Đêm muộn ngày đầu năm, vẫn trong căn phòng ấy, Gustavo tra hỏi thuộc hạ mình.
“Dạ vâng, không nghi ngờ gì nữa. Roy đã liên lạc được với Eve Genoard, rồi đưa cô ta tới sào huyệt Gandor ạ. Đám chúng tôi định phục kích tại chỗ, nhưng bỗng có một quý bà bước ra, dẫn bọn chúng lên xe rồi đi mất. Chúng tôi có cử vài người đuổi theo, nhưng chúng vào một chỗ không thuộc địa phận Gandor ạ.”
“Mấy thằng ngu! Thế sao không bắt gọn trong địa bàn bọn nó?!”
“Rất xin lỗi, thưa ngài. Tại chúng tôi cho rằng, lần ra nơi ẩn náu của chúng sẽ tốt hơn.”
“Rồi sao? Rồi tụi mày để bọn nó chạy mất?! Việc tụi mày là gì? Là bịt họng cái thằng chó đẻ kia! Miễn bịt họng được nó, thì ai thèm quan tâm hậu quả là thá gì?!”
“V-với cả, ngài Begg dặn phải giữ cái mạng hắn.”
Gustavo thấy thế giận tím mặt.
“Ai mượn chúng mày nghe thằng muối phóc môn đấy?! Hả?! Ai là sếp?! Chúng mày làm cho ai?! Nói mau! Mày không nói, tao giết!”
“Dạ dĩ nhiên, là ngài Bartolo Runorata ạ.”
“Hử?!”
Lời đáp trả làm y phải choáng váng, không biết sao mà thị uy cho vừa. Y đã nghĩ mình sẽ được nhắc tên, nhưng tên của sếp mình lại là vấn đề lớn. Bên trong phòng, đang có một số người làm việc trực tiếp dưới trướng Don. Nếu y dám nổi khùng, bọn chúng sẽ gán ghép cho y tội bất trung.
“...Đúng là thế. Và cái địa phận này, chính ông trùm đã giao lại cho tao. Vì thế nên, mệnh lệnh của tao là tuyệt đối!”
Vậy là xong, hắn ta thầm nghĩ thế. Có điều, với thuộc hạ xung quanh, hắn lại trông chẳng khác gì thằng đần.
“Tôi…chưa…từng…nghe…đấy.”
Không biết từ khi nào, Begg đã lẻn vào trong. Ông ta khịt mũi mà đáp lại.
“Ông…! Làm sao…”
“Mọi…vấn…đề…ma túy…Bartolo…giao lại…hết…cho…tôi. Nên…tức là…mệnh lệnh…tôi…về…vụ này…cũng…hoàn toàn…tuyệt…đối.”
Begg cười thầm, trong khi Gustavo chỉ biết trừng mắt mà chặc lưỡi.
“Đừng nghĩ là lúc nào chuyện cũng theo ý ông.”
Đôi mắt y lóe lên đầy giận dữ, không biết bởi ghét bỏ, hay uất hận muốn giết oách cho xong.
“Chẳng…có…gì…đi theo…ý…tôi…cả. Vậy…nhé: Phiền…cậu…bắt sống…y, nếu…có…thể.”
Như thể không còn gì để nói, Begg quay lưng bước về phía cánh cửa.
“À…đúng rồi. Thằng…muối…phóc…môn…nghe…hay…đấy. Tôi không…bị…thối…hỏng…nên vậy…cũng…đúng…thôi.”
-----
Keith, anh cả nhà Gandor, sống ở bên rìa Hell’s Kitchen, phía Tây Manhattan, bên trong một ngôi nhà biệt lập. Mới năm ngoái, anh vẫn đang sống cùng các em mình, ở tại một khu tập thể cho thuê, nhưng từ khi Berga lập gia đình, họ thấy cứ vậy mãi là không nên. Chỉ còn Luck đến giờ vẫn sống tại chỗ cũ.
“Mọi người cứ tự nhiên. Tôi dự định dùng bữa cùng chồng mình, nhưng chắc nay anh ấy không về được kịp đâu.”
“À, vâng. Cảm ơn nhiều.”
Ròng rã mấy hôm liền không một bữa tử tế, thế nên Roy cũng chẳng mấy ngại ngần. Y nhồm nhoàm ngấu nghiến đĩa thức ăn, vốn có vẻ được làm nhân dịp mừng Năm mới.
Trên bàn là cá nướng phủ hạnh nhân, gia vị cay kiểu Ý, cùng bít tết thịt cừu mềm mọng và tươi ngon. Eve ban đầu giữ kẽ, nhưng dần dần cô cũng dạn dĩ thêm, đưa đôi tay ngang dọc lấy thêm phần.
“...Ngon thật đấy.”
Không còn nhủ thầm nữa, cô bỗng nhiên bất giác nói lên lời. Một nhận xét hồn nhiên, không vương chút khách sáo, nhưng tâm trạng của cô, về tổng thể lại không được như vậy.
Kate, người ngồi trước mặt cô, hoàn toàn không hề giống vợ của một ông trùm. Nhưng nếu cô đích thân khẳng định thế, thì chắc Eve cũng chỉ biết chấp nhận. Rất có thể—không, gần như là chắc chắn—cô quen biết những kẻ hạ sát anh trai Eve, Dallas Genoard. Eve thực tình chẳng biết hành xử sao.
“Nếu vậy thì tốt quá. Tôi còn đang không biết làm thế nào, nếu mọi người nhận xét không ngon đây.”
Kate dịu dàng mỉm cười. Nụ cười tuy hiền hậu và tử tế, nhưng có phần mông lung, tựa như bị bọc lấy trong sương mù.
“Nói mới nhớ, về câu chuyện ban nãy của chúng ta…”
Không muốn gây khó xử, Eve bèn chuyển sang chủ đề khác. Mới cách đây ít lâu, cô hỏi Kate về Keith cùng anh em Gandor, và có vẻ ban đầu, Keith định mừng Năm mới ở tại đây, ở tại căn nhà này.
Nhưng bỗng nhiên, Keith có chuyện cần phải để mắt tới, và e rằng hôm nay khó mà về được nhà.
“Ừm, cô có biết khi nào chúng tôi gặp được anh ấy không?”
“Để xem nào. Chuyện chồng tôi toàn không hẹn mà tới, nên là… Giờ anh ấy có vấn đề phải lo, nhưng nếu đã xong xuôi, thì hôm nào anh ấy cũng về nhà.”
“Vấn đề thế nào ạ?”
“Chính tôi cũng không rõ. Anh ấy chẳng bao giờ nhắc đến công việc riêng… Mà chắc cũng vì thế, nên anh ấy không về, để tránh phải làm phiền tới người thân.”
Khi nhắc đến người chồng, tuy hạnh phúc là có, nhưng giọng Kate vẫn thoáng vẻ cô đơn.
“Anh ấy…có phải xã hội đen không ạ?”
Nghe thấy thế, một ngụm trà bỗng vọt khỏi miệng Roy.
“E-Eve. Đừng có nên đề cập mấy—”
“Hả? Nhưng mà…”
Kate vẫn cứ điềm nhiên mà cười nói. “Phải. Mặc dù trên danh nghĩa, anh ấy là quản lý một phòng nhạc.”
Như có chút hứng thú với cặp đôi, Kate tiết lộ đôi phần, về công việc thật sự của chồng cô.
“Cha anh ấy thành lập nên băng đảng. Ông ấy vốn trước tiên làm cho một băng khác, nhưng bỗng nhiên, trùm băng lại ngỏ ý, rằng muốn giao địa bàn cho một tay thân cận. Một đề nghị tuy có phần mờ ám, nhưng ông ấy—người được chọn ở đây—vẫn mừng rỡ chấp thuận. Và thế là, ngay sau đó, một cuộc tranh chấp lớn nổ ra. Trước cả khi ông ấy kịp nhận thấy, lãnh thổ băng đã thu hẹp đáng kể. Mà hai người biết đấy, vùng đó còn liền kề lãnh thổ rất nhiều băng, thường xuyên có mâu thuẫn và lớn hơn rất nhiều. Ông trùm đã nhận ra rằng mình không thể thắng, và lời đề nghị kia, rốt cuộc cũng chỉ để giữ thể diện. Ông ta dồn trách nhiệm cho bố chồng của tôi, người còn chẳng hay biết gì vụ đó, rồi cuối cùng trốn không một tăm hơi… Đại để là như vậy.
Vừa dọn dẹp bát đĩa, cô vừa kể những câu chuyện ngày xưa, như hồi tưởng quá khứ của chính mình.
“Nhưng dù nhỏ đến đâu, giữ vững được băng mình dưới những hoàn cảnh ấy, thì bố chồng quả nhiên là có tài. Keith từng kể với tôi, rằng cha mình là một gã cổ hủ, từng khẳng định là sẽ ‘không bao giờ vứt bỏ những gì ông trùm đã ban cho.’ Tuy cuối cùng, gánh nặng khiến ông ấy phải từ bỏ nhân gian, thì ba người con trai vẫn còn đó, vẫn cùng nhau bảo vệ lấy địa bàn. Đến ngày nay, hiểm họa vẫn liên tục đeo bám. Ngay cả tôi trước đây, cũng đã từng chết hụt tới hai lần.”
“Sao cô lại kết hôn với một người như thế?”
Eve biết mình thất lễ, thế nhưng trí tò mò còn hơn cả lễ nghi.
Và nãy giờ, Kate hành xử hết sức là khoan dung. Dẫu Eve có hỏi thế, chắc Kate cũng sẽ không để bụng làm cái gì.
Dọn dẹp đã hòm hòm, Kate ngồi xuống cạnh chiếc đàn organ, được đặt gọn ở một góc trong buồng.
Khẽ liếc nhìn hai vị khách không quen, cô bắt đầu lướt tay dọc phím đàn, những đầu ngón mềm mại mà mảnh mai.
Tiếng đàn như tiếng lòng, đồng điệu với nội tâm Roy và Eve.
Thoạt đầu là ngờ vực và lo lắng, thế nhưng càng đắm mình trong giai điệu du dương, những gánh nặng cứ như được trút bỏ, và họ bỗng lâng lâng, trong không gian huyền diệu mà ấm áp.
Nhạc tấu chừng năm phút rồi lặng im. Thay thế cho ám ảnh, là những sự hài hòa đến say đắm, lắng đọng lại cuối giai điệu không tên.
Khép lại màn biểu diễn, là những tràng pháo tay xuất phát từ đáy lòng.
“Tuyệt vời. Không còn gì tuyệt hơn.”
“Cô còn không cần nhìn nhạc phổ nữa… Là cô tự ứng biến có phải không?”
Kate gật đầu, khuôn mặt không một chút gì đổi khác.
Năm 1927, thị trường phim toàn cầu hoàn toàn bị độc chiếm bởi những bộ phim câm.
Những bộ phim, cả bi và cả hài, được trình chiếu mà không có âm thanh. Ngoại lệ duy nhất là tiếng đàn của nghệ sĩ, được các rạp chiếu thuê để tăng sự sinh động. Họ có khi tùy cơ mà ứng biến, và có khi tuân theo đúng nhạc phổ. Thời điểm ấy, đệm nhạc cho phim là trào lưu.
Làm việc cho một rạp chiếu phim lớn, Kate biết chơi đủ mọi thể loại nhạc. Mỗi khi lên biểu diễn, cô luôn luôn chú tâm đến đối tượng khán giả, hay đôi khi là cả chuyện thời tiết. Từ những dữ kiện trên, cô tìm cách ứng biến, cho giai điệu tạo ra phù hợp nhất có thể.
Nhưng cũng ngay năm ấy, ngành phim câm lại bắt đầu suy tàn.
Nguyên do chính nằm ở Vitaphone, một hệ thống ghi âm, do một công ty lớn về điện ảnh phát triển; nói cách khác, “phim nói” chính thức được chào sân. Hệ thống được phát minh vào năm ngoái, và bắt đầu từ “Don Juan,” được tinh chỉnh từng chút tưng chút một, cho đến khi đánh dấu kỉ nguyên mới, một kỉ nguyên hưng thịnh đến bây giờ.
Vào năm ấy, phim điện ảnh lồng tiếng đầu tiên trong lịch sử, “The Jazz Singer,” chính thức được công chiếu, gây tiếng vang trên toàn thể Hoa Kỳ, và rạp phim của Kate cũng không nằm ngoài cuộc. Tận mấy ngày trước khi phim công chiếu, trước cửa rạp đã có những đám đông, ai cũng trông háo hức và mong chờ.
Kate cũng đến, hòa cùng với đám đông.
Không phải do cô háo hức mong chờ, về hình thức truyền tải của bộ phim, hay ca khúc của nam chính Al Jolson. Cô đến vì nếu như phim nói được phổ biến, những con người như cô sẽ mất việc.
Cô đã nghĩ, rằng âm nhạc phòng thu không bao giờ có thể bằng nhạc sống. Và tiết mục của cô, cuối cùng sẽ vượt qua được tất cả. Cô đến để chế giễu, để gạt bỏ nỗi lo của bản thân.
Ngồi xuống ghế, cô chờ cho bộ phim được bắt đầu.
Bình thường sẽ có người ngồi cạnh chiếc organ, nhưng hôm nay, nó lại bị phủ kín bằng vải đen.
Dù là bài hát nào, hay thể loại nào nữa, cô tuyệt đối cũng không thể nào thua. Viễn cảnh ấy, cô không sao có thể tưởng tượng nổi.
Nếu âm nhạc trong phim thực sự là xuất chúng, cô thậm chí sẽ còn xuất chúng hơn.
Rồi phim được bắt đầu.
Bản nhạc nào khi ấy sẽ tấu lên? Hay một vị diễn viên sẽ cất giọng?
Lạ lùng thay, dẫu khung hình đã hiện trên màn chiếu, vẫn tuyệt nhiên không thấy âm thanh nào.
Chẳng lẻ bị hỏng hóc gì ư? Cô vừa mới nghĩ thế, thì diễn viên nam chính đã xuất hiện.
Một ca khúc chuẩn bị được cất lên. Những âm thanh đầu tiên đã vang tới. Kate chăm chú lắng nghe, không buồn giấu vẻ mặt đầy thù địch.
Chúng đến từ khán giả trong bộ phim…là những tràng vỗ tay đầy nhiệt liệt.
Và tiếp theo…cô chỉ biết bật khóc.
Mình thua rồi.
Những gì mới được nghe, cô quả nhiên chưa từng tưởng tượng tới. Cô có thể xem thường, có thể nói bộ phim chỉ đang tìm cách gây chú ý. Nhưng chỉ có một điều, mà Kate phải đồng ý từ thâm tâm: m thanh nó mang tới, cô không sao có thể tái hiện lại. Cái tôi từng cả tin rằng mình sẽ chiến thắng, và cái tôi định giễu cợt chê bai, giờ nhỏ nhen tầm thường đến vô vọng. Cô bỗng cảm giác rằng, cô không chỉ xúc phạm đến bản thân, mà còn xúc phạm đến cả những người đồng nghiệp.
“Chờ đã, chờ chút đã—”
Lúc những giọt nước mắt bắt đầu rơi, nam chính cũng lên tiếng, lần đầu tiên thông qua màn ảnh rộng.
Những lời ấy, mà sau này sẽ nổi tiếng khắp nơi, đập tan những ảo mộng còn sót lại.
“Mọi người vẫn chưa được thấy gì đâu.”
Cô không còn nhớ rõ những chi tiết về sau. Hội thoại tuy phần lớn là phụ đề, nhưng điều đó cũng không cứu vãn gì được nữa. Bài hát của Jolson, suy cho cùng, mới là thứ làm khán giả lay động.
Kể từ đây, các rạp phim đổ xô vào công chiếu—và không ngừng công chiếu—những tác phẩm điện ảnh được lồng ghép âm thanh. Và rất nhanh, những bộ phim không lời cũng lũ lượt chuyển sang dạng phim nói.
Như bao cựu đồng nghiệp ngoài kia, cô bị mất việc làm, và phải sống lay lắt bằng những nghề khác nhau.
Rồi một ngày, có một người lạ mặt tìm đến cô.
Anh ta cứ lặng im, và nhìn qua là biết không phải dạng lương thiện.
Thoạt đầu, cô chẳng biết phải đáp lại làm sao, nhưng cuối cùng, anh ta cũng lên tiếng.
“Tôi muốn được chứng kiến cô biểu diễn. Cho hỏi tôi phải tìm đến rạp nào? Dạo gần đây, nghệ sĩ rạp không được lộ mặt nữa, nên thực chẳng biết được ai đang chơi.”
Cô cứ tưởng anh ta định chế giễu, nhưng theo lời anh ta, anh ta luôn đến cùng một rạp chiếu, để có thể được nghe cô chơi nhạc.
Không nói thêm gì nữa, anh ta lại một mình mà trầm ngâm.
Không lâu sau, cô biết được thân thế của anh ta, một trong ba ông trùm Nhà Gandor. Và dần dần, cô nảy sinh hứng thú, với phong thái anh ta, và cách sống anh ta hằng lựa chọn.
Càng biết về anh ta, và thế giới mà anh ta sinh sống, một ý định trong cô dần hình thành. Cô bắt đầu suy nghĩ, rằng mình sẽ chơi nhạc vì anh ta.
Suy cho cùng, chính bản thân anh ta, cũng đã là một bộ phim câm rồi.
Khi nhắc đến chồng cô, Kate như chẳng bao giờ thiếu đề tài để nói. Nhưng ngược lại, mỗi khi bàn đến cô, cô lại trông có vẻ khá hững hờ.
Khúc nhạc được tấu lên cốt để đánh lạc hướng, và có vẻ kế hoạch đã thành công. Eve không còn nhắc gì, đến câu hỏi mình vừa đặt ra nữa.
Cô gái bảo “Tôi muốn được gặp gỡ ông trùm Nhà Gandor.” Còn chàng trai, người dẫn cô gái tới, lại bảo “Tôi không muốn gặp lắm. À, không, thật ra là không thể.”
Đối với cô, họ đều trông như đang gặp vấn đề gì đó. Suy nghĩ Eve bây giờ, là tổng hòa của những hy vọng với bất an. Về trường hợp của Roy thì phức tạp hơn chút: Y như đang sợ hãi cái gì đó, nhưng trong lòng đầy ắp sự quyết tâm. Những gì y phải làm, nhất định y sẽ làm bằng mọi giá.
Cô chỉ chắc một điều, rằng cả hai đều không phải người xấu. Với cô vậy là đủ, và cố đào bới thêm là không hề cần thiết.
“Mọi người tính về nhà bây giờ không?”
Nghe thấy thế, hai người chợt nhìn nhau. Roy không nghĩ Edith sẽ tìm mình, và cũng không còn nơi để mà trở về nữa. Về phía Eve, cô không thể quay đầu, bởi nếu bị tìm ra, thì chắc đến cuối đời, họ cũng không cho cô ra ngoài mất.
Kate nhìn qua, rồi hiền hậu mỉm cười.
“Nếu cần thì cứ ngủ lại đây. Tối mai hãy quay lại chỗ văn phòng.”
-----
Tòa soạn báo, vào đêm muộn
Ngồi trên ghế trưởng phòng, Nicholas lặng lẽ nhìn không trung, bên môi là khói thuốc bay hững hờ.
Mình đã làm nghề này được bao lâu rồi nhỉ?
Nicholas trước đây làm cho Cục Tình báo, nhưng sau chọn giải ngũ, gia nhập Daily Days, và đạt đến cương vị như bây giờ. Anh dạy cho nhân viên cách dùng súng, xây dựng cho đại lý một lực lượng vũ trang, mang tiềm lực tương xứng với những băng đảng vùng lân cận
Chưa đủ. Vẫn còn thiếu gì đó.
Nhưng một khi còn theo đuổi với nghề, bất kể có chuẩn bị ra làm sao, thì những sự lo lắng vẫn luôn bủa vây lấy không ngừng. Làm môi giới thông tin, là luôn phải chịu đựng những lo lắng, chịu đựng những rủi ro không thể nào xóa bỏ.
Đã nắm giữ thông tin, thì luôn phải hành động xoay quanh thông tin ấy. Trải qua bao thăng trầm trong quân đội quốc gia, Nicholas quán triệt tư tưởng ấy, đến mức mà gọi là ám ảnh cũng không sai.
Tất nhiên, thông tin là sức mạnh. Nhưng thứ sức mạnh ấy, không bao giờ thuộc về một mình ai. Giống như chuyện nắng mưa, ta có thể dự đoán, nhưng không thể điều khiển. Đến bao giờ Henry mới hiểu chứ…
Ngắt đứt dòng suy tư, là những tiếng cót két từ cửa phòng biên tập.
“Henry!”
Đứng đằng đó là một cậu thanh niên, mặt trắng bệch như không còn sự sống.
“Này, này, tỉnh lại đi. Còn sống chứ?”
Người thanh niên suýt nữa ngã sõng soài, nếu giả như đồng nghiệp không đỡ lấy. Hai mắt mở trừng trừng, cậu ta cứ run rẩy mãi không thôi. Tựa như có gì đó đang khuấy đảo bên trong, đánh động lấy khung xương cậu ta vậy. Cậu ta chẳng đoái hoài đến xung quanh, và những gì Nicholas nghe thấy, chỉ là tiếng thở dốc đầy kiệt quệ.
“Mẹ nó… Cái thằng khốn Vino quả đúng không biết điều.”
Miệng càm ràm, anh ta kiểm tra lại tình trạng của Henry, đảm bảo rằng mạng sống cậu ta không nguy kịch.
“Hi vọng là sau những va vấp kia, cậu sẽ chịu trưởng thành lên một tí.”
Giọng nói vẫn chạm đến tai Henry, song nhận thức cậu ta lại mờ dần.
Nhưng trước khi bất tỉnh, miệng cậu ta vẫn kịp thời mấp máy. Có lẽ do mê sảng, những lời cậu ta nói nghe như một thằng điên.
“Ta là người có được thông tin đó… Thông tin…sức mạnh…là của ta…”
Henry im bặt ngay sau đó. Cúi xuống nhìn cậu ta, Nicholas lầm bầm, “Này thì đến cả tôi… Thế mới nói, nghề môi giới thông tin chẳng trong sạch chỗ nào.”