Kể từ khi bắt đầu viết tiểu thuyết, cách nhìn của tôi đối với『Tokatonton』đã thay đổi.
Đó không phải là một lá thư được trao đổi giữa độc giả và tiểu thuyết gia, mà là một lá thư được trao đổi giữa một tiểu thuyết gia và một tiểu thuyết gia khác. Giữa lá thư có đoạn mô tả người đàn ông định viết tiểu thuyết rồi thất bại.
『Nên chọn một cái kết buồn lộng lẫy như chương cuối của Onegin , hay một cái kết cục tuyệt vọng theo kiểu “Câu chuyện về cuộc cãi vã” của Gogol đây, trong lúc tôi đang vừa phấn khích tột độ vừa rạo rực nghĩ ngợi, vừa ngước nhìn ánh sáng từ bóng đèn tròn trần trụi treo trên trần nhà cao của nhà tắm công cộng, thì từ xa, tôi nghe thấy tiếng búa đó, tokatonton』Và ở cuối thư,『Khi chưa viết được một nửa lá thư này, tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng tokatonton dồn dập rồi. Viết một lá thư như thế này, thật vô vị. Dù vậy, tôi đã cố gắng chịu đựng để viết cho xong. Và rồi, vì quá đỗi vô vị, tôi tuyệt vọng nên cảm giác như mình chỉ toàn viết những lời dối trá. Người con gái tên Hanae cũng không tồn tại, và tôi cũng chẳng xem cuộc biểu tình nào cả. Những chuyện khác dường như cũng đều là dối trá. Tuy nhiên, chỉ có tiếng tokatonton dường như không phải là dối trá. Tôi sẽ gửi đi lá thư này mà không đọc lại』
Không hiểu sao tôi có cảm giác rằng đằng sau những câu chữ này, ẩn hiện một khát khao,『Tôi muốn viết tiểu thuyết』. Bằng việc viết ra những lời dối trá, lá thư biến thành tiểu thuyết. Và bằng cách giữ hình thức của một lá thư, anh ta đã khôn khéo khiến cho một tiểu thuyết gia chuyên nghiệp đọc tác phẩm của mình. Vị tiểu thuyết gia nhìn thấu điều đó đã hồi đáp thế này.
『Ma-thi-ơ 10:28: “Đừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn; nhưng thà sợ Đấng làm cho mất được linh hồn và thân thể trong địa ngục.”』
Đối với ý thức của một kẻ muốn viết tiểu thuyết mà không viết được, đây quả là những lời như sét đánh ngang tai. Không để ý đến ánh mắt của độc giả cũng không được, mà để ý quá cũng không xong.
Với Chopin và Dazai Osamu làm thầy, tôi lại một lần nữa viết tiểu thuyết.
Và rồi, tôi gửi nó đến một giải thưởng dành cho tác giả mới do một nhà xuất bản tổ chức. Đó là vào tháng mười một.
Các giải thưởng tiểu thuyết cho tác giả mới thường nhận được một số lượng tác phẩm khổng lồ, nên phía ban giám khảo cũng rất vất vả. Việc mất nửa năm mới có kết quả là chuyện bình thường, nhưng giải thưởng mà tôi gửi tham gia là loại được chia thành nhiều đợt chấm trong năm, nên chỉ hai tháng là có kết quả.
Đáng tiếc thay, tôi đã trượt──
Tác phẩm của tôi được đánh giá cao nhất, nhưng lại không có ai đoạt giải cả.
Tuy nhiên, tôi đã được sắp xếp để gặp và nói chuyện trực tiếp với người biên tập viên đã chấm giải.
2
Tôi bắt xe buýt đêm để tới Tokyo.
Vì hồi hộp nên tôi chẳng thể nào chợp mắt. Có một cảm giác rằng, có gì đó đang bắt đầu chuyển động. So với Hyogo, có sân vận động Koshien, thì Tokyo gần hơn rất nhiều. Thế nhưng, tôi lại cảm thấy mình đang đi đến một nơi xa hơn nhiều so với lần đó. Người biên tập viên mà tôi sắp gặp dường như là một người khá nổi tiếng, đến mức có cả trang Wikipedia. Vừa dùng điện thoại thông minh xem thông tin, tôi lại càng thêm choáng ngợp. Trong mục tác phẩm phụ trách, hàng loạt những cái tên nổi tiếng được liệt kê. Anh ta còn phụ trách nhiều tác giả từng đoạt một giải thưởng danh giá nào đó…
Tôi đã mua sách điện tử và đọc các tác phẩm anh ta phụ trách suốt đêm.
——Tôi không thích Tokyo. Đông người đến mức khiến tôi phát bệnh. Tình trạng quá tải thông tin cứ kéo dài bất tận, hệt như lễ hội Uneme. Chẳng hiểu sao, tôi lại nhìn thấy quá nhiều thứ và nghe thấy quá nhiều âm thanh.
Nơi hẹn là một quán cà phê nằm cách ga Shinjuku một quãng.
Hai giờ chiều, tôi bước vào quán và tìm Furuta-san, người biên tập.
Quán rộng gấp ba lần tôi tưởng. Những chỗ ngồi gần cửa sổ thì sáng sủa và thoáng đãng, còn khu vực sâu bên trong không có cửa sổ thì được những ngọn đèn màu ấm áp chiếu rọi. Sàn nhà trải thảm màu đỏ rượu vang. Bàn ghế làm từ gỗ mun. Một nơi có không khí sang trọng, phảng phất như trong bộ phim『Bố Già』.
Trong lúc tôi đang ngơ ngác nhìn quanh, một người ngồi ở phía trong khẽ giơ tay.
Đó là một người kỳ lạ. Thân hình khá vạm vỡ, khoác một chiếc áo da màu đỏ chói. Gương mặt tròn, đeo cặp kính gọng đen hình vuông. Một sự lạc quẻ tột độ với khung cảnh xung quanh. Cứ như thể một nhân vật trong Marvel Comics đi lạc vào phim trường của 『Bố Già』vậy. Anh ta trạc bốn mươi tuổi.
Người này sao—? tôi nghĩ. Hoàn toàn khác với những gì tôi đã tưởng tượng. Tôi vừa liếc nhìn xung quanh xem biết đâu người thật đang trốn ở đâu đó, vừa tiến lại chỗ anh ta.
“Chào cậu, tôi là Furuta-san—”
Quả nhiên anh ta là Furuta-san. Chúng tôi bắt tay và ngồi xuống bàn. Furuta-san đột ngột nói.
“Cậu có khí chất thật đấy!”
“Ể? ...À, vậy ạ...?”
“Ừm! Tôi cảm nhận được tài năng đấy!”
Furuta-san trông có vẻ rất nghiêm túc, nhưng tôi lại có cảm giác như thể mình vừa bị bẻ trẹo xương cổ. Ah, một người kỳ quặc— tôi nghĩ. Cuộc trò chuyện phiếm bắt đầu.
Dù sao đi nữa thì Furuta-san nói rất nhiều. Anh ta nhanh trí, các chủ đề được tung ra dồn dập, nhảy từ chuyện nọ sang chuyện kia nhưng lạ thay vẫn không đi chệch trọng tâm. Giọng điệu có chút đặc biệt, thỉnh thoảng lại chêm vào những từ ngữ được gọi là “onee kotoba” như “~nano yone”, “~kashira”, tạo thành điểm nhấn và nhịp điệu, cuốn hút người nghe vào câu chuyện. Trông anh ta không có vẻ gì là cố tình làm vậy. Đó là tài năng ăn nói bẩm sinh. Cứ thế, chẳng mấy chốc mà bốn tiếng đồng hồ đã trôi qua, tôi mới giật mình bừng tỉnh. Chúng tôi chưa hề nói gì về tác phẩm cả. Cứ đà này, tôi đến Tokyo chỉ để nói chuyện phiếm rồi về mất, nên tôi hỏi,
“...À... Tiểu thuyết của em, anh thấy thế nào ạ...?”
Furuta-san ngớ ra một lúc, rồi nói,
“A! Đúng rồi, đúng rồi! Hôm nay chúng ta bàn về chuyện đó nhỉ!”
Này này, tôi nghĩ. Nhưng rồi Furuta-san đột nhiên mang một vẻ mặt ngầu lòi,
“Nói một lời thì— tiểu thuyết của cậu, ‘đậm đặc quá’ đấy.”
“‘Đậm đặc quá’— ạ?”
“Thú vị đấy chứ— nhưng câu chuyện vừa khó vừa quá phức tạp. Tôi nghĩ người bình thường sẽ không theo kịp đâu. Cảm giác sẽ không bán chạy được.”
Furuta-san thản nhiên thả một viên đường vào tách, rồi lại gắp từ trong tách ra cho vào miệng ngậm như ngậm kẹo. Để não bộ vận hành cần có đường. Anh ta tiếp tục.
“Văn phong thì rất tốt đấy. Các lối ví von chi tiết cũng rất hay. Thực sự có điều gì đó khiến người ta phải trầm trồ. ——Nhưng, vị của nó đậm đặc quá. Cảm giác như chỉ cần uống một ngụm là đủ rồi. Phải chăng là cậu đã quá nghiêm túc, hay là đã gồng mình quá sức?”
Toàn là những điều tôi không hề hay biết, tôi nghĩ. Tôi cứ ngỡ mình đã cố gắng mô phỏng cảm quan của người bình thường, vậy mà vẫn còn lệch lạc đến thế này, tôi sững sờ.
“...Nhưng, em muốn viết một cách nghiêm túc. Những tiểu thuyết thông thường không thể làm em thỏa mãn, phải là thứ gì đó được viết bằng máu thì em mới cho là hay được.”
Furuta-san cho viên đường thứ hai vào miệng,
“Những thứ được viết một cách nghiêm túc thì độc giả cũng phải đọc một cách nghiêm túc đấy. Thời buổi này, ai cũng bù đầu với thế giới thực và mệt mỏi rã rời rồi, nên tôi e là những thứ như vậy sẽ không bán được đâu. Những người như cậu là thiểu số đấy.”
...Liệu có phải vậy không? Tôi im bặt. Có lẽ, vẫn còn thiếu hoa. Có lẽ tôi phải dùng thật nhiều, thật nhiều hoa hơn nữa để che lấp đi khẩu đại pháo——
“Đây, thông tin liên lạc của tôi—” Furuta-san rút một tấm danh thiếp từ trong ví ra. “Khi nào có tác phẩm mới, cứ gửi mail cho tôi nhé. Tôi sẽ đọc. Tôi rất mong chờ đấy.”
Furuta-san nhanh chóng cầm lấy hóa đơn, thanh toán rồi rời đi. Tôi vẫn ngồi tại chỗ, suy nghĩ về những điều anh ta vừa nói. ——Thì, đột nhiên, Furuta-san quay lại.
“À, suýt quên, cậu nên đổi bút danh đi nhé! Sến lắm!”
Rồi anh ta lại đi mất. Anh quay lại chỉ để nói thế thôi à... tôi nghĩ.
Tôi đã đổi bút danh của mình.
3
Mùa thi cử đã đến. Tôi đã không dự thi. Một mình âm thầm viết tiểu thuyết.
Thầy chủ nhiệm hồi đó rất kiên quyết, cứ muốn tôi phải đi thi bằng được nên ngày nào tôi cũng phải chạy trốn thầy. Dù tôi cũng hiểu rõ cho suy nghĩ của thầy. Tôi vẫn còn nhớ lần tình cờ gặp Sumida-sensei, từng là chủ nhiệm của tôi hồi năm nhất, trên hành lang.
Người thầy cao lêu nghêu như cây tre ấy đã dừng lại giữa hành lang,
“Yakumo~, em vẫn chưa khỏe hẳn à~?”
Tôi suy nghĩ một chút,
“…Đỡ hơn trước rồi ạ.”
Nghe vậy, thầy mỉm cười rạng rỡ,
“Thế thì tốt quá nhỉ~”
Dù chỉ là người lướt qua đời mình trong thoáng chốc, nhưng vẫn có những người lo lắng cho ta. Tôi cũng đã nói với bố rằng mình sẽ không dự thi. Cuộc trò chuyện qua tin nhắn của chúng tôi diễn ra như thế này.
『Vậy à. Giờ con đang làm gì?』
『Con đang viết tiểu thuyết.』
Sau một khoảng lặng ngắn, 『Vậy à. Cố lên nhé.』
Dù là cuộc nói chuyện đầu tiên sau ba năm, nó cũng kết thúc chỉ trong ba dòng. Tôi cứ thế mà tốt nghiệp cấp ba một cách nhẹ nhàng.
4
Bố đã tặng tôi một chiếc Macbook. Phông chữ đẹp hơn Windows, việc sáng tác cũng dễ dàng hơn trước rất nhiều. Những ngày tháng miệt mài viết tiểu thuyết của tôi bắt đầu.
Tôi gần như không còn ký ức gì về khoảng thời gian này. Bàn làm việc và chiếc Macbook gần như là cả thế giới của tôi.
Mỗi ngày, tôi ngấu nghiến sách, phim và thông tin trên mạng rồi gõ lách cách trên bàn phím. Vì gần như không ra ngoài nên mặt mũi tôi ngày càng xanh xao. Việc đi đến siêu thị gần nhà cũng có cảm giác như một chuyến viễn chinh. Vốn dĩ tôi cũng chẳng kén ăn, nhưng rồi cứ gầy dần đi.
──Hai tháng sau, tôi viết xong một tác phẩm. Tôi đã định làm cho nó nhạt đi khá nhiều. Ngay lập tức, tôi gửi mail cho Furuta-san.
Chỉ một tiếng sau, anh ta đã trả lời.
『Đậm đặc quá!』
... Hả, chỉ vậy thôi sao? Cuốn tiểu thuyết mà tôi đã cược cả cuộc đời mình vào trong suốt hai tháng trời lại bị giải quyết chỉ bằng một câu nói, tôi mất hết bình tĩnh, vô cớ “viễn chinh” đến siêu thị. Vô cớ tìm một củ cải có hình thù gợi dục. Trên nhãn của chai trà tôi cầm lên cũng có ghi chữ『Đậm đặc』.
Lần tiếp theo, tôi viết xong một tác phẩm trong một tháng. Tốc độ gấp đôi. Chắc chắn độ đậm đặc cũng sẽ giảm đi một nửa. Tôi gửi cho Furuta-san. Hai tiếng sau có hồi âm.
『Vẫn còn đậm đặc lắm!』
Thật không thể tin nổi. Tôi có cảm giác độ đậm đặc chỉ bằng khoảng một phần tư tác phẩm đã giúp tôi có cơ hội gặp Furuta-san, vậy mà vẫn còn đậm đặc ư... Tôi còn suy diễn vớ vẩn rằng có khi nào do tôi đã cố giảm độ đậm đặc xuống một nửa, nhưng Furuta-san lại đọc lâu gấp đôi nên mới ảo giác là nó chẳng có gì thay đổi không.
Tôi nghĩ hay là do những thứ tôi đọc có vấn đề, nên đã thử tìm đọc nhiều tác phẩm nhạt khác nhau. Chúng hoàn toàn không phải gu của tôi, nhưng tôi có thể dễ dàng phân tích được sự thú vị của chúng.
Tôi áp dụng sự nhẹ nhàng của những tác phẩm đó và dành ra hai tháng để viết một tác phẩm mới.
Thế này thì sao đây, Furuta-san!
『Không phải như vậy đâu chàng trai à... Tôi muốn cậu viết mà không hạ thấp “độ lệch chuẩn”. Mà nói đúng hơn, chẳng phải nó còn chán hơn cả tác phẩm trước sao?』
... Tôi phải làm thế quái nào đây! “Độ lệch chuẩn” là cái quái gì chứ! Rốt cuộc thì anh muốn tôi viết cái thứ gì hả! Tôi căm ghét Furuta-san. Tôi cũng đã viết mail cho anh ta. Nhưng bị lơ đẹp.
Tôi nằm liệt giường mất khoảng một tháng──
5
Chẳng đạt được thành tựu gì, mùa thu đã tới. Tôi chẳng hề hay biết mùa hè đã bắt đầu và kết thúc lúc nào. Không khí trong phòng luôn được duy trì ở một nhiệt độ không đổi nhờ máy điều hòa.
Tôi và Shimizu thi thoảng vẫn liên lạc với nhau. Cậu ấy đã chuyển đến thành phố Soma và trở thành một ngư dân. Cậu ấy chuyển đến sống gần Kobayashi Koyomi. Hải sản của Fukushima không bán được vì những tin đồn tai hại, khiến cậu ấy rất chật vật.
『Cùng một vùng biển bắt cá ngừ, nhưng cảng dỡ hàng sẽ trở thành nơi sản xuất, nên bọn tớ phải cất công mang đến Kesennuma ở Miyagi để dỡ hàng. Chỉ vì là hàng của Fukushima mà không thể bán được. Thật ngớ ngẩn nhỉ.』
Đối với Shimizu mà nói, đây là một cách nói khá gay gắt. Chắc hẳn cậu ấy cũng có nỗi tức giận của riêng mình. Cuối tháng chín, tôi nhận được liên lạc từ một người không ngờ tới.
Là Yuzuki.
『Đi làm hộ chiếu đi. Làm ngay đi.』
Hơn ba năm trời bặt vô âm tín, đột nhiên lại là chuyện này. Nào là bố, nào là Furuta-san, rồi đến cả Yuzuki, không biết có giới hạn nào khiến họ chỉ có thể gửi cho tôi vài byte dữ liệu hay sao?
Nhưng tôi cũng đang trong tâm trạng chẳng muốn viết lách gì ngoài tiểu thuyết, nên chỉ đáp lại:『Biết rồi』. Và rồi, tôi thực sự đã điền hồ sơ và đi làm hộ chiếu.
Lâu rồi mới ra thế giới bên ngoài, tôi cảm thấy choáng váng. Dù đang ở quê hương mà cứ ngỡ mình là kẻ ngoại tộc. Tôi thậm chí đã quên mất cách hành xử thông thường, và lo không biết cử chỉ của mình có gì đáng ngờ không.
Tôi nộp hồ sơ tại quầy làm hộ chiếu ở Tòa nhà Chính phủ Hỗn hợp Koriyama. Đối diện với nữ nhân viên, tôi bối rối.
Tôi đã quên mất cả cách cất lời.
6
Vào giữa tháng Mười, tôi lại nhận được liên lạc từ Yuzuki.
『Chuẩn bị đi du lịch đi!』
『Biết rồi』
Tôi chỉ biết nghe lời. Thân phận tôi vốn dĩ đâu có quyền phản bác. Một kẻ rảnh rỗi chẳng có việc gì làm ngoài viết tiểu thuyết. Thế nhưng năm ngày sau, tin nhắn lúc sáu giờ sáng ngày 13 tháng 10 quả thực đã khiến tôi choáng váng.
『Đến Warszawa đi! Lượt của tớ là ngày 16!』
Quả nhiên tôi sững sờ. ——Không, có lẽ là do tôi còn ngốc hơn Yuzuki tưởng. Bởi lẽ, đã có không biết bao nhiêu người đang dõi theo từng đường đi nước bước của cô ấy…
Yuzuki đang tham dự Cuộc thi Piano Quốc tế Frédéric Chopin. Trên trang chủ của Hiệp hội Nghệ thuật Quốc tế Tokyo, cuộc thi này được giới thiệu như sau:
『Đây là một cuộc thi nổi tiếng quốc tế được tổ chức năm năm một lần tại Warszawa, thủ đô của Ba Lan và cũng là quê hương của Chopin, diễn ra trong ba tuần vào khoảng ngày 17 tháng 10, ngày giỗ của ông. Đây là cuộc thi âm nhạc quốc tế lâu đời nhất vẫn còn tiếp diễn cho đến nay, và những người đoạt giải đều là những nhạc sĩ lừng danh thế giới. Các tác phẩm dự thi chỉ bao gồm các sáng tác của Chopin, trải dài trên nhiều thể loại như etude, sonata , fantasia , waltz , nocturne , concerto và nhiều thể loại khác. Cuộc thi này được xem là một trong những cuộc thi danh giá nhất thế giới, và cùng với Cuộc thi Quốc tế Nữ hoàng Elisabeth, Cuộc thi Quốc tế Tchaikovsky, chúng được mệnh danh là ba cuộc thi âm nhạc lớn nhất thế giới. Đây là cửa ải quan trọng cho các nghệ sĩ dương cầm muốn vươn ra thế giới.』
Tuyệt thật… tôi bất giác lẩm bẩm. Tôi nhớ lại ngày đầu tiên gặp Yuzuki, cô ấy đã cho tôi nghe đĩa CD của Maurizio Pollini. Ông đã giành chiến thắng trong cuộc thi lần thứ sáu vào năm 1960, khi mới mười tám tuổi. Ngoài ra, những nghệ sĩ dương cầm mà tôi tình cờ biết đến trong thời gian ở bên Yuzuki——cả Ashkenazy , Argerich, và cả Tanaka Kiyoko-sensei nữa, tất cả họ đều là những người từng đoạt giải của cuộc thi này.
Và giờ đây, tại cuộc thi lần thứ mười bảy, Yuzuki đang thử sức mình ở tuổi mười tám, bằng tuổi với Pollini khi ông giành chiến thắng. Cứ như thể, là định mệnh——
Thử tìm hiểu, tôi mới biết dường như Yuzuki đã gửi tin nhắn 『Đến Warszawa đi!』 ngay sau khi có thông báo cô ấy đã vượt qua vòng sơ khảo thứ hai. Nếu đi ngay bây giờ, chắc hẳn tôi sẽ kịp vòng tuyển chọn thứ ba.
Tôi lập tức đặt vé máy bay, rồi đi từ ga Koriyama đến Tokyo bằng tàu thường mất bốn tiếng đồng hồ. Từ đó tôi đến Hamamatsucho, rồi đi tàu một ray đến sân bay Haneda. Vừa lạc đường, vừa say sẩm vì đám đông, đến chín giờ tối, tôi cũng đã lên được máy bay.
『Tớ lên máy bay rồi nhé』
Tôi gửi tin nhắn cho Yuzuki.
『Ngoan lắm. Cảm ơn cậu. Khoảng mấy giờ cậu đến nơi?』
『Khoảng mười tám giờ bên đó. Ở sân bay Warszawa.』
『Tớ biết rồi. Tớ sẽ ra đón.』
Chuyến bay đầu tiên đến sân bay Quốc tế Kansai. Từ đó tôi chuyển máy bay, bay thêm mười tiếng rưỡi nữa để đến sân bay Helsinki-Vantaa ở Phần Lan. Sau đó lại chuyển máy bay một lần nữa, cuối cùng tôi cũng đã đến được Sân bay Frédéric Chopin Warszawa.
7
Vừa bước xuống máy bay, tôi đã bất giác buột miệng, “Lạnh thật.”
Nhiệt độ trung bình tháng Mười ở Fukushima là 15 độ, trong khi đó ở Warszawa chỉ khoảng 8 độ. Do không tính đến khí hậu nên tôi đã mặc nguyên trang phục như vậy mà đến đây.
Lòng tôi dâng lên một cảm giác thật thảm hại khi tiến về phía cổng.
Sau ba năm rưỡi, cuối cùng cũng được gặp lại Yuzuki──Nghĩ đến đó, lồng ngực tôi lại rộn lên.
Tôi đi qua cổng. Người đàn ông tóc vàng đi phía trước đã ôm chầm lấy người phụ nữ tóc đỏ có vẻ là người yêu đang chờ đợi rồi hôn cô. Tôi tìm kiếm Yuzuki──
Tựa như có một luồng điện, bụp, chạy xoẹt qua người. Tôi đã tìm thấy Yuzuki.
Trong khoảnh khắc, tôi đã bị cô ấy hớp hồn.
Cô ấy đã trở nên vô cùng xinh đẹp.
Mái tóc đen dài suôn mượt vẫn như xưa, gương mặt trang điểm nhẹ nhàng trông còn xinh đẹp hơn trước.
Đường nét trên khuôn mặt cô trở nên sắc sảo hơn, đôi mắt hạnh nhân trở nên to tròn và quyến rũ hơn, đôi môi màu anh đào lại càng thêm gợi cảm. Trên tai cô lấp lánh đôi khuyên. Cô mặc một chiếc áo thun kẻ sọc, khoác bên ngoài chiếc áo khoác trắng, cùng với quần tây đen bó sát và đi giày cao gót. Cổ quàng một chiếc khăn choàng màu xanh lá mạ rực rỡ.
Cô ấy mang lại ấn tượng về một người phụ nữ vô cùng tinh tế. Trong khi đó, bộ dạng của tôi có thể nói là thảm hại.
Lúc đầu, Yuzuki nhìn tôi mỉm cười, nhưng khi tôi đến gần hơn, cô ấy tròn mắt.
“Uwa! Cậu mặc mỏng manh thế này mà đến đây à? Mà này, sắc mặt cậu tệ quá đi!”
Đó là câu nói đầu tiên không thể tin nổi sau ba năm rưỡi gặp lại. Tôi có cảm giác như mọi thứ đã bị phá hỏng.
──Chúng tôi vừa trò chuyện đủ thứ vừa sóng bước trong sân bay. Ở một nơi thoáng đãng có mặt tường hoàn toàn bằng kính, có một cây đại dương cầm được đặt ở đó. Một người đàn ông có thân hình như lực sĩ thể hình, râu ria rậm rạp đang chơi bản『Waltz No. 13』của Chopin. Thanh âm hoa mỹ và ngọt ngào không hề tương xứng với vẻ ngoài của anh ta.
“Ah──” tôi nhận ra và nói. “Tớ chỉ mang theo tiền Yên thôi. Phải đi đổi tiền mới được.” Đơn vị tiền tệ của Ba Lan là Złoty. Một Złoty bằng 31 Yên. Nghe vậy, Yuzuki nói.
“Tỷ giá ở sân bay không tốt đâu, nên đến quầy đổi tiền trong thành phố thì hơn! Tạm thời tớ sẽ ứng tiền trước cho, sau này cậu trả lại tớ một thể là được.”
Sau này tôi tra lại, tỷ giá đổi tiền ở sân bay lên tới 40 Yên cho một Złoty.
Chúng tôi vào một cửa hàng quần áo trong sân bay, Yuzuki đã chọn cho tôi một chiếc áo khoác hợp ý. Cô ấy nói rằng màu tối sẽ càng làm nổi bật sắc mặt tệ của tôi, nên màu xám là tốt nhất. Nhìn cô ấy thanh toán bằng thẻ tín dụng, tôi lại thấy mình thật thảm hại vì quá thiếu kỹ năng xã hội.
Ra khỏi sân bay, chúng tôi bắt một chiếc taxi. Lúc này tôi mới nhận ra Yuzuki có dùng nước hoa.
“Cậu thấy phần trình diễn của tớ thế nào?”
Yuzuki hỏi. Tôi nghiêng đầu.
“Trình diễn? Trình diễn nào cơ?”
“Ể! Cậu không xem video trên YouTube à?”
Hóa ra, tại Cuộc thi Piano Quốc tế Chopin lần thứ mười bảy, phần trình diễn của các thí sinh đã được phát trực tiếp, và người xem còn có thể chia sẻ cảm nhận trên Facebook. Trong lúc tôi ở trên một hòn đảo hoang, phương tiện giao tiếp của thế giới đã phát triển đến vậy.
“Tớ cũng không xem lưu trữ. Mà thực ra, tớ cũng không biết là Yuzuki có tham gia cuộc thi.”
“...Vậy là, cậu không biết gì cả, chỉ nhận được tin nhắn rồi đến ngay lập tức sao?”
“Chắc là vậy.”
Yuzuki làm một vẻ mặt kinh ngạc.
“Rốt cuộc cậu đã sống cuộc sống thế nào mà lại ra nông nỗi này?”
Tôi kể ngắn gọn về cuộc sống của mình sau khi tốt nghiệp cấp ba. Mà nói vậy chứ, vốn dĩ cuộc sống của tôi cũng đã đơn giản rồi. Tôi đã nghĩ mình sẽ bị mắng vì lối sống bê tha của mình. ──Thế nhưng, Yuzuki chỉ thở dài một hơi,
“Tớ đã nghĩ rằng một ngày nào đó Yakumo-kun sẽ trở thành tiểu thuyết gia.”
“Eh? Vậy sao?”
“Nói đúng hơn là, tớ nghĩ có lẽ cậu chỉ có thể trở thành tiểu thuyết gia mà thôi.”
“Tại sao?”
“Chỉ cần tiếp xúc một chút thôi là ai cũng sẽ hiểu mà.”
Tôi không hiểu rõ lắm, nhưng tôi nghĩ có lẽ là vậy. Ngay cả việc tôi bắt đầu viết tiểu thuyết cũng là vì Shimizu bảo tôi làm thế. Có lẽ cậu ấy cũng đã nghĩ giống như Yuzuki.
Qua cửa sổ taxi, khung cảnh thành phố Warszawa sắp về đêm dần trôi qua. Khu vực quanh sân bay khá yên tĩnh, nhưng càng đến gần trung tâm, nó càng trở nên nhộn nhịp.
8
Ba Lan, quốc gia được mệnh danh là『Trái tim của châu Âu』bởi vị trí nằm giữa Đức và Belarus, ngay trung tâm của lục địa. Và nằm ở chính trung tâm của trái tim ấy là thủ đô Warszawa.
Sông Wisła, con sông dài nhất Ba Lan với tổng chiều dài lên đến 1047 km, bắt nguồn từ dãy Beskids ở phía nam và đổ ra biển Baltic, chảy qua chia đôi Warszawa.
Toàn bộ phạm vi hoạt động của chúng tôi đều ở tả ngạn, chưa một lần nào chúng tôi đặt chân sang hữu ngạn.
Chiếc taxi chở chúng tôi dừng lại trước một khách sạn trong khu vực giữa Phòng hòa nhạc Warszawa, địa điểm tổ chức Cuộc thi Piano Quốc tế Chopin, và Học viện Âm nhạc Chopin. Vẻ ngoài của nó gần như không khác gì những khách sạn ở Nhật Bản – nhưng nội thất bên trong lại được trang trí tinh xảo và thời thượng.
Một đêm khoảng 200 Złoty. Căn phòng ngay cạnh phòng Yuzuki đang ở còn trống, nên tôi đã làm thủ tục nhận phòng ở đó. Khi tôi đặt hành lý xuống, bên ngoài cửa sổ trời đã về đêm.
Yuzuki đến phòng tôi rồi ngồi xuống giường. Một mùi hương dễ chịu thoảng qua. Tôi ngả người xuống chiếc ghế sofa da màu xanh. ––Ngay lập tức, cơn mệt mỏi và buồn ngủ ập đến. Tôi đã di chuyển tổng cộng hai mươi bảy tiếng đồng hồ từ Fukushima. Tôi vặn ngược chiếc đồng hồ đang chỉ ba giờ lại tám tiếng, chỉnh về mười chín giờ.
“... Nhân tiện, bố mẹ của Yuzuki đâu rồi? Họ không đến cổ vũ cậu à?” Nghe vậy, Yuzuki hơi cúi đầu,
“Hình như họ có đến, nhưng tớ chưa gặp mặt lần nào. Gặp rồi sẽ làm loạn nhịp màn trình diễn của tớ.”
Dường như sự bất hòa giữa Yuzuki và Ranko-san vẫn còn tiếp diễn.
Chúng tôi cùng nhau ăn tối tại nhà hàng của khách sạn. Pierogi, một món ăn truyền thống của Ba Lan giống như sủi cảo, súp củ dền borscht, bánh mì được gọi là chleb, và vô số món ăn khác không rõ tên... Món nào cũng ngon, nhưng cảm giác như vẫn còn đang chòng chành trên máy bay vẫn chưa tan biến, khiến tôi không ăn vào được bao nhiêu. Ngược lại, Yuzuki không hề có vẻ gì là căng thẳng đến mức không muốn ăn, cô ấy vẫn ăn một cách bình thường ngon lành.
Thời gian trôi qua vùn vụt khi chúng tôi trò chuyện về cuộc sống của mỗi người từ trước đến nay. Dù muốn tiếp tục mãi, nhưng chúng tôi đã sớm dừng lại để chuẩn bị cho ngày mai, rồi chia tay và trở về phòng ngủ.
Mùi hương của Yuzuki còn vương lại trên giường. Đó là hương hoa lan Nam Phi.
9
Ngày 15 tháng 10──
Tôi ăn sáng tại nhà hàng của khách sạn. Vừa uống nước cam, tôi vừa liếc nhìn Yuzuki đang ăn bánh mì phết mật ong. Lớp trang điểm của cô ấy có vẻ nhạt hơn hôm qua một chút. Vốn dĩ đã xinh đẹp rồi, nên tôi cảm thấy cô ấy chẳng cần phải trang điểm làm gì.
“Yuzuki này, mai là đến lượt cậu rồi nhỉ? Cậu có định mượn piano ở Học viện Âm nhạc Chopin để luyện tập không?”
“Chắc sáng tớ sẽ làm vậy. Trưa mình ăn cơm cùng nhau, sau đó thì đi đến khu phố cổ lịch sử nhé." Dù đã cất công đến Ba Lan, tôi lại giam mình trong phòng khách sạn để viết tiểu thuyết, và tra cứu lại về『Khu phố cổ Warszawa』.”
Sau khi Yuzuki trở về, chúng tôi dùng bữa tại một nhà hàng gần đó rồi đi bộ về phía bắc dọc theo phố Krakowskie Przedmieście. Đó là một con phố lát đá rộng và đẹp. Hai bên đường là những tòa nhà theo kiến trúc Phục Hưng và Tân Cổ điển san sát nhau. Đèn đường có hình dáng như những bông hoa linh lan. Tôi tìm thấy tượng Copernicus trước Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan và tượng Poniatowski trước Dinh Tổng thống. Tôi muốn xem bức tượng Chopin nổi tiếng, nhưng dường như nó lại nằm ở hướng ngược lại.
Đi bộ khoảng hai mươi phút, chúng tôi đã đến nơi.
Khu phố cổ lịch sử Warszawa──Nơi này được công nhận là Di sản Thế giới, là một khu phố cổ mới. Nơi đây đã từng một lần biến mất khỏi thế gian, và rồi lại được hồi sinh.
──Ngày 1 tháng 9 năm 1939, Đức và đồng minh là Slovakia độc lập đã xâm lược lãnh thổ Ba Lan. Sau đó, vào mùng 3, các nước đồng minh của Ba Lan là Anh và Pháp đã tuyên chiến với Đức, khởi đầu cho Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào ngày 17, Liên Xô, vốn đã ký Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau với Đức, cũng tham gia xâm lược, và đến ngày 6 tháng 10 cùng năm, toàn bộ Ba Lan đã bị Đức và Liên Xô chiếm đóng.
Và rồi, ngày 22 tháng 6 năm 1944──Khi Chiến dịch Bagration , chiến dịch phản công lớn nhất của quân đội Liên Xô chống lại quân Đức, bắt đầu ở Belarus, quân Đức liên tiếp bại trận. Lúc này, Liên Xô đã trở thành kẻ thù của Đức. Sau khi đẩy lùi quân Đức và vùng chiếm đóng đã lan rộng khắp miền đông Ba Lan, Liên Xô đã kêu gọi lực lượng kháng chiến Ba Lan nổi dậy.
Và rồi, đúng mười bảy giờ ngày 1 tháng 8──Quân đội trong nước của Warszawa, cùng với cả những người dân bao gồm phụ nữ và trẻ em, đã vũ trang khởi nghĩa, đứng lên chống lại quân Đức. Đó chính là Khởi nghĩa Warszawa.
Tuy nhiên, chính quân đội Liên Xô, những người đã thúc giục cuộc nổi dậy, lại phản bội và không chi viện cho người dân Warszawa. Trong tình thế bất lợi đến tột cùng, người dân Warszawa đã tiếp tục kháng cự trong tuyệt vọng, nhưng sau sáu mươi ba ngày, họ cuối cùng đã thất bại. Số người bị thảm sát được cho là lên tới từ mười tám đến hai mươi lăm vạn người.
Sau đó, bởi các cuộc tấn công trừng phạt của quân Đức, Warszawa đã bị phá hủy hoàn toàn. Đó là một lịch sử đen tối, đến mức như thể cả mùi của cái chết cũng phảng phất đâu đây──
Sau chiến tranh, Liên Xô, thế chỗ Đức Quốc xã thống trị Ba Lan, đã lên kế hoạch xây dựng lại Warszawa thành một thành phố theo kiểu Xô Viết dựa trên chủ nghĩa xã hội. Khi biết được điều đó, người dân đã đồng lòng phản đối. Dựa trên niềm tin rằng『Một dãy phố bị phá hủy có chủ đích và mục tiêu thì phải được phục dựng lại có chủ đích và mục tiêu』, và lý tưởng『Việc phục dựng những gì đã mất là trách nhiệm đối với tương lai』, họ đã chọn cách khôi phục lại khu phố cổ y như hình dáng của nó trước khi bị phá hủy.
Toàn bộ người dân đã bắt tay vào công cuộc vĩ đại này, và chi phí cũng được trang trải bằng tiền quyên góp của họ.
Cơ sở để tái thiết là những bức tranh phong cảnh tả thực của họa sĩ cung đình thế kỷ mười tám Bernardo Bellotto , và ba mươi lăm nghìn bản vẽ các tòa nhà do sinh viên Đại học Bách khoa Warszawa để lại.
──Năm 1939, một giáo viên đã lường trước được sự chiếm đóng của Đức Quốc xã, đã hợp tác cùng các sinh viên để vẽ lại và lưu giữ hình ảnh của thành phố Warszawa, rồi liều mạng để bảo vệ chúng.
Dựa trên những tư liệu đó, thành phố Warszawa đã được tái hiện lại, 『trung thực đến từng vết nứt trên tường』.
Và rồi vào năm 1980, khu phố cổ Warszawa đã trở thành Di sản Thế giới đầu tiên được công nhận vì『Những nỗ lực của con người trong việc phục dựng và duy trì từ sự hủy diệt』.
10
Tôi cùng Yuzuki dạo bước trên những dãy phố trung cổ xinh đẹp đã được phục dựng. Những tòa nhà mang sắc màu ấm áp với nhiều phong cách đa dạng, từ Gothic đến Tân cổ điển, nối tiếp nhau san sát.
Vừa đi, tôi vừa cảm thấy một niềm xúc động mãnh liệt. Tôi thầm nghĩ, người dân Ba Lan thật là những con người tuyệt vời. Lịch sử của Ba Lan là một trang sử đầy biến động. Họ đã bao lần bị xâm lược, mất đi vô số sinh mạng, mất đi cả lãnh thổ, và mỗi lần như vậy, họ lại tái sinh như một con phượng hoàng.
Tôi tìm thấy những vết đạn ở khắp nơi trên thành phố. Ấy là bởi vì trong quá trình phục dựng, người ta đã tái sử dụng tối đa gạch và các mảnh vỡ từ những tòa nhà ban đầu, vì vậy mà dấu tích của chiến tranh vẫn còn lưu lại.
Tôi bất giác dừng lại và vuốt ve vết tích ấy. Ngay khoảnh khắc đó── tôi ngỡ như đã nghe thấy. Tiếng bút chì lướt trên giấy. Tiếng vẽ nên ba mươi lăm nghìn bản thiết kế. Nghĩ đến cảm xúc của họ, lồng ngực tôi như thắt lại. Nỗi buồn và sự bất lực khi quê hương sắp bị tàn phá, cùng tình yêu sâu đậm dành cho Warszawa. Và rồi, tiếng lật giở ba mươi lăm nghìn bản thiết kế. Tiếng cần mẫn xếp chồng hàng triệu, hàng chục triệu viên gạch... Tôi có cảm giác rằng, tất cả những âm thanh ấy tựa như vô vàn đóa hoa, nhẹ nhàng che lấp đi những tiếng súng kinh hoàng và gương mặt bi ai của người đã khuất.
Thế nên khi nhìn vào khoảng trống của vết đạn, thứ tôi cảm nhận được không phải là nỗi đau. Mà là một tình yêu chan chứa, đến mức khiến bản thân phải hổ thẹn, giống như khi tôi nhìn thấy Yuzuki bước xuống dòng Abukuma sau trận động đất.
Trên những con đường lát đá của Warszawa, nỗi buồn thảm của một quá khứ tăm tối vẫn còn phảng phất. Thế nhưng trên hết, hiện tại của con người nơi đây lại tươi đẹp và rạng rỡ. Có lẽ vì vậy mà âm nhạc của Chopin, thứ được ví như『những khẩu đại pháo ẩn mình giữa các đóa hoa』, lại vang lên một cách tuyệt mỹ nhất dưới bầu trời của thành phố này──
Tôi đối diện với vết đạn, đứng đó, và bất giác bật khóc tự lúc nào. Là một người viết tiểu thuyết, tôi biết rằng người bình thường sẽ không khóc ở một nơi như thế này, và kẻ hay khóc sẽ bị xem là lập dị. Dù vậy, tôi không thể nào cầm được nước mắt.
“...Yakumo-kun, cậu vẫn không thay đổi gì cả nhỉ.”
Yuzuki nói rồi nhẹ nhàng nép vào tôi.
11
Ngày 16 tháng 10, 10 giờ sáng. Dàn nhạc giao hưởng Warszawa.
Yuzuki là người trình diễn đầu tiên trong ngày. Tôi ngồi ở hàng ghế khán giả tầng một. Ở tầng hai, những nghệ sĩ piano hàng đầu thế giới hẳn đang ngồi san sát nhau trên ghế ban giám khảo (trong đó có cả Martha Argerich!), nhưng từ chỗ tôi ngồi, góc nhìn bị khuất nên không thể thấy được. Tên tiết mục được xướng lên bằng tiếng Anh và tiếng Ba Lan.
Yuzuki xuất hiện trên sân khấu có trần làm bằng gỗ──. Cô mặc một chiếc váy đỏ lộng lẫy. Sự tương phản giữa mái tóc đen óng ả và làn da trắng ngần của cô thật đẹp. Khán giả chào đón cô bằng một tràng pháo tay dữ dội. Trải qua vòng sơ khảo thứ nhất và thứ hai, họ đã yêu mến và ủng hộ Yuzuki.
Yuzuki mỉm cười, duyên dáng cúi chào rồi ngồi xuống trước cây đàn dương cầm.
Đó là một cây đàn Yamaha CFX. Các thí sinh có thể chọn một trong bốn loại đàn để biểu diễn là『Yamaha』,『Kawai』,『Steinway』 và『Fazioli』, và ở đây cũng có sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất và những người lên dây đàn.
Cả khán phòng lặng đi──
Yuzuki hít một hơi thật sâu.
Sự căng thẳng bao trùm.
Những ngón tay của Yuzuki bắt đầu chuyển động──
『3 Mazurkas, Opus 59』──. Nhắc đến Polonaise và Mazurka , đó đều là những vũ điệu dân gian của Ba Lan, nhưng trong khi Polonaise chủ yếu phổ biến trong giới quý tộc thì Mazurka lại được đông đảo dân chúng yêu thích. Người ta nói rằng Chopin vẫn thường viết Mazurka như một dạng nhật ký.
Opus 59 được sáng tác trong khoảng thời gian từ năm 1844 đến năm 1845. Khi ấy, ngoài tình trạng sức khỏe không tốt như thường lệ, Chopin còn đang khổ sở vì mối bất hòa với Maurice, con trai của người tình George Sand.
Chương một bắt đầu với giai điệu u buồn, chương hai mang lại cảm giác đầy sức sống, chương ba dù mở đầu bằng những cảm xúc mãnh liệt tựa cơn thịnh nộ nhưng rồi chuyển sang giai điệu ngọt ngào và kết thúc với một ấn tượng lạc quan──
Bởi được sáng tác chỉ bốn năm trước khi ông qua đời, nên ở đó vẫn ẩn chứa cảm giác về cái chết. Đã gần mười năm rồi tôi mới được nghe Yuzuki chơi đàn trực tiếp.
Ngay khi âm thanh vang lên, tôi bất chợt nổi da gà. Cô ấy đã tiến bộ vượt bậc──
Vẫn kế thừa vẻ đẹp, sự thuần khiết, mượt mà và trong trẻo trong từng nốt nhạc tựa như Tanaka Kiyoko-sensei, nhưng Yuzuki đã điểm tô vào đó những xúc cảm phong phú và sắc màu của riêng mình.
Âm sắc của cô như đang vẽ nên một cuộc sống rực rỡ. Giống như cuộc sống luôn biến đổi, Opus 59 cũng thay đổi màu sắc theo từng khoảnh khắc. Yuzuki đã thể hiện điều đó một cách vô cùng phong phú. Thậm chí còn có cả một hương vị đậm đà như rượu vang thượng hạng. Tôi nghĩ đây hẳn là cái gọi là sự chín muồi mà Yuzuki đã nói trước đây. Tôi nghĩ về cuộc sống của Yuzuki ở Ý. Chắc chắn cô đã trải qua những ngày tháng vô cùng trọn vẹn. Thành quả của những ngày tháng tích lũy đó đã chín muồi và được thể hiện qua âm sắc của cô. Điều gì đó, như một ký ức hoài niệm đang trỗi dậy.
Tựa như các mùa đảo ngược, những cánh hoa anh đào đã rơi xuống đất lại lả tả bay vút lên trời. Thế nhưng, lại có cảm giác như một thứ gì đó quý giá, không hề đơn giản, tựa một viên ngọc trai xanh biếc, đang hình thành trong tim mình.
『ŻAL』── Yuzuki đã thể hiện xuất sắc điều đó.
──Khi buổi biểu diễn kéo dài gần một tiếng đồng hồ kết thúc, một tràng pháo tay như sấm rền vang lên.
Yuzuki mỉm cười. Cô đứng dậy khỏi ghế, cúi chào rồi biến mất vào cánh gà.
Phần trình diễn của cô ấy thật áp đảo.
12
Ngày 17 tháng 10── là ngày giỗ của Chopin.
Vào buổi sáng đã có thông báo, và Yuzuki đã được quyết định sẽ tham gia vòng chung kết. Ngay sau khi công bố, tôi đã nhìn Yuzuki bị đám nhà báo vây quanh từ một khoảng cách xa. Cảm giác như thể chúng tôi sống ở hai thế giới khác nhau.
Tôi tin rằng Yuzuki chắc chắn sẽ giành chiến thắng. Cô ấy sẽ sánh vai cùng những nghệ sĩ hàng đầu mà cô ấy luôn đặt làm mục tiêu từ trước đến nay. Và rồi sẽ có rất nhiều người lắng nghe màn trình diễn của Yuzuki. ──Đó là một điều rất tốt.
Chúng tôi đã tham dự buổi hòa nhạc『Chopin - Requiem - Mozart』 được tổ chức tại Nhà thờ Thánh Giá. Đây là một buổi hòa nhạc tưởng niệm Chopin. Vào tám giờ tối, hoa đã được dâng lên cây cột nơi lưu giữ trái tim của Chopin. Chopin cuối cùng đã không thể trở về quê hương, sau khi ông qua đời, chỉ có trái tim của ông được người chị gái bí mật mang về. Trong Thế chiến thứ hai, trái tim của Chopin đã được người dân di tản và bảo vệ. Nhà thờ Thánh Giá cũng đã bị phá hủy trong cuộc Khởi nghĩa Warszawa và được xây dựng lại.
Trên cây cột có khắc dòng chữ từ Phúc âm Ma-thi-ơ 6:21:『Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó』.『Các ngươi chớ chứa của cải ở dưới đất, là nơi có sâu mối, ten rét làm hư, và kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy; nhưng phải chứa của cải ở trên trời, là nơi chẳng có sâu mối, ten rét làm hư, cũng chẳng có kẻ trộm đào ngạch khoét vách mà lấy. Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó』──
Có lẽ trái tim của Chopin đã ở trên thiên đường của quê hương ông. Người ta nói rằng, trước lúc lâm chung, ông đã trăn trối:『Trong tang lễ của tôi, xin hãy chơi bản Requiem của Mozart.』
Bản『Requiem』của Mozart vang vọng khắp trần nhà cao của Nhà thờ Thánh Giá──
Chúng tôi lắng nghe màn trình diễn tuyệt đẹp từ những chỗ ngồi không được tốt cho lắm. Là do Yuzuki đã khách sáo, nói rằng người Nhật chúng ta không thể ngồi ở những vị trí tốt hơn người Ba Lan được.
Tiếng hát và âm nhạc vừa bi thương vừa trang nghiêm đã làm rung động trái tim.
Lacrimosa dies ilia (Ôi ngày ấy đầy nước mắt.)
Qua resurget ex favilla (Ngày tội nhân từ trong tro bụi.)
Judicandus homo reus. (Sẽ sống lại để chịu phán xét.)
Huic ergo parce, Deus, (Xin Chúa thứ tha.)
Pie Jesu Domine, (Lạy Giêsu lân tuất,)
Dona eis requiem. (Xin cho các linh hồn, được an nghỉ muôn đời.)
Amen.
Dàn nhạc đang biểu diễn trước bàn thờ được chiếu sáng rực rỡ bởi đèn chùm và ánh đèn sân khấu. Khán giả phía sau họ chìm trong ánh sáng mờ ảo. Những gương mặt của mọi người, buồn bã cụp mắt xuống, đôi khi còn rơm rớm nước mắt, trông hệt như một bức tranh của Rembrandt.
Yuzuki cũng cụp hàng mi dài của mình xuống, lặng lẽ cầu nguyện.
13
Từ ngày 18 tháng 10, vòng chung kết của cuộc thi đã bắt đầu.
Tôi lúc thì nghe cùng Yuzuki, lúc thì nghe một mình. Tiết mục biểu diễn là『Piano Concerto No. 1, Op. 11』hoặc『Piano Concerto No. 2 Op.21』. Họ sẽ biểu diễn cùng Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Warszawa. Nhạc trưởng là Jacek Kaspszyk . Hầu hết các thí sinh vào chung kết đều chọn bản số 1, nên tôi đã phải nghe đi nghe lại cùng một bản nhạc rất nhiều lần. Thế nhưng, quả đúng là những người đã vượt qua vòng loại, màn trình diễn nào cũng tuyệt vời, và tôi đã say sưa lắng nghe khoảng bốn mươi phút biểu diễn của mỗi người.
Thật không ngờ, tôi đã tình cờ gặp được Martha Argerich ngay tại hội trường và còn xin được chữ ký của bà.
“Cảm ơn bà.”
Tôi đã nói câu đó với tất cả lòng ngưỡng mộ. Bà mỉm cười rạng rỡ.
Yuzuki gần như dành toàn bộ thời gian một mình, có vẻ như cô ấy đang nâng cao sự tập trung. Và rồi cuối cùng, ngày 20 tháng 10, bảy giờ năm mươi phút tối── ngày cuối cùng, người biểu diễn cuối cùng, chính là Yuzuki.
Cô ấy xuất hiện trong một chiếc váy màu đỏ. Những tràng pháo tay nồng nhiệt vang lên chào đón. Yuzuki bắt tay với concertmaster và người bè trưởng bên cạnh, cúi chào khán giả rồi ngồi xuống trước cây đàn piano.
Và rồi── cô hít một hơi thật sâu.
Cô giao ánh mắt với nhạc trưởng và gật đầu.
Buổi biểu diễn, bắt đầu──
Bản nhạc Yuzuki chọn là『Piano Concerto No. 1, Op. 11』── Phần trình bày do dàn nhạc biểu diễn, piano vẫn chưa vào. Yuzuki lặng lẽ cụp mắt, nhìn chăm chú vào bàn phím. Tôi còn căng thẳng đến mức sắp không chịu nổi. Khoảng bốn phút rưỡi sau, âm thanh đầu tiên của cây đàn piano cuối cùng cũng vang lên. Một hợp âm fortissimo chói lọi──
Từ đó trở đi, tất cả đã là thế giới của Yuzuki. Những nốt trầm phong phú và những nốt cao trong trẻo như những viên bi thủy tinh được mài giũa đã khắc họa một cách tuyệt vời chất thơ của Chopin. Biểu cảm của Yuzuki, chuyển động của những ngón tay, cách cô đạp pedal, từng cử chỉ, từng hành động đều khiến người ta không thể rời mắt──. Thậm chí tôi còn có ảo giác rằng dàn nhạc đã lùi hẳn về phía sau làm nền, chỉ để lại một mình Yuzuki.
Giai điệu ngọt ngào vang lên. Cây đàn piano đang cất tiếng hát──
Tôi cảm thấy như thể Yuzuki và cây đàn piano là một sự tồn tại duy nhất, không thể tách rời. Như thể một giấc mơ đẹp đẽ đang tấu lên bản nhạc.
Định mệnh, đang vang lên──
Giống như khi tôi gặp Yuzuki. Không, tôi cảm nhận điều đó còn mạnh mẽ hơn thế nữa. Chẳng hiểu sao, nước mắt tôi cứ trực trào ra. Đó là một màn trình diễn đẹp đến nhường vậy. Không còn nghi ngờ gì nữa, Yuzuki sẽ giành chiến thắng. Tôi đã tin chắc như thế.
──Đó là vào khoảng bốn phút trước khi chương đầu tiên kết thúc.
Khi đoạn nhạc kịch tính và tuyệt đẹp, tựa như lao thẳng xuống từ một con dốc cao, tựa như những gì đã vun đắp sụp đổ, tựa như hiệu ứng domino, đang được tấu lên.
Tiếng đàn piano, biến mất──
Tiếng xôn xao nổi lên. Có tiếng hét thất thanh. Dàn nhạc cũng vấp váp rồi dừng lại.
Tôi mở bừng đôi mắt đang nhắm nghiền──
Yuzuki, với đôi mắt hạnh nhân mở to, đang nhìn chằm chằm vào tay mình.
Ngón áp út, của bàn tay trái──
Nó đã gãy lìa ngay giữa đốt thứ nhất và đốt thứ hai, lăn lóc trên phím đàn.
Yuzuki mang vẻ mặt không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chẳng mấy chốc, gương mặt cô tái mét như người chết. Khuôn mặt xinh đẹp méo mó như thể đã rạn nứt.
Yuzuki thét lên một tiếng kinh hoàng. Nhạc trưởng hành động. Ông nhặt ngón tay rơi trên phím đàn bỏ vào túi áo ngực, rồi ôm vai Yuzuki dìu cô vào cánh gà. Một sự hỗn loạn và náo động khủng khiếp đã xảy ra. Có người lấy tay che miệng khóc nức nở. Còn tôi, quên cả chớp mắt, ngồi chết lặng trong trạng thái bàng hoàng, suy sụp.
Khoảnh khắc đó, tôi đã nhìn thấy mặt cắt của ngón áp út của Yuzuki.
──Nó trắng toát.
Tôi biết điều đó có ý nghĩa gì. Yuzuki cũng đã mắc phải căn bệnh muối hóa──
Yevgeny Onegin (tiếng Nga: Евгений Онегин; tiếng Anh: Eugene Onegin) là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ của đại thi hào A.S.Pushkin, được viết từ 1823 đến 1831. Đây là tác phẩm được đánh giá cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của A.S.Pushkin và có nhiều ảnh hưởng tích cực trong sự phát triển của văn học - nghệ thuật Nga ở các giai đoạn sau. Nikolay Vasilyevich Gogol (tiếng Ukraina: Микола Васильович Гоголь / Mykola Vasylovych Gogol, tiếng Nga: Николай Васильевич Гоголь / Nikolay Vasilyevich Gogol, tiếng Ba Lan: Nikołaj Wasiljewicz Gogol / Nikolaj Wasiljewicz Gogol; 01 tháng 4, 1809 - 04 tháng 3, 1852) là một văn sĩ, thi sĩ, kịch tác gia và phê bình gia người Nga gốc Ukraina - Ba Lan. "Câu chuyện Ivan Ivanovich cãi nhau với Ivan Nikiforovich" (tiếng Nga: «Повесть о том, как поссорился Иван Иванович с Иваном Никифоровичем», chuyển tự Povest' o tom, kak possorilsja Ivan Ivanovič s Ivanom Nikiforovičem, 1835), là câu chuyện cuối cùng trong tuyển tập Mirgorod của Nikolai Gogol. Được biết đến như một trong những câu chuyện hài hước nhất của ông. Bố già (tiếng Anh: The Godfather) là tên một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Mỹ gốc Ý Mario Puzo, được nhà xuất bản G. P. Putnam's Sons xuất bản lần đầu vào năm 1969. Sonata (Tiếng Ý: [soˈnaːta]; sonate, sonare) là một thuật ngữ chỉ định một loạt các hình thức sáng tác, đến thời kỳ cổ điển có tầm quan trọng ngày một tăng và đầu thế kỷ 19 đại diện cho một nguyên tắc sáng tác các tác phẩm quy mô lớn. Sau thời kỳ Baroque hầu hết các tác phẩm được thực hiện bởi một nhạc cụ độc tấu, thường là một nhạc cụ chính (solo), hoặc bởi một nhạc cụ độc tấu (solo) đi kèm với một nhạc cụ phụ họa. Fantasia là một tác phẩm âm nhạc có nguồn gốc từ nghệ thuật ngẫu hứng vì vậy hiếm khi có các quy tắc chặt chẽ. Thuật ngữ này lần đầu tiên được áp dụng cho âm nhạc trong suốt thế kỷ 16, ban đầu để đề cập đến vở nhạc kịch "ý tưởng" giàu trí tưởng tượng chứ không phải là một thể loại thành phần cụ thể. Việc sử dụng sớm nhất của nó như là một tiêu đề là trong bản thảo về nhạc cụ phím tiếng Đức từ trước 1520 và 1536 được tìm thấy trong các bản in từ Tây Ban Nha, Ý, Đức và Pháp. Ngay từ đầu, fantasia được sáng tác đặc biệt cho đàn luýt hay vihuela của Francesco Canova da Milano và Luis de Milán. Vanxơ hay van (tiếng Đức: Walzer; tiếng Anh: waltz; tiếng Pháp: valse) là loại nhạc nhảy xuất phát từ châu Âu với nhịp ba. Waltz bắt nguồn từ "walzen" trong tiếng Đức cổ, nghĩa là "uốn", "xoay" hoặc "lướt đi", là một điệu nhảy trong khiêu vũ cổ điển và folk dance (nhảy dân gian), theo nhịp 3/4. Waltz ra đời ở ngoại ô thành Viên (Áo) và ở những vùng núi cao của nước Áo. Trong âm nhạc, nocturne là từ gốc tiếng Pháp (tiếng Việt: Dạ khúc) vốn lấy từ tiếng Latin "nocturnus", dùng để chỉ một thể loại âm nhạc lấy cảm hứng về ban đêm, có nhịp độ chậm rãi, giai điệu nhẹ nhàng và uyển chuyển, thường có tính chất mơ màng, đôi khi u buồn, gợi nhớ hoặc phù hợp với đêm khuya. Thể loại này được cho là xuất hiện vào thế kỷ XVIII,[4] mà nhà soạn nhạc người Ireland là John Field (1782-1837) là một trong những người đầu tiên phát triển từ năm 1814. Vladimir Ashkenazy có tên đầy đủ Vladimir Davidovich Ashkenazy (tiếng Nga: Влади́мир Дави́дович Ашкена́зи), là người Iceland gốc Nga, nhạc trưởng và là một trong những nghệ sĩ dương cầm xuất sắc nhất thế giới qua mọi thời đại. Nicolaus Copernicus (theo tiếng Latinh; tiếng Ba Lan: Mikołaj Kopernik) (19 tháng 2, 1473 – 24 tháng 5, 1543) là một nhà thiên văn học đã nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) trong cuốn sách mang tính mở đầu một kỷ nguyên của ông, cuốn Về sự chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium). Hoàng thân Józef Antoni Poniatowski (7 tháng 5 năm 1763 – 19 tháng 10 năm 1813) là một lãnh đạo Ba Lan, chỉ huy quân sự, bộ trưởng chiến tranh và là một thống chế Pháp. Chiến dịch Bagration (tiếng Nga: опера́ция «Багратио́н») là mật danh của chiến dịch Byelorussia - chiến dịch tấn công chiến lược mùa hè năm 1944 của quân đội Liên Xô, chính thức bắt đầu ngày 23 tháng 6 đến 29 tháng 8 năm 1944 trong Chiến tranh Xô-Đức. Mật danh này được lấy theo tên của Pyotr Ivanovich Bagration - một vị tướng đã chiến đấu và hy sinh trong cuộc chiến tranh năm 1812 giữa Đế quốc Nga và nước Pháp của Napoléon I. Bernardo Bellotto (khoảng 1721/2 hoặc 30 tháng 1 năm 1721 – 17 tháng 11 năm 1780), là một họa sĩ phong cảnh đô thị hay còn gọi là vedutista, và là nghệ nhân khắc bản khắc nổi tiếng người Ý với tác phẩm vedute về các thành phố châu Âu – Dresden, Vienna, Turin và Warsaw. Fazioli Pianoforti, dịch ra tiếng Việt là Fazioli Pianos, sản xuất đàn piano lớn và piano hòa nhạc tại nhà máy của họ ở Sacile, Ý. Công ty được thành lập bởi kỹ sư kiêm nghệ sĩ piano Paolo Fazioli vào năm 1981. Mazurka (tiếng Ba Lan mazurek, số nhiều mazurki) là một điệu vũ dân gian Ba Lan. Vũ điệu này trở nên phổ biến ở các vũ phòng châu Âu suốt thế kỉ XIX. Chính quốc ca Ba Lan cũng là một bản mazurka nhưng nhịp điệu chậm hơn thông thường. Rembrandt Harmenszoon van Rijn (15 tháng 7 năm 1606 - 4 tháng 10 năm 1669), thường được biết tới với tên Rembrandt hay Rembrandt van Rijn, là một họa sĩ và nghệ sĩ khắc bản in nổi tiếng người Hà Lan. Ông thường được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất trong lịch sử hội họa châu Âu nói chung và Hà Lan nói riêng. Các tác phẩm của Rembrandt đã đóng góp quan trọng vào Thời đại hoàng kim của Hà Lan thế kỉ 17. Jacek Kaspszyk (sinh ngày 10 tháng 8 năm 1952) là một nhạc trưởng người Ba Lan và là Giám đốc âm nhạc và nghệ thuật của Dàn nhạc giao hưởng quốc gia Warsaw từ năm 2013 cho đến khi kết thúc mùa giải 2018/2019. Năm 2012, ông được trao tặng Huy chương Elgar . Năm 2014, Jacek Kaspszyk đã giành được giải thưởng văn hóa của Gazeta Wyborcza , phụ trang "What is played" – "Inhale Audience" ở hạng mục "Người đàn ông của năm". Concertmaster (từ tiếng Đức Konzertmeister) là người chơi violin chính trong dàn nhạc (kèn clarinet hoặc oboe trong ban nhạc hòa tấu). Sau nhạc trưởng, concertmaster là người chỉ huy quan trọng nhất trong dàn nhạc, ban nhạc giao hưởng hoặc các nhóm nhạc khác. Fortissimo là một thuật ngữ trong động lực học âm nhạc có nghĩa là "chơi rất to". Tác phẩm Requiem được Wolfgang Amadeus Mozart sáng tác ở cung Re thứ (K. 626) trong năm 1791. Nó là tác phẩm cuối cùng và có thể được xem là một trong những tác phẩm mạnh mẽ và tiêu biểu nhất của ông.