Trans+Edit: Thepa
~~~~~~~~~~
1
Tôi sớm làm quen với việc cầm lái trong khi kéo xe ba bánh. Đây chẳng những là một con đường cao tốc công cộng vững vàng, mà còn là một con đường thẳng và phẳng với không một xe cộ nào. Mọi việc tôi cần làm là tránh phanh gấp và chú tâm đến bộ điều chỉnh gia tốc. Những gì tôi không làm quen được là chia sẻ sự im lặng của mình với cô gái vừa mới gặp mặt này.
Vài tiếng sau khi lên đường, chúng tôi vẫn đang tuyệt vọng lần mò một chủ đề để chuyện trò. Hai người về cơ bản chỉ là hai nhà lữ hành bị xô tới nhau bởi hoàn cảnh, và không ai trong hai người đều từng gần gũi với người khác. Thế là, cuộc hội thoại giữa chúng tôi bị ấp úng, và cả hai rơi vào một khoảng im lặng khó xử trong nuối tiếc.
Tất cả những gì tôi có thể làm là hy vọng khoảng im lặng ấy sẽ đỡ hơn trong tương lai. Cho tới khi ấy, chúng tôi đã nghỉ chân nhiều hơn để thoát khỏi cảm giác ngột ngạt vì bị kẹt cùng nhau. Tôi chẳng chắc chắn liệu Nito có bắt kịp luồng suy nghĩ của mình không, nhưng bản thân có cảm giác rằng cô ấy có lẽ sẽ đồng tình nếu tôi nói ra thành lời.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến một ngã ba trên đường, và tôi dần dần tạm dừng Kettle lại. Trên một gò đá nhỏ ở giữa ngã ba, có một cọc gỗ được gắn biển kim loại và đứng nghiêng về một bên. Thế nhưng nó lại có một lớp gỉ sét dày bên ngoài, đến nỗi Nito còn không đọc được.
Một cái liếc thoáng qua đồng hồ của tôi cho thấy hiện đã gần đến chiều. Các đám mây bao phủ trên những ngọn núi được nhuốm một màu cam vàng ở dưới đáy. Thay vì hốt hoảng bởi màn đêm tới gần, tốt nhất nên chuẩn bị cho nó: chúng tôi cần nhanh chóng sửa soạn trại. May thay, có một không gian phẳng ở bên lề đường.
“Đêm nay hãy cắm trại ở đây,” tôi đề xuất.
“Được thôi.”
Tôi lái xe lên trên khoảng đất phẳng và ngừng động cơ trước khi mở cửa. Một làn gió nhẹ thổi qua, mang theo hương thơm thoang thoảng và cái se lạnh của mùa xuân, cùng với dấu hiệu ám chỉ mùa hè đang tới gần của hơi nóng. Những ngọn đồi màu xanh nhấp nhô xung quanh chúng tôi, dải sóng của chúng bị cắt lìa bởi những hòn đảo nổi có màu vàng nâu của đá và những bãi cát trắng trải dài. Đằng xa là vài bụi cây màu xanh thẫm, nhưng vẫn không một nhà cửa hay đèn đường. Một khi màn đêm buông xuống, khu vực sẽ trở nên tối đen như mực.
Tôi bước xuống chiếc xe và quay sang nói với Nito. Cả hai tay của cô dựa trên cánh cửa đang mở, còn mí mắt thì hơi khép xuống khi cô đăm chiêu nhìn ra ngoài cảnh vật. Tôi chưa từng dùng cụm từ “sự ảnh hưởng dễ xúc động” trước đây, song giờ đây Nito thực sự đang là hiện thân của nó. Nụ cười nhạt nhòa trên môi của cô quả thực xứng đáng với mô tả ấy.
Đối với tôi, cảnh vật trước mắt hai người chẳng là gì. Ngay cả tôi—người ở trong thế giới này chưa đầy một năm—cũng thấy mệt mỏi vì cảnh tượng này. Con đường kéo dài, núi đồi chia cắt phong cảnh, và mặt trời mọc rồi lặn—khiến bầu trời rừng rực bởi ánh sáng. Đấy, chỉ có thế thôi. Mọi thứ khác đều chỉ biến đổi thành pha lê và tạo nên những bãi cát trắng.
“Cô thấy gì đó bất thường ngoài kia à?” Tôi hỏi cô ấy.
Một biểu cảm dịu dàng còn đọng lại trên khuôn mặt của cô khi cô trả lời.
“Tôi nghĩ là màu sắc ấy thật đẹp đẽ. Đến nỗi khiến tôi khó để tin rằng thế giới đã chết.”
Tôi xem xét từ “màu sắc” của Nito và nhìn ra ngoài lần nữa. Tôi đồng tình là nó đẹp, song lại chẳng thể cảm thấy gì khác. Có lẽ đó là một bản chất cảm quan của những họa sĩ, hoặc là tính nhạy cảm mà riêng họ sở hữu. Tôi cảm thấy gần như thể cô ấy đang nhìn một thế giới khác so với mình. Tôi chẳng hiểu nổi, nhưng thế giới ấy hẳn là một thế giới tràn ngập sắc đẹp.
Tôi bận tâm về việc dựng trại hơn là ngắm nhìn hoàng hôn. Nếu tôi đứng không cho tới khi ánh sáng màu đỏ phai đi, thì bản thân sẽ bị kẹt trong cảnh tối tăm. Tôi lôi một hộp dụng cụ cắm trại bằng gỗ, cùng với ba lô và tấm bạt ra khỏi ghế sau. Một cái nhìn tổng quát quanh khu vực không cho thấy dấu hiệu nào của đá hay cây bụi. Tôi quyết định dựng lều ngay trước Kettle. Trong trường hợp cấp bách, chúng tôi có thể dùng đèn pha của Kettle để soi sáng.
“Ùm,” Nito nói, “để tôi làm gì đó với.”
Trong khi tôi dựng lều, Nito tới gần để giúp. Tôi từng trơ trọi suốt quãng thời gian đi lại trong thế giới này, nên việc dựng trại cùng sự giúp đỡ là một trải nghiệm mới lạ. Hai người làm việc trong yên lặng được một lúc, cho tới khi tôi lên tiếng.
“Căn lều khá nhỏ…” Tôi nói, khiến Nito quay mặt lại nhìn tôi—cô đang ngồi xổm bên trong mái lều. “Nhân tiện, tôi có một câu hỏi.”
“Là gì?” Cô hỏi.
“Cho đến giờ, cô đã ngủ như thế nào vậy?”
“Tôi ngả ghế ra sau và ngủ trong xe của mình.”
(Phải rồi, việc ấy khả thi do bởi cô ấy quá nhỏ.)
“Tôi chỉ có một căn lều, còn xe của cô có thịt trên ghế, thế… cô muốn ngủ ở đâu?”
Đầu cô thò ra khỏi lều và cô nghiêm nghị ngước nhìn tôi.
“Còn… nơi nào khác không?”
Tôi chỉ vào lều mà cô đang ngồi, và sau đó vào Kettle. Ghế sau khá rộng, sẽ hoàn toàn trống trải nếu không có hộp và ba lô. Bản thân tôi thường ngủ như vậy, nhất là vào những ngày mưa.
Nito nhìn xung quanh mặt trong của lều, rà soát sàn và mái của nó trước khi lên tiếng với một cái nhìn u ám trên khuôn mặt.
“Bố cục này… thật ảm đạm…”
“Tôi sẽ xin lỗi cho điều đó nếu cô muốn?”
Cách mà cô ta nói nghe như cô đang khiển trách tôi vì tình trạng của đồ đạc vậy.
“Đùa tí. Căn lều đáng sợ lắm, nên tôi thích xe hơn,” cô ung dung nói cũng như ra khỏi lều.
Bầu trời rực đỏ bắt đầu phai dần thành màn đêm màu chàm, một vài ngôi sao hiện lên khắp khoảng ấy. Cô ngước nhìn và bật ra một âm thanh hớn hở nhẹ nhàng, có phần phấn khích.
2
Vật đầu tiên ra khỏi ba lô của tôi là một khung lửa hình lục giác. Nito và tôi đã lụm được một bó cành, và tôi nhóm chúng bằng diêm. Một khi chúng cháy, tôi bỏ vài viên mana vào. Viên đá đen tuyền, lộng lẫy như đá quý—thường giúp nạp nhiên liệu cho xe. Thế nhưng, khi bị bỏ vào lửa, chúng trở thành một vật thay thế than củi khá hiệu quả.
Bất chợt, tôi để ý đến Nito đang hiếu kỳ ngước nhìn mình.
“Keisuke, mọi người trong thế giới của anh sống ở bên ngoài à? Giống như du mục ấy?”
“Ờ, không, bọn tôi không…?”
“Thế tại sao các dụng cụ dành cho việc ấy của anh lại tiên tiến đến vậy?” Nói rồi, Nito chỉ vào chiếc bàn trà gấp mà tôi đã xếp. “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một chiếc bàn vừa có thể được cất trong một không gian nhỏ, vừa có thể được vác một cách dễ dàng. Tôi chưa từng đọc về nó trước đây.”
“Tiện lợi, phải không?” Tôi hỏi cô.
“Tôi chả hiểu,” cô thừa nhận sau một hồi. “Công dụng của nó rất hạn chế, vậy tại sao ai đó lại bận tâm tạo ra một thứ đắt tiền đến thế?”
Cô há mồm và sau đó hỏi tiếp. “Keisuke, lẽ nào, anh giàu trong thế giới của mình sao?”
Tôi bất đắc dĩ mỉm cười, ngạc nhiên vì ai đó quan niệm như vậy.
“Không đâu mà. Tôi chỉ là một học sinh. Hơn nữa, tất cả đều không đắt đến vậy đâu.”
“Thế giới của anh thật tuyệt…” cô nói, chọt vào chiếc bàn thép không gỉ.
“Vậy á? Tôi đoán nó tuyệt vời khi cô suy nghĩ theo lối đó, rằng bọn tôi tạo ra đồ với công dụng hạn chế và mua được với giá cả phải chăng,” tôi nghĩ ngợi, sau đó đưa cho cô một cái thớt và một con dao gấp. “Này, cô giúp tôi nấu ăn đi.”
Cô say mê nhìn vào dụng cụ và chúng tôi bắt đầu. Rốt cuộc, cả hai nấu ra một bữa ăn ngon tuyệt. Vốn nhờ vào phần lớn chỗ nguyên liệu mà hai người nhận được từ Vandyke, cùng với quá trình góp sức của Nito. Chúng tôi còn có nước sốt bán sương đóng hộp kèm với thịt sống. Lý do duy nhất tôi tìm ra nước sốt là vì Nito đọc dùm nhãn mác. Việc trộn rau với thịt và sốt cho ra một món bò hầm, và Nito đã ăn nó rất nhiều với một nụ cười trên khuôn mặt.
Chúng tôi dùng thùng phuy đựng nước để rửa tay và đánh răng, sau đó chuyển sang một chiếc khăn ẩm ướt để lau mặt và người thay vì tắm. Tiếp đến, sau khi thu dọn xong, buổi tối của chúng tôi bỗng hoàn toàn rãnh rỗi.
Trong khi Nito và tôi ngồi đối diện nhau, tôi thêm củi vào lửa. Chúng tôi vẫn chưa có loại quan hệ mà hai người có thể cười đùa cùng nhau, và hiện vẫn còn quá sớm để đi ngủ. Mừng thay, tôi đã tìm ra một cách để phá vỡ sự im lặng trước khi nó trở nên ngột ngạt—ngã ba trên đường ở trước mặt chúng tôi.
“Chúng ta sẽ đi đâu từ đây?” Tôi hỏi.
Mỗi người chúng tôi đều có một đích đến cuối cùng trong đầu. Nếu chúng tôi biết con đường nào dẫn đến đích ấy, thì cả hai sẽ không do dự mà chọn nó, nhưng không ai trong hai người biết gì. Từng ngày một, chúng tôi phải quyết định lối nào để đi.
“Keisuke,” cô hỏi sau một hồi, “anh biết gì không?”
Tôi lắc đầu. Suy cho cùng, tôi từng hoàn toàn lạc đường cho tới vài ngày trước.
“Thế nhưng tôi lại có một tấm bản đồ,” tôi nói thêm.
“Bản đồ?”
Tấm bản đồ rốt cuộc lại bị lẫn lộn với mọi thứ khác trong hộp gỗ vào lúc tôi thu dọn. Tôi lục và chìa tấm bản đồ tới Nito, giăng ra bằng cả hai tay. Ánh lửa bập bềnh trên mặt dưới của tờ giấy khi cô cầm nó.
“Hử, đây là bản đồ của khu vực mà,” Nito nói, chăm chú nghiên cứu nó. Lúc làm xong, cô quay sang tôi với một biểu cảm hết sức nghiêm nghị trên khuôn mặt. “Nếu anh không phiền, tôi muốn đi tới Barcia.”
“Và Barcia là…?” Tôi hỏi tiếp.
“Là một thành phố ngay trước cây cầu được khoanh tròn này. Đấy là nơi tôi nhắm đến ngay từ ban đầu.”
Tôi nhìn vào tấm bản đồ vào lúc cô đưa lại cho tôi. Quả thực, có một vài ngôi nhà nhỏ được vẽ ở hạ lưu của cây câu, đúng như nơi cô ấy đã nói.
“Tôi không phiền đâu, nhưng có điều gì đặc biệt ở đấy à?”
“Barcia có một phù thủy.”
“Phù thủy ư?”
(Đoán chừng chúng ta giờ đang ở trong một câu truyện cổ tích.)
“Tôi chẳng biết thế giới của anh coi phù thủy ra sao, nhưng ở đây họ là những người được thừa kế phép thuật cổ đại. Họ thường xuất hiện trong truyện thiếu nhi.”
“Họ thực sự tồn tại ư?”
“Chắc là vậy. Ít ra ai cũng tin là họ có.”
“Cô không nghĩ nó hơi mơ hồ à?” Tôi hỏi.
“Chà… Tôi chưa từng gặp họ…” Cô thừa nhận cùng một nụ cười buồn rầu, khiến tôi chẳng thể đào sâu thêm.
Tôi nhìn xuống lại tấm bản đồ. Tôi đã tìm được nó ở trong chiếc xe tải bên lề ấy. Con đường duy nhất bị đánh dấu trên bản đồ, để đến thành phố và cây cầu, là con đường đi ngang qua nhà ga và vượt qua ngọn núi. Tôi suy nghĩ liệu người tài xế xe tải kia có đang định đi gặp phù thủy hay không, nhưng tôi nhanh chóng nghĩ lại. Trong khi bức vẽ thành phố của người tài xế gấp gáp—hầu như là một bức mà nảy ra quá muộn, người ấy đã cẩn thận vẽ cây cầu, tỉ mỉ vẽ các đường nét và sau đó khoanh tròn nó nhiều lần. Có một sự khác biệt rõ rệt về tầm quan trọng của mỗi địa điểm mà người tài xế ấy đã dành vào.
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ta gặp phù thủy?” Tôi hỏi cũng như gấp lại tấm bản đồ.
Nito chống cằm mình lên đầu gối và khom người lại, nhìn xuống ngọn lửa.
Củi nứt.
“Phù thủy,” cô từ từ nói, “sẽ trả lời chính xác bất kỳ câu hỏi nào. Nhưng chỉ một lần.”
“Tại sao?”
“Tại sao cái gì?” Cô hỏi ngược lại, biểu cảm bối rối của cô ấy khiến tôi bối rối theo.
Nito ngưng.
“Tôi tự hỏi tại sao,” cô rốt cuộc cũng nói với một nếp nhăn trên lông mày. “Tất cả những gì tôi có thể cho anh biết là điều đó luôn là như vậy. Mọi phù thủy trong truyện luôn trả lời câu hỏi của khách.”
“Hmm. Chà, nếu họ được gọi là phù thủy, họ có thể dùng ma thuật không?”
“Nói đúng ra, thứ đó được gọi là phép thuật. Nó từng tồn tại cho tới hai trăm năm trước, rồi suy tàn kể từ sự tiến bộ của công nghệ hơi nước. Nghe nói phép thuật rất khó để học.”
(Phép thuật suy tàn cùng sự tiến bộ của khoa học…) Đó là một quan niệm đáng buồn.
“Tôi… muốn được thấy phép thuật” Tôi thừa nhận.
“Tôi cũng vậy.” Nito bâng khuâng mỉm cười. “Thế nhưng ai ai cũng vậy. Có hàng đống sách lấy bối cảnh khi phép thuật vẫn còn tồn tại để sử dụng nó như một phần của câu chuyện.”
“Tôi tự hỏi liệu phù thủy có cho chúng ta xem tí phép thuật nếu ta hỏi không nhỉ?”
“Tôi không biết nữa. Tôi chưa từng nghe ai thử.”
“Vậy, thế thì tới Barcia thôi. Tôi sẽ hỏi cô ta.”
“Tôi cũng sẽ hỏi!”
Cô giờ đây hăng hái hơn rất nhiều khi hai người có một điểm đích trong đầu. Cảm giác phấn khích ấy là một thứ tôi chưa từng cảm nhận được từ xưa nay.
“Cô có thắc mắc muốn hỏi cô ta mà?” Tôi chất vấn.
Câu hỏi ấy là do lỡ lời, một câu mà tôi chỉ hỏi do bởi hai người đang trong sự cao hứng. Tôi quyền rủa bản thân ngay khi lời lẽ ấy rời khỏi môi mình, lo lắng vì lẽ ra không nên hỏi bất kỳ chuyện gì cá nhân. Nito cân nhắc lời lẽ của mình được một lúc trước khi gật đầu.
“Tôi muốn hỏi liệu Golden Sea có tồn tại không.”
“Có phải đó là nơi không có trên bất kỳ bản đồ nào mà cô đã nói không?”
Tôi đoán đó có lẽ là nơi mà cô ấy đã nói rằng mình đang tìm kiếm, vào lúc cả hai còn ở nhà của Vandyke. Nito kéo ra một cuốn sổ cỡ chừng lòng bàn tay và mở đến một trang cụ thể trước khi chìa tới tôi. Tôi cầm lấy nó và nhìn vào trang giấy: đa phần bề mặt được bao phủ bởi một bức tranh bắt mắt, toàn bộ đều bằng màu sắc của vàng.
Xung quanh chúng tôi tương đối tối, chỉ với ánh lửa dịu để nhìn, tức là khó để tôi thấy rõ bất kỳ thứ gì trong bức tranh. Dựa vào những gì tôi có thể kể lại, bức tranh dường như là một vùng biển. Người họa sĩ đã vẽ nó từ bên trên, nhìn ra từ một công trình nhỏ tựa nhà thờ ở chỏm của một vách đá. Góc bên phải có một chữ ký ẩu.
“Mẹ tôi luôn nói về nơi ấy, rằng nó là nơi đẹp nhất trên thế gian.”
(Chà, đó là một sự phóng đại.)
“Xem sơ qua đi,” cô bảo tôi.
Tôi làm như yêu cầu của cô ấy và lật thoáng qua các trang giấy. Cuốn sổ chứa một lượng tranh phong phú: nào là cảnh quan thành phố và phong cảnh, nào là động vật và tháp đồng hồ… Toàn bộ chúng đều là màu nước sặc sỡ. Nó về cơ bản là một quyển sách sưu tầm tranh ảnh.
“Bà ấy đã đi đây đó và vẽ khi còn nhỏ. Còn rất nhiều cuốn sổ khác nữa. Bà đã tìm thấy Golden Sea khi còn trong chuyến hành trình của mình.”
“Thế à. Vậy bả từng đi lại khắp thế gian và nghĩ rằng đó là nơi đẹp nhất. Nghe thuyết phục hơn rồi đấy.”
Tôi lên tiếng đồng thời ngưng lật các trang sách. Có một hình ảnh rất đỗi quen thuộc. Tôi nhích về phía ngọn lửa để tới gần ánh sáng hơn.
“Đây là cái nhà ga ấy ư?”
Bức tranh cho thấy một nhà ga màu trắng lơ lửng trên một bể nước. Những đám mây trắng thì lơ lửng trên bầu trời trong xanh, song lại chỉ là hình ảnh phản chiếu của nó. Bầu trời đích thực chẳng có màu sắc nào của mình. Bố cục gợi lên và giữ được cảm giác mà bạn có khi ở tại nhà ga—cảm giác đứng với bầu trời dang rộng ở dưới chân.
“Nhà ga ấy là cùng một nơi,” cô bảo tôi với một nụ cười. “Tôi đang tìm kiếm những nơi bà ấy đã vẽ, đi tới từng nơi, và thử tái tạo tranh của bà.”
Một chốc của sự yên lặng nằm giữa chúng tôi.
“Cô hẳn rất yêu quý bả,” tôi nói.
Lời lẽ ấy chẳng phải chủ ý, bởi tôi chỉ nói ra những từ ngữ ngay khi chúng hiện lên trong đầu. Có lẽ đó là do sự khinh suất của tôi. Mặt cô ấy lộ rõ một vẻ đau khổ, nhưng nó nhanh chóng được thay bằng một nụ cười. Nụ cười ấy là của một người đã làm quen tốt với việc chịu đựng nỗi đau, của một người chẳng biết điều gì khác trong cuộc sống.
Tôi chẳng biết liệu bản thân nên xin lỗi hay dò sâu hơn, nên tôi quyết định giữ im lặng. Mọi điều tôi nói có lẽ sẽ thành thừa thãi. Tôi khép và trả lại cuốn sổ.
“Vậy tạm thời hãy tới Barcia đi. Chúng ta sẽ gặp phù thủy và hỏi câu hỏi của mình. Chúng ta có thể khởi hành vào ngày mai.”
Nito gật đầu. Giờ đây chúng tôi chẳng còn gì để chuyện trò, và tâm trạng đột ngột trở nên xấu đi. Cả hai đều đứng dậy. Tôi lấy đèn bão từ ba lô và dẫn Nito tới Kettle. Hai người nhét hết hành lý vào trong chỗ để chân ở phía sau và xẹp hai ghế xuống, trước khi giăng chăn lên trên chúng để làm một chiếc giường ngẫu hứng. Nito tháo giày và trèo lên trên ghế, vỗ nhẹ để xem chiếc giường thoải mái ra sao khi ngủ.
“Coi như cô sẽ ổn?” Tôi hỏi cô.
“Chắc là vậy.”
“Vậy thì, ngủ ngon.”
“Ừ, chúc ngủ ngon.”
Tôi đóng cửa và quay lại lửa trại. Tôi ngồi xuống tấm bạt và rút điện thoại ra khỏi một chiếc túi trong ba lô. “17 tháng Mười, 4:19”—thời gian chắn chắn đang trôi ở thế giới kia, nhưng hẳn là theo một tốc độ khác so với nơi đây. Tôi cắm cáp sạc vào điện thoại và sau đó vào đèn bão, trước khi bắt đầu xoay cái cán nhỏ của đèn. Xoay rồi, biểu tượng sạc pin xuất hiện trên điện thoại.
Nito sẽ hỏi phù thủy—người trả lời chính xác một câu hỏi duy nhất—về Golden Sea. (Mình thì hỏi gì nhỉ? Có vẻ như mình chỉ có một cơ hội.) Tôi vặn óc cũng như điện chạy vào trong điện thoại, song lại chẳng nghĩ ra nổi câu nào tử tế. Có một núi điều đúng như tên gọi mà tôi muốn hỏi, nhưng những điều tôi thực sự muốn được giải đáp lại là một chuyện khác.
Tôi ngừng xoay cán, sau đó mở khóa điện thoại và mở nhật ký cuộc gọi. Nó chứa đầy những cuộc gọi mà chẳng kết nối được tới người nào. Tôi đã nằm ngoài vùng phủ sóng kể từ lúc đến đây, nên hiển nhiên bất luận gọi ai, đường truyền vẫn không khi nào kết nối. Suy cho cùng, sóng vô tuyến không với tay giữa những thế giới.
Dẫu vậy, tôi với ngón tay ra để nhấn vào một cổng được đọc là “Home.” Sau đó tôi kéo ba lô vào trong lòng và đặt điện thoại bên tai, nhắm mắt lại. Bóng dáng của lửa chập chờn khắp mí mắt tôi.