đoạn đó vì thấy nó nhảm.
“...Thôi nào, mấy chuyện phiền phức để lát nữa hẵng nói.”
Ryuunosuke lắc nhẹ tay, hướng cằm về phía thằng bé trong góc nhà.
“Giờ hãy bàn chuyện trà nước đã. Ông có ăn nó được không?”
Người đó, vẫn với gương mặt vô cảm, dò xét thằng bé và Ryuunosuke. Sự im lặng của ông ta khiến Ryuunosuke bồn chồn, không chắc lời lẽ và ý định của hắn đã rõ ràng chưa. Có thể đòi hỏi như vậy là quá cao. Vì rốt cuộc chẳng có sách vở nào bảo quỷ dữ ăn thịt trẻ con cả.
Người đàn ông lặng lẽ rút một quyển sách từ túi áo của mình. Nó dường như là một cổ vật từ rất lâu rồi. Ắt hẳn đó chính là dụng cụ của quỷ.
Ryuunosuke ngay lập tức nhận ra bìa sách làm bằng loại da gì.
“Ah, tuyệt! Đó là da người, phải không?”
Ryuunosuke chẳng cần săm soi lâu hơn bởi vì hắn từng cố làm một cái đèn bọc bằng da người sống. Tuy nhiên hắn mau chóng nản lòng do khiếu thủ công thậm tệ của mình, vậy nên chỉ biết thán phục bậc tiền bối đã thực hiện một việc tương tự cho đến cùng.
Người đàn ông, chỉ khẽ liếc qua Ryuunosuke, phớt lờ lời khen của hắn và nhẹ nhàng mở quyển sách, tay nhanh nhẹn lật qua từng trang giấy; rồi ông ta thầm thì vài câu khó hiểu, và như thể đã hoàn tất công việc, đóng sách lại và bỏ vào túi.
“...?”
Mặc cho Ryuunosuke đang ngơ ngác, ông ta bước đến chỗ thằng bé đang nằm. Với những sự kiện kỳ lạ liên tục diễn ra, thằng bé lại càng co rúm hơn, như thể biết trước cái chết là không tránh khỏi, cố gắng bò ra xa người đàn ông.
Nhìn thấy tình trạng của nó, người đàn ông bỗng nhiên tỏ ra đầy cảm thông và tốt bụng, khiến Ryuunosuke giật bắn mình. Vậy là sao?
“― Không việc gì phải sợ cả, cậu bé.”
Không như vẻ ngoài đáng sợ của mình, người đàn ông từ tốn nói với đứa bé. Nó dần dần cảm nhận được hơi ấm, và nhìn ông bằng con mắt đầy do dự.
Để đáp lại, người đàn ông mỉm cười gật đầu, cúi xuống và vươn tay đến đứa bé― nhẹ nhàng cởi trói cho nó.
“Cậu đứng được không?”
Như để khích lệ, người đàn ông vỗ vai thằng bé, giúp nó đứng dậy.
Tất nhiên Ryuunosuke tin chắc người này là một con quỷ, nhưng hắn thật sự bất mãn với cách ông ta đối xử với thằng bé. Chẳng lẽ tên này định cho nó sống?
Dù thế nào, nhìn vào cũng đủ biết người này thật quái dị. Khi im lặng, ông ta trông đáng sợ như người chết, nhưng khi tươi cười lại chẳng khác nào một vị thánh.
“Cậu bé, cánh cửa phía kia sẽ dẫn cậu ra khỏi đây. Cứ đi thẳng nhé, đừng nhìn xung quanh. Cậu làm được chứ?”
“...Vâng...”
Trước cái gật đầu kiên quyết của thằng bé, người đàn ông cười rạng rỡ, nhẹ nhàng đẩy nó tiến lên.
Nó bắt đầu chạy qua căn phòng nhuốm đầy máu, tránh phải nhìn vào thi thể của người thân như lời ‘vị ân nhân’ chỉ dẫn.
“Ê…này.”
Đương nhiên Ryuunosuke không thể bỏ qua chuyện này và cất lời, nhưng người đàn ông ra hiệu ngăn lại. Vậy nên hắn chỉ còn biết nhìn thằng bé chạy mất.
Nó đang mở cửa và bước vào hành lang. Ngay trước mặt đã là lối thoát. Cặp mắt đầy hoảng sợ ban nãy nay lại sáng lên tia hy vọng.
Cao trào của câu chuyện đến ngay lúc ấy.
Thằng bé chạy đến lối ra vào, sau lưng là bậc cầu thang. Bất ngờ từ tầng trên, thứ gì đó tràn xuống như một cơn bão tuyết, đổ ập vào người nó. Các sợi thừng cực lớn ― không, cả một tảng nhung nhúc rắn độc ― ở hình thù không diễn tả nổi, hay có thể nói, chúng như một sinh vật xoắn quanh người đứa bé, cuốn nó lên tầng thứ hai.
Sau đó là ― một tiếng thét kinh hồn. Âm thanh do vô số sinh vật đánh lưỡi, cùng với tiếng răng rắc của xương bị vỡ nát. Sự việc diễn ra ở tầng trên dễ dàng kích thích trí tưởng tượng dẫu ta không hề được chứng kiến tận mắt.
Người đàn ông lạ mặt nhắm mắt, ngửa mặt lên trời, chăm chú lắng nghe thanh âm chỉ có trong ác mộng. Tay ông ta khẽ run. Ắt hẳn ông ta rất xúc động.
Nhưng Ryuunosuke cũng thấy đầy cảm xúc...Không, vì hắn không lường trước việc như vậy, sự phấn chấn lại càng lớn hơn.
“Đây quả là một nỗi sợ hãi đầy mới mẻ.”
Cảm nhận từ cảnh tượng ghê rợn ông ta chính tay lập ra vẫn chưa phai mờ ― không còn nghi ngờ gì nữa, ông ta là một con quỷ đích thực― người đàn ông tiếp tục nói, như thể mình đang chìm trong giấc mộng.
“Khiếp sợ chính là cảm giác biết trước mình sẽ phải chết. Ý nghĩa thực sự của kinh hoàng không nằm ở trạng thái bị động, mà cần có sự thay đổi― đó là giờ phút khi hy vọng biến thành tuyệt vọng.
Ngài thấy thế nào? Về hương vị của cái chết và nỗi sợ tươi mới.”
“―Kh―”
Ryuunosuke không còn lời nào để nói.
‘Thứ’ đang róc rỉa cơ thể của đứa bé trên kia chắc chắn là do hành động của người này. Xét cho cùng, hắn là người hiện ra từ vòng tròn máu đó. Nên có thể hiểu được sẽ có chuyện xảy ra khi hắn mở một quyển sách bọc bằng da người.
Phương pháp ấy thật đáng sợ, nhưng đó mới là thứ tuyệt vời theo như triết lý của hắn. Ryuunosuke không xứng tầm với sức sáng tạo và sự tinh tế trong cái đầu óc đen tối ấy. Người có một “khiếu thẩm mỹ” với cái chết khác biệt, làm lay động mọi cảm quan như thế này thật đáng ca ngợi.
“Tuyệt! Thật tàn ác! Than ôi, quá tuyệt vời!”
Cảm thấy như muốn nhảy cẫng lên, Ryuunosuke nắm lấy tay người đàn ông và lắc mạnh. Làm bạn với người này chẳng khác nào được gặp một nhân vật nổi tiếng. Kẻ giết người hàng loạt Uryuu Ryuunosuke cuối cùng cũng tìm ra người để kính phục và tôn trọng trong cái thế giới nhàm chán này.
“Được rồi! Tôi chẳng biết gì về thứ Chén Thánh đó hết, nhưng tôi sẽ làm theo lời ngài! Tôi sẽ giúp nếu như ngài muốn. Chúng ta sẽ giết nhiều người hơn. Còn rất nhiều ngoài kia. Hãy cho tôi xem thêm cách thức sáng tạo của ngài!”
“Cậu là một người đáng mến đấy.”
Hiểu được tâm trạng của Ryuunosuke, người đàn ông đáp lại sự niềm nở của hắn bằng một nụ cười thuần khiết.
“Ryuunosuke, phải không. Đây quả là dấu chỉ tốt khi tôi nhận được một Master hiểu biết như cậu. Nó sẽ trở nên một cơ hội lý tưởng để tôi thực hiện khát vọng của mình.”
Khi cuộc triệu tập được tiến hành mà không có chất xúc tác, heroic spirit gọi ra sẽ có cách nghĩ tương tự như Master của mình. Người được một sát nhân máu lạnh triệu hồi sẽ là kẻ để lại ô danh vì những hành vi tàn ác; một heroic spirit với sở thích của bạo chúa. Hay nói khác đi, dựa trên bản chất đó, ta nên gọi hắn là một linh hồn thù hận thì hơn.
“À― đúng rồi, tôi còn chưa biết tên ngài.”
Nhớ đến phần quan trọng, Ryuunosuke bắt đầu cư xử thân mật hơn.
“Tên tôi, à, trong thời đại này, cậu có thể gọi tôi là...”
Người đàn ông đặt tay lên môi, suy nghĩ một lúc rồi nói.
“...Vậy từ giờ cậu có thể gọi tôi là “Bluebeard”. Rất hân hạnh được gặp cậu.”
Ông ta trả lời thân tình với nụ cười thánh thiện.
Vậy là ở vị trí cuối cùng của Heaven’s Feel lần 4 ― Master và Servant ‘Caster’ đã kết thúc thỏa ước. Đó là, dù không hiểu ý nghĩa của cuộc chiến cũng như cội nguồn pháp sư của mình, một tên sát nhân đã nhận được Command Spell và Servant.
Như một trò đùa của số mệnh, nhưng lại là trò bẩn thỉu nhất.
-172:38:15
Nếu có câu nói rằng ban đêm vạn vật đều say giấc, thậm chí cả cây cối, thì câu nói ấy không thể áp dụng cho các pháp sư và Servant.
Vị anh hùng ngự trị bóng đêm – Assassin, là kẻ rõ hơn ai hết những rắc rối của việc phải hành sự đêm khuya.
Đặc biệt là khi các pháp sư quy tụ về thành phố Fuyuki bắt đầu tăng cường kiểm soát gấp đôi. Toạ lạc trên ngọn đồi của thị trấn Miyama, điền trang của hai dòng họ Matou và Tohsaka đều là những toà nhà lộng lẫy tráng lệ vào bậc nhất.
Dạo gần đây, Master của hai dòng họ đó đã cắt đặt một số familiar cấp thấp kiếm soát chặt chẽ từ trái sang phải, cả ngày lẫn đêm ở khu vực xung quanh các cứ địa lộ liễu này. Họ còn giăng vô số trường lực kết giới để phòng thủ và phát hiện kẻ địch ở khắp nơi, thậm chí bên trong khuôn viên nhà mình; nói theo cách của người sử dụng ma thuật, khu vực đó giờ đã là một pháo đài vững chắc.
Việc xâm nhập vào trường lực kết giới là rất nguy hiểm, nhất là đối với những thực thể có lượng prana khổng lồ như Servant. Căn bản, cả những linh hồn cũng không thể vượt qua trường lực kết giới mà không bị phát hiện.
Mặc dù vậy, không có gì là hoàn toàn không thể. Kĩ năng “Che giấu hiện diện” của Asssassin class cho phép biến cái không thể ấy thành cái có thể. Tuy không có được những kĩ năng chiến đấu vượt trội, các Assassin có thể nén lượng prana phát ra ngoài tới khi đạt đến mức độ của “con số không”, giúp Assasin thoải mái hành động trong bóng đêm.
Thêm nữa, đối với Assassin hiện tại – Servant của Kotomine Kirei, buổi do thám đêm nay đặc biệt dễ dàng. Khu vườn Assassin đang lẻn vào không phải lãnh địa của kẻ thù như vườn trong lâu đài Matou. Đó là vườn nhà Tohsaka Tokiomi, kẻ mà cho đến hôm qua còn là đồng minh của Kirei. Trong thời gian Tokiomi và Kirei hợp tác, họ đã thống nhất che giấu quan hệ trước mặt các Master khác. Đương nhiên Assassin tán thành. Vì sự thoả hiệp đó, hắn đã từng làm nhiệm vụ phòng thủ nơi này rất nhiều lần. Do vậy, hắn tường tận cách bố trí các trường lực và “điểm chết” của hệ thống bố trí đó.
Ở dạng thức linh hồn, Assassin đã vượt qua các trường lực cảnh báo mà không gặp chút khó khăn gì. Hắn cười nhạo cái nghiệp trớ trêu của Tohsaka Tokiomi. Gã pháp sư ngạo mạn ấy đã quá tin tưởng vào người hắn nhận giám hộ - Kirei, đến nỗi không ngờ được rằng chó săn lại quay sang cắn chủ.
Kirei đã lệnh cho Assassin ám sát Tokiomi cách đây gần một giờ. Hắn không rõ điều gì khiến Kirei đổi ý, nhưng chắc chắc sự thay đổi đó có liên quan đến việc Tokiomi vừa triệu tập một Servant vài ngày trước. Có vẻ hắn ta gọi được một Archer, nhưng dường như heroic spirit đó không mạnh như Kirei nghĩ. Do sự hợp tác với Tokiomi đã không còn, Assassin liền đồng ý với quyết định của Kirei.
“Không cần quá thận trọng. Nếu phải đối mặt Archer cũng không sao. Mau xoá sổ Tohsaka Tokiomi đi.”
Đó là nội dung mệnh lệnh từ Master của hắn, Kirei. Hắn, Assassin, chiến binh yếu nhất, không cần dè dặt, cũng không cần quá gấp gáp ---- Có lẽ cũng chẳng khó khăn gì để qua mặt tay heroic spirit mà Tohsaka Tokiomi đã triệu hồi – kẻ yếu hơn so với tính toán của ông ta.
Khi đã qua suôn sẻ khoảng nửa khu vườn thì điểm yếu của hệ thống kết giới sẽ biến mất. Kể từ vị trí đó, muốn phá kết giới phải sử dụng tác động vật lý, vừa gỡ bỏ nó vừa từ từ đi vào. Có điều, không thể tiến vào khi đang ở dạng thức linh hồn mà phải ở dạng thức hình thể.
Lặng lẽ trườn dưới những bóng cây, Assassin, trở lại dạng hình thể với dáng người cao, gầy gò, xương xẩu. Hắn có thể cảm thấy nhiều con mắt đang quan sát hắn từ xa; cảm giác khác hẳn với trường lực kết giới của lâu đài Tohsaka. Đó là các familiar của những Master khác đang do thám lâu đài Tohsaka từ bên ngoài kết giới. Nhưng chẳng sao; cho đến khi hắn còn chưa bị Tokiomi phát hiện thì không cần phải e ngại mấy tên tọc mạch đó. Kẻ đang tham gia tranh đoạt Chén Thánh với Tokiomi chẳng bao giờ lại cảnh báo hắn về sự xâm nhập của Assassin được. Cười thầm, Assassin duỗi một tay chạm vào chiếc khoá kết nối trường lực đầu tiên.
Chỉ một giây sau, cánh tay đó đã bị chọc thủng bởi một ngọn thương xuyên qua không trung từ bên trên, loé sáng như ánh chớp.
“...h!?”
Cơn đau dữ dội, nỗi kinh hoàng, và trên hết cả, sự bất ngờ sửng sốt. Một cú thương tuy đơn giản nhưng không thể lường trước được, khiến Assassin ngẩng phắt đầu lên, tìm kiếm kẻ vừa phóng thương..
Không, chẳng cần tìm làm gì.
Trên đỉnh toà lâu đài, một bóng người đứng giữa màu vàng hoàng kim chói lọi. Ánh hào quang thần thánh che mờ cả trời sao lộng lẫy, khiến cả vầng trăng cũng phải lấy làm xấu hổ trốn vào sau lưng mây .
Sự giận dữ vì bị thương khiến Assassin quên bẵng cơn đau, nhưng hắn cũng không khỏi rùng mình trước sức mạnh áp đảo trước mắt.
“Tên sâu bọ đang luồn lách dưới đất kia, ngươi đang cầu khẩn ai ân xá cho ngươi đấy?”
Một cách hờ hững, người đó cất lời hỏi Assassin đang trốn bên dưới, liếc hắn với đôi mắt đỏ rực chứa đầy sự khinh bỉ.
“Ai cho phép ngươi nhìn ta. Sâu bọ chỉ được phép nhìn xuống đất khi mất mạng mà thôi, như chính cuộc đời của lũ bọn ngươi.”
Xung quanh bóng người hoàng kim đó, vô số vật thể sáng loà xuất hiện, nhiều đến nỗi đếm không xuể. Những vật thể hiện hình giữa không trung ấy là đao kiếm, thương kích; không cái nào giống cái nào, và cái nào cũng được trang trí rực rỡ. Tất cả đều đang chĩa về phía Assassin .
Ta không thể thắng. Bản năng ngay lập tức mách bảo Assassin.
Không thể thắng nổi kẻ này. Ngay đến chuyện đối mặt hắn đã là quá ngu ngốc.
Nếu hắn có thể tấn công Assassin, một Servant, thì có nghĩa đó đích thị là một Servant. Và hắn ngăn cản những kẻ xâm nhập vào lâu đài Tohsaka, tức Master của hắn là Tokiomi. Hay nói cách khác, hắn chính là Archer.
Không có gì phải sợ *kẻ này*?
Bằng lòng tin với Master, Assassin đã hiểu, không có sự mâu thuẫn trong lời Kirei.
Trước một kẻ thù với sức mạnh áp đảo, sợ ư --- đúng, chẳng có chỗ cho sự sợ hãi ---
Chỉ có tuyệt vọng và buông xuôi.
Hằng hà sa số những lưỡi gươm sáng loá xé gió lao về phía Assassin.
Những con mắt lia theo hắn. Lũ familiar đang do thám bên ngoài. Servant đầu tiên thất bại trong cuộc chiến Chén Thánh thứ tư nhận một kết cục thật khó coi, thậm chí không trả được đòn nào; hồi tàn của hắn bị các Master khác chứng kiến.
Và, vào giây phút cuối cùng, Assassin đã hiểu. Bộ mặt thật sự của Master hắn, Kotomine Kirei, và… kẻ chỉ đạo, Tohsaka Tokiomi.
Thư giãn trên một chiếc ghế êm ái trong phòng mình, Tohsaka Tokiomi lắng nghe tiếng vô số Noble Phanstam cắm xuống mặt đất, nghiền từng mẩu thịt thành những mảnh vụn.
“Chà, mọi chuyện diễn tiến tốt đẹp. Bây giờ…”
Vị pháp sư tự lẩm bẩm với chính mình, gương mặt ánh lên một phong thái vương giả. Nhưng cái chất vương giả ấy của người này khác hẳn với vẻ hoàng kim của người vừa tiêu diệt kẻ xâm nhập trên đỉnh lâu đài ban nãy, giờ đây đang kiêu hãnh tiến về phía Master của mình. Đó là Archer, vừa bước vào phòng Tokiomi sau khi chuyển đổi từ sang dạng thức hình thể; bóng dáng hoàng kim lộng lẫy bước đi nổi bật lên giữa ánh đèn mờ mờ ảo ảo.
Người Servant vận áo giáp bằng vàng sáng ngời, dáng người dong dỏng toát lên vẻ cao quý. Một chàng trai trẻ với mái tóc vàng rực rỡ vươn lên như lửa cháy bừng bừng và gương mặt điển trai tao nhã. Đôi mắt anh ta đỏ như máu, hiển nhiên không phải mắt người thường; và bất cứ ai bị đôi mắt ấy nhìn thấu tất sẽ bủn rủn cả người trước một hào quang thần bí khó tả.
“Ngài buộc ta thực hiện những nhiệm vụ quá vặt vãnh, Tokiomi.”
Tokiomi đứng dậy, cúi đầu biểu lộ vẻ kính cẩn nhưng vẫn rất thanh lịch.
“Xin thứ lỗi vì đã khiến ngài phiền lòng, vua của các vì vua”
Là một Master, cách đối xử với Servant như vậy có phần quá khiêm nhường. Nhưng Tohsaka Tokiomi muốn thể hiện lòng biết ơn không dè dặt với vị anh hùng ông đã triệu hồi. Xuất thân từ dòng dõi cao quý, Tohsaka Tokiomi có thể cảm nhận được “chất quý tộc” tốt hơn bất cứ ai. Vị khách danh giá mà Tokiomi đã mời đến để giành phần thắng ở Heaven’s Feel thứ tư này không phải một Servant tầm thường mà là vị anh hùng mạnh nhất.
Chàng trai, hiện thời có thể gọi là Archer, chính là “Vua của các anh hùng”, Gilgamesh. Vị chúa tể đã trị vì Messopotamia cổ, mang trong mình dòng máu của cả thần linh và con người; là người anh hùng xuất hiện ở chương đầu tiên của lịch sử nhân loại, một trong những vị vua xa xưa nhất.
Tokiomi tin vào dòng máu quý tộc trong con người này. Dù là quyền lực tối cao của Phong Ấn Chỉ Huy hay bản giao ước có hiệu lực mạnh nhất cũng không thể lấn át đựơc địa vị thực. Cho dù có là Servant, chàng trai này vẫn xứng đáng được nhận sự tôn trọng nhất.
“Sự kiện tối nay sẽ giúp chúng ta tránh được ít nhiều phiền phức. Những kẻ đã chiêm ngưỡng sức mạnh của “Vua của các anh hùng” sẽ không dám làm bừa nữa.”
“Mm.”
Archer phải nhìn nhận rằng Tokiomi nói đúng. Nhưng cái cách ông ta thể hiện quan điểm đúng đắn ấy lại quá thừa tính xu nịnh, mà trong hoàn cảnh này thì lại càng thừa hơn. Vua của các anh hùng hiểu được điều đó.
“Những con thú hoang đang vùng vẫy sẽ hiểu ai mới là mãnh sư ngay thôi. Xin hãy kiên nhẫn cho đến thời khắc đó.”
“Được thôi. Vậy ta sẽ tản bộ một lúc. Thế giới này xem ra cũng khá thú vị đấy.”
Tokiomi che giấu sự khó chịu bằng một cái nhìn chua chát.
Tất nhiên, Servant ông đã triệu tập là người mạnh nhất. Nhưng anh ta lại khiến ông phải đau đầu vì tính tò mò của mình mỗi khi trốn đi lang thang khắp nơi. Từ khi đến thế giới này, chưa lần nào anh ta ngoan ngoãn ở yên trong dinh thự nhà Tohsaka được trọn một đêm cả. Tokiomi đã phải tốn rất nhiều công sức mới có thể kéo Archer ở lại đối phó với cuộc đột kích của Asssassin đêm nay.
“Ngài hài lòng với thế giới này chứ?”
“Sự già cỗi xấu xí thì không cứu vãn nổi rồi. Nhưng cũng có điểm thú vị riêng.
Điều quan trọng là có hay không một báu vật tương xứng với cơ đồ của ta”.
Ba hoa với một nụ cười giễu cợt, Archer đưa mắt nhìn Tokiomi bằng một cái nhìn đầy quyền uy.
“Nếu không có một thứ gì xứng đáng với sự hứng thú mà ta đã dành cho thế giới này --- cái giá phải trả vì đã gọi ta đến đây một cách vô nghĩa rất đắt đấy, Tokiomi”.
“Xin ngài yên trí. Chắc chắn Chén Thánh sẽ khiến ngài hài lòng.”
Tokiomi tự tin trả lời, không hề có một chút sợ hãi.
“Điều đó để tự ta quyết định...Được rồi, từ giờ ta sẽ làm như những gì ngài bảo. Toàn bộ báu vật trên thế gian này đều là của ta. Ta sẽ không tha thứ cho bọn tạp chủng dám cả gan tranh đoạt Chén Thánh - một trong những báu vật đó.”
Khi lời tuyên bố ngạo mạn đã dứt, vị vua của các anh hùng quay gót rồi biến mất như một làn khói, trở lại dạng thức linh hồn.
“Ta sẽ là mãnh sư của ngài, và ta mong đợi nó thật sự thoải mái. Chuyện đó giao cho ngài đấy, Tokiomi.”
Tokiomi cúi đầu trước giọng nói cất lên từ hư không. Ông tiếp tục cử chỉ tôn kính cho đến khi vị anh hùng đã khuất khỏi căn phòng.
“Phù... thế đấy.”
Vị pháp sư thở phào khi vị vua hoàng kim đã đi mất.
Mỗi Servant đều nhận những kĩ năng nhất định tương ứng với class của heroic spirit trong thế giới hiện tại. Đó là những khả năng như “Che giấu hiện diện” của Assassin, “Tạo dựng lãnh địa” của Caster, hay “Vật cưỡi” của Saber và Rider. Tương tự, một Servant được xếp vào class Archer sở hữu kĩ năng độc nhất vô nhị “Hành động độc lập”.
Đó là khả năng cho phép các Servant không bị lệ thuộc vào Master cung cấp prana; năng lực này rất hữu dụng trong một số trường hợp như khi Master cần tập trung toàn bộ prana để thực hiện một phép thuật quy mô lớn hoặc khi Master bị thương và không thể cung cấp đủ prana cho Servant. Mặt khác, điều này làm Master khó khiến Servant luôn tuân lệnh và khống chế Servant trọn vẹn.
Là một Archer, kĩ năng “Hành động độc lập” của Gilgamesh đạt đến hạng A. Với hạng mức này, anh ta có thể sử dụng Noble Phanstam tuỳ ý và duy trì sự tồn tại mà không cần Master hỗ trợ… Nhưng cũng chính bởi vì vậy nên vị vua của các anh hùng đã bỏ ngoài tai ý kiến của Tokiomi mà đi khắp mọi nơi ở thành phố Fuyuki theo sở thích riêng. Thường xuyên cách xa nhau, Tokiomi không thể nào biết Servant của chính ông đang ở đâu, làm gì.
Chẳng mấy hứng thú với cái thế giới này nên Tokiomi không hiểu nổi cái gì có thể khiến một anh hùng từ xa xưa cảm thấy thú vị khi đi lang thang xem xét cuộc sống của con người.
“Dù sao, hiện tại Kirei vẫn có thể giải quyết được việc như vậy. Cho đến lúc này, mọi chuyện luôn diễn ra theo kế hoạch.”
Cười khẩy, Tokiomi đưa mắt nhìn ra khu vườn bên ngoài cửa sổ. Di tích của cuộc tàn phá diễn ra khi tên Assassin lẻn vào khiến quang cảnh khu vườn trông như thể vừa qua một trận bom.
“Assassin ---- chết rồi sao?”
Waver Velvet tròn mắt vì kết cục quá nhanh chóng này của Assassin.
Sau khi bí mật quan sát trận đấu ở dinh thự Tohsaka, tầm nhìn của Waver quay trở lại căn phòng mà với cậu đã trở thành quen thuộc --- một căn phòng nằm trên tầng hai nhà một đôi vợ chồng đã luống tuổi cậu đang tá túc nhờ như một dạng “sống kí sinh” . Những hình ảnh hiện ra trong mắt cậu vừa rồi đựơc truyền về qua “cặp mắt” của một con chuột. Sử dụng loại phép thuật đó không có gì khó với Waver.
Bước đầu tiên cho Heaven Feel của Waver tất nhiên là do thám nhà Tohsaka và Matou. Ngoài ra, trong khu rừng ở ngoại ô thành phố còn có một căn biệt thự thuộc quyền sở hữu của gia tộc Einsbern; nhưng các pháp sư của dòng họ đến từ phương Bắc vẫn chưa xuất hiện, biệt thự hiện đang trống nên chẳng cẩn theo dõi làm gì.
Chưa có động tĩnh gì nhiều từ cả hai gia tộc kia. Các Master bên ngoài đã mệt mỏi vì phải chờ đợi quá lâu và đang cân nhắc xem có nên tấn công một trong hai hay không. Đương nhiên suy nghĩ chỉ là suy nghĩ, và chẳng ai trong họ hi vọng điều đó trở thành sự thật.
“Rider, có tin mới. Một tên bại rồi.”
Không đoái hoài gì đến kẻ đang gọi mình, thậm chí chẳng thèm quay đầu lại, vị Servant khổng lồ đang nằm trên sàn nhà chỉ đáp lại bằng một tiếng “Hmf” chẳng chút nhiệt tình.
“...”
Waver cảm thấy máu huyết sôi sùng sục.
Suốt ngày, Rider chẳng làm gì cả, chỉ nằm ườn một chỗ trong phòng mình – mà cũng chẳng phải phòng của ông ta, nhưng thôi, dẹp chuyện đó sang một bên – nhưng Waver nhịn không nổi. Cậu đã bảo Rider nếu không có chuyện gì thì trở về dạng thức linh hồn, nhưng ông ta vẫn cứ ngang nhiên khoe tấm thân bồ tượng với cái lí do “như thế này thoải mái hơn”. Duy trì dạng thức hình thể của Servant sẽ khiến Master mất một lượng prana khá lớn; tuy điều đó không thành vấn đề với Waver, nhưng lãng phí như vậy thật không hay chút nào.
Càng khó tha thứ hơn là Rider đã tiêu prana của Waver để…chà, nói thật ra là, chẳng để làm gì ra hồn cả. Bất kể phản ứng của Waver, ông ấy vẫn cứ nằm chơi nhàn nhã, hờ hững đánh chén đồ ăn và xem phim thuê ngoài tiệm. Có ai tin nổi rằng đây là một Servant không?
“Này, ông có nghe tôi nói không vậy? Assassin tiêu rồi. Heaven’s Feel đã bắt đầu!”
“Hmm”
“...Này!”
Waver gào tướng lên để lôi kéo sự chú ý. Rider đành miễn cưỡng quay một nửa người lại.
“Ừ, thì sao? Vài tên chuyên ám sát bị giết thì có là gì. Một con chuột thích trốn không phải một đối thủ đáng để tâm”.
“...”
“Dù sao thì, nhóc, cái này mới gọi là thú vị đây này.”
Nói một cách hăng hái, Rider quay người về phía đoạn quảng cáo. Đài đang phát chương trình “Bản thống kê xác thực về các lực lượng không quân trên thế giới, phần 4”... Để thoả lòng đam mê quân sự hiếm thấy của mình, Rider đã xem hết tất tần tật những gì liên quan đến vấn đề đó, từ sách báo đến tranh ảnh. Đương nhiên, cung cấp cho ông ta những thứ đó là nhiệm vụ của Waver. Nếu không, Servant khổng lồ ấy sẽ vào thư viện hoặc tiệm video, một điều khiến Master của ông ấy chẳng hài lòng tí nào.
“Này, chiếc B2 đen bự chảng ấy trông được lắm. Rất tuyệt. Ta đang nghĩ đến việc mua mười chiếc như vậy đấy.”
“----- Cứ mua luôn một đất nước nào đó đi, nếu ông có số tiền đó.”
Câu trả lời của Waver phản tác dụng. Mặt mày nghiêm trọng, Rider kêu lên “Ồ, phải phải...”
“Đúng là cũng cần phải có kho tích trữ…Có lẽ ta nên cướp một thành phố giàu có cỡ Persepolis.”
Rõ ràng, Rider rất quan tâm đến việc chinh phục cả thế giới và nghiên cứu những cuộc chiến ở thế giới hiện đại. Lượng thông tin ông ta nhận được từ Chén Thánh cũng có giới hạn. Ví dụ, Rider không biết trị giá một chiếc máy bay rải bom.
“Vấn đề cấp thiết nhất hiện giờ nè, tên Cliton này là một đối thủ nguy hiểm đấy, thậm chí hắn có thể hơn cả lão Darius.”
"..."
Waver liên tục chịu đựng những cơn đau dạ dày bất thình lình từ khi cậu triệu tập gã Servant này. Đến khi đoạt được Chén Thánh rồi thì có lẽ cậu cũng bị chứng loét dạ dày mất.
Chẳng màng để tâm đến Rider nữa, Waver cố gắng suy nghĩ tích cực hơn.
Nói đi cũng phải nói lại, Assassin chết trước tiên cũng là một điều tốt với Waver. Waver hiểu rõ Servant của cậu, Rider; khả năng chiến đấu của ông ta chỉ thích hợp cho những trận cận chiến sòng phẳng. Vì vậy nên những kẻ chuyên dùng thủ đoạn hiểm độc là một mối đe doạ lớn, và Assassin là một tên điển hình trong số những kẻ đó. Servant Caster giấu mặt cũng là một vấn đề, nhưng một tên Assassin có khả năng di chuyển lén lút không ai biết vẫn là nguy hiểm nhất.
Ba class hiệp sĩ chính, Saber, Lancer, Archer và tên Berserker thường chỉ gây thêm chuyện náo loạn không cần quan tâm làm gì. Năng lực và Noble Phanstam của Rider đủ mạnh để chiến thắng họ. Vậy, chuyện cần làm tiếp theo chỉ là phải tìm ra danh tính thật sự của Caster.
‘----Vậy, Assassin bị giết như thế nào?”
Ngồi bắt chéo chân, Rider giáng đòn thế cực kỳ bất ngờ lên Waver chỉ với một câu hỏi.
“...Ơ?”
“Servant đánh bại Assassin. Cậu không thấy hắn à?”
Waver ấp úng. Cậu có thấy hắn – nhưng, thấy cái gì?
“Hẳn là Servant của Tohsaka...Tôi đoán vậy. Trông có vẻ mạnh và hung hăng lắm, ném ra hàng đống vật thể bằng vàng sáng loá. Mọi việc diễn ra chỉ trong chốc lát nên tôi không chắc...”
“Vấn đề là ở đó, ngốc ạ.”
Ngay khi câu nói ấy vang lên, một cái gì đó bật thẳng vào giữa chân mày Waver. Sự sững sờ và cơn đau bất ngờ hoàn toàn không lường trước khiến Waver gục xuống với vết bầm còn nguyên trên mặt.
Đó chính là ngón tay giữa của Rider. Ông giữ nó bằng ngón cái rồi búng ra; chỉ là một cái búng tay lên trán. Đương nhiên, Rider không hề dùng sức vào cái búng ấy. Tuy nhiên, vì đó là ngón tay của Rider - cứng như rễ thông, nên trán Waver đỏ ửng lên vì đau.
Lại dùng bạo lực. Lại một phen lộng hành quá mức. Waver đang chìm trong một hỗn hợp cảm xúc giữa sợ và tức đến phát điên, đến nỗi không nói được câu nào. Đây là lần thứ hai cậu bị chính Servant của mình đánh. Lần thứ hai trong cả cuộc đời cậu. Tức đến không thở được, Waver hết há hốc rồi lại ngậm miệng như một con cá. Phớt lờ sự bất bình của Master, Rider thở dài.
“Cậu biết đấy, nếu đánh thì ta phải chiến thắng và sống sót. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cậu chẳng chịu quan sát kỹ lưỡng?”
“...h”
Waver không trả lời. Rider nói đúng. Cậu không muốn nghe những lời như vậy từ một Servant chẳng biết làm gì ngoài nằm khểnh, ăn bánh, uống trà, xem video, và đọc sách; nhưng quả thật, đúng là có những địch thủ thực sự đáng để tâm.
“Ôi dào, dẹp hắn đi. Một gã vàng khè bóng lưỡng hay gì đi nữa, cậu ấn tượng với hắn ta ở cái chỗ nào hả?”
“Tôi, tôi đã nói...”
Làm sao cậu kịp hiểu mọi chuyện chỉ trong chưa đầy một phút?
Đòn tấn công khiến Assassin trở thành cát bụi có thể là một Noble Phanstam. Mặc dù chỉ quan sát qua mắt của familiar, cậu cũng cảm nhận được một lượng mana khổng lồ.
Nhưng số lượng vũ khí trút xuống Assassin -----
“...Này, Rider, mỗi Servant chỉ có một Noble Phantasm thôi, đúng không?”
“Thường thì vậy. Nhưng cũng có một số heroic spirit sở hữu hai hoặc ba. Như ta đây là một trường hợp như vậy.”
Đúng vậy, vào cái đêm Rider đến thế giới này, ông đã cho Waver xem một Noble Phantasm và bảo đó không phải là át chủ bài duy nhất của mình.
“Này, đừng có quan tâm nhiều đến số lượng Noble Phantasm. Cậu phải biết Noble Phantasm là công cụ giúp heroic spirit nổi tiếng xuyên suốt lịch sử và các giai thoại, nhưng không nhất thiết phải là một thứ vũ khí; đó có thể là một kĩ năng đặc biệt hoặc một phương tiện chiến đấu vô song.”
“...Vậy thì khả năng phóng mười hay hai mươi vũ khí cùng một lúc có phải là một dạng “Noble Phantasm” không?”
“Một thanh kiếm có khả năng phân thành vô số thanh hả? Cũng có thể. Ừ, phải, đó là một dạng “Noble Phantasm”, đúng vậy.”
"..."
Nhưng, độc chiêu đánh bại Assassin không phải như vậy. Waver đã thấy qua con mắt của familiar rằng các món vũ khí phóng xuống không hoàn toàn giống nhau. Chúng không phải là đồ nhân bản; tất cả đều là những vũ khí độc nhất vô nhị.
Liệu có phải tất cả chúng đều là Noble Phantasm? Không thể nào. Số lưỡi gươm xé gió lao về phía Assassin không chỉ lác đác một hai thanh.
“Thôi nào, cũng chẳng sao, cứ tìm ra thân phận thực sự của hắn thì biết ngay thôi.”
Cười vui vẻ, Rider vỗ vỗ lên lưng Waver, lúc đó đang chìm đắm trong suy nghĩ. Sự va chạm mạnh bất ngờ khiến Waver run lên, ngạt thở. Cái vỗ lần này không khiến Waver bẽ mặt; nhưng cậu sẽ cảm kích hơn nếu có một chút gì gọi là “động viên tinh thần” trong ấy.
“Ông hăng hái quá nhỉ!?
“Chính xác. Ta đang rất hài lòng đây.”
Rider nói một cách vô tư với một nụ cười táo bạo.
“Đồ ăn và tình dục, ngủ và chiến tranh ---- cứ thoải mái bất cứ khi nào cậu muốn. Đó là cách sống của một kiếp người, nhóc ạ.”
“...”
Waver chẳng bao giờ tìm thấy niềm vui ở những thứ đó. Hơn nữa, hai trong số đó cậu chưa bao giờ trải qua.
“Được rồi, ra ngoài vui chơi một tí nào”
Duỗi người, vặn mình kêu răng rắc, vị Servant khổng lồ nói tiếp.
“Chuẩn bị đi, chúng ta sắp làm một chuyến du hành đấy”.
“Du hành...đi đâu?”
“Quan sát xung quanh, đương nhiên. Chứ còn đi đâu nữa.”
“Ông điên à!?”
Rider đứng dậy, suýt nữa là chạm trần nhà, nhìn xuống Waver đang giận dữ với một nụ cười.
“Cậu không phải là người duy nhất theo dõi điền trang nhà Tohsaka, thế có nghĩa các Master khác đều đã biết về cái chết của Assassin. Tất cả đã chán ẩn mình trong bóng tối và sẽ bắt đầu hành động cùng một lúc. Chúng ta sẽ tìm và diệt chúng.”
“Tìm và diệt...làm như dễ lắm ấy...”
“Ta là Rider. Ta chiếm ưu thế hơn hẳn những Servant *đi bộ*, hiểu không?”
Sau khi khoe mẽ, Rider tuốt thanh kiếm giắt bên thắt lưng khỏi vỏ. Nhận ra ông ta đang định gọi Noble Phantasm, Waver lật đật hét lên:
“Khoan khoan khoan! Đừng có gọi ra ở đây! Ông sẽ làm căn nhà sập mất!”
Đêm hôm ấy, không nằm ngoài dự đoán, một vị khách xuất hiện tại ngôi nhà thờ trên ngọn đồi thuộc khu ngoại ô Shinto của thành phố Fuyuki.
“Chiếu theo bản giao ước trong Heaven Feel, tôi, Kotomine Kirei, yêu cầu sự bảo hộ từ Holy Church.”
“Ta đồng ý. Tuân theo nghĩa vụ của người chịu trách nhiệm giám sát, ta, Kotomine Risei, đảm bảo sự an toàn cho cậu. Hãy bước vào.”
Đối với hai người đã sắp đặt trước mọi chuyện thì đây thực sự là một trò hề, nhưng họ không chắc chắn liệu có ai đang do thám ngoài cổng. Kotomine Risei giả vờ trịnh trọng tuyên bố vai trò giám sát viên với một vẻ mặt rầu rĩ, rồi mời con trai mình, người vừa thất bại trong cuộc chiến, vào nhà thờ.
Toạ lạc tại Fuyuki, một thành phố vốn có nhiều cư dân đến từ những miền đất khác, nơi này được viếng thăm nhiều hơn nhà thờ ở những thị trấn khác. Dù nằm ở tận phương Đông xa xôi nhưng nơi đây vẫn là trung tâm tín ngưỡng của các tín đồ Tây Âu. Tuy vậy, cái mác “thiên đường cho những tín đồ Cơ Đốc giáo” chỉ là cái vỏ bọc nguỵ trang; thực sự, căn nhà thờ này được Holy Church xây lên để phục vụ cho Heaven’s Feel. Là địa điểm linh thiêng đứng thứ ba cho sự xuất hiện của Chén Thánh, nhà thờ này sáng ngang với khu đất thuộc về những người đồng sở hữu Fuyuki, gia tộc Tohsaka.
Rõ rành rành rằng, vị cha xứ phụ trách giám sát cuộc chiến sống còn giữa các Master và các Servant, là một thành viên của Hiệp hội Thánh thể số 8. Nói cách khác, linh mục giờ đang điều hành những buổi lễ cho các tín đồ Cơ Đốc giáo mỗi ngày không ai khác ngoài Kotomine Risei.
“Mọi việc đều tiến triển, không có vấn đề gì.”
Dẫn Kirei đi vào nhà thờ, cha Risei bỏ dở công việc và gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng.
“Cha, những ai đang canh gác nhà thờ?”
“Không ai cả. Khu vực trung lập này đã được đảm bảo bất khả xâm phạm. Holy Church đã khuyên các Master đừng nên quấy rầy nếu không có lí do chính đáng. Trên hết, những người thua cuộc sẽ không bị truy đuổi.”
“Vậy thì chúng ta được yên tĩnh rồi.”
Ngồi xuống ghế, Kirei thở dài. Rồi tiếp lời―
“Để chắc chắn, chúng ta không nên buông lỏng đề phòng. Bất cứ lúc nào cũng có thể có kẻ do thám.”
Ông nói bằng một giọng lạnh lùng, vẻ chỉ huy, nhưng chẳng nói với ai cả. Đương nhiên ông không nói lời vừa rồi với cha mình. Linh mục Risei ngồi cạnh cũng không xem câu nói của con trai là kì quặc.
“Vậy thì, có ai đang theo dõi nơi này không?”
“Có, là tôi đây.”
Lần này, một giọng nói đáp lại câu hỏi mà Kirei đặt ra ban nãy. Là giọng phụ nữ. Trong bóng tối, ở góc căn phòng, người đó xuất hiện trong trang phục bó màu đen.
Cả Kirei lẫn Risei đều không nhướn đến một chân mày trước bộ y phục lạ lùng đó --- nhưng đó lại là kẻ lẽ ra không thể có mặt ở đây.
Áo khoác đen tuyền choàng qua thân hình ẻo lả, mặt nạ đầu lâu che giấu khuôn mặt thực sự; cách ăn mặc này là của các heroic spirit thuộc tổ chức sát thủ Hassan I Sabbah, không thể nhầm lẫn.
“Có dấu vết của bốn loại familiar khác nhau ở nơi Assassin chết. Ắt hẳn ít nhất bốn Master đã chứng kiến chuyện đó.”
“Hm....thiếu một người...”
Nheo mắt như thể đang suy nghĩ, Kirei nhìn Risei đang ngồi cạnh mình.
“ ‘Linh thần bảng’ đã công nhận sự xuất hiện của cả bảy Servant chứ ạ?”
“Phải, không nghi ngờ gì cả. Servant cuối cùng, ‘Caster’, đã được triệu hồi hai ngày trước. Như mọi khi, tên họ của các Master được giữ bí mật, nhưng chắc chắn toàn bộ Servant của lần Grail War này đã hiện hữu.”
“Con hiểu...”
Kirei sẽ hài lòng hơn nếu cả năm Master đều chứng kiến vở kịch tối nay.
“Lẽ ra tất cả các Master tham gia Heaven’s Feel đều chú ý theo dõi động tĩnh ở ba toà lâu đài của ba dòng họ lớn chứ.”
Người phụ nữ ẩn sau chiếc mặt nạ hình đầu lâu đang đứng cạnh ông ---- không ai khác ngoài Hassan I Sabbah, cất tiếng nói:
“Nếu có một kẻ bất cẩn đến độ đề phòng kém như vậy thì hắn chính là mồi ngon cho Assassin chúng tôi. Kết luận này thỏa đáng chứ?”
“Mm”.
Nếu Kotomine Kirei đã không còn Servant, Phong Ân Chỉ Huy của ông hẳn phải biến mất. Nhưng ba dấu ấn màu đen vẫn còn đậm nét trên tay Kirei.
Nói ngắn gọn, Servant Assassin chưa hề bị tiêu diệt. Vậy thì người phụ nữ mang mặt nạ đang tiếp chuyện hai cha con Kotomine mới chính là Hassan I Sabbah thực sự.
“Tên Assassin kia chết thật rồi, thế có đáng tiếc không?”
Người phụ nữ lắc đầu hờ hững trước câu hỏi của Kotomine.
“Hắn chỉ là một trong các Hassan bình thường không có sở trường gì cả. Mất hắn không ảnh hưởng gì nhiều đến chúng tôi. Nhưng ---
“Nhưng?”
“Tuy không ảnh hưởng nhiều, nhưng tổn thất vẫn là tổn thất. Cũng giống như mất đi một ngón tay vậy. Tôi không muốn nghĩ sự hi sinh của hắn là vô ích.”
Kirei chăm chú lắng nghe người phụ nữ bộc lộ nỗi bất bình theo một cách nhún nhường. Đương nhiên lối hành xử của cô ta chẳng có gì thái quá.
“Tất nhiên là không vô ích. Cô có thể đánh lừa các Master khác bằng cách hi sinh chỉ một ngón tay. Tất cả đều tin Assassin đã bại. Cô không nghĩ tất cả những người còn lại giờ có thể thay đổi cục diện một cách ngấm ngầm ư?”
“Ngài nói đúng.”
Người phụ nữ trong y phục đen cúi đầu cung kính.
Đinh ninh Assassin đã bị loại khỏi vòng chiến, sẽ không ai để tâm đề phòng có kẻ rình rập trong màn đêm nữa. Có ai biết được ---- rằng Servant Assassin vẫn đang kính cẩn trước Master của mình tại căn nhà thờ này.
Thậm chí đối với cuộc chiến gần như đã là một phép màu như Heaven’s Feel, đây vẫn là một tình huống đặc biệt.
Cái tên “Hassan I Sabbah” không chỉ dùng để chỉ một cá nhân duy nhất. “Hassan I Sabbah” có nghĩa là “cổ sơn nhân”, cội nguồn của từ “sát thủ”, cái tên chỉ chung cho các thủ lĩnh một tổ chức sát thủ miền Viễn Đông. Trong lịch sử đã có không ít heroic spirit mang tên Hassan. Dĩ nhiên có một nữ Hassan cũng chẳng có gì lạ.
Nhưng, theo luật lệ, mỗi kì Heaven’s Feel chỉ có một Assassin được triệu hồi. Trên lý thuyết thì một Master có thể có hai Servant bằng cách cướp Servant của Master khác, nhưng có cùng một lúc hai Assassin đồng nghĩa với luật đã bị phá.
“Dù sao đi nữa, đây là tiếng chuông báo hiệu cuộc đại chiến.”
Giọng nói hồ hởi của vị cha xứ đầy ắp niềm tin chiến thắng.
“Heaven’s Feel lần thứ tư đã bắt đầu. Ta hi vọng tấm thân tàn này sẽ được chứng kiến một phép màu.”
Không thể chia sẻ niềm phấn khích của cha mình, Kirei im lặng nhìn vào một góc khuất trong căn phòng lờ mờ sáng.
Edward Munch (1863-1944), chủ nhà in và cũng là một họa sĩ người Na-uy, một trong những người đi tiên phong trong trường phái biểu hiện. Hồ đào cánh, cùng họ với hồ đào -walnut, có quả treo lơ lửng