Lord of Mysteries

Chương kế tiếp:

Truyện tương tự

Masho no Otoko wo Mezashimasu

(Đang ra)

Masho no Otoko wo Mezashimasu

立花

Dù cho Kohaku chỉ hành động thật bình thường, những người xung quanh vẫn bị anh quyến rũ!? Một câu chuyện hài học đường sẽ được kể bởi một kẻ chuyển sinh!

89 6013

Amagi Brilliant Park

(Đang ra)

Amagi Brilliant Park

Gatou Shouji

Cô gái đó nói với cậu rằng: "Em muốn anh trở thành người quản lý của Amagi Brilliant Park này."

4 48

Kẻ theo đuổi hình tượng phản diện như tôi được chuyển sinh thành nhân vật mình thích

(Đang ra)

Kẻ theo đuổi hình tượng phản diện như tôi được chuyển sinh thành nhân vật mình thích

Takano Kei

Câu chuyện fantasy về hành trình chuyển sinh để giải cứu nhân vật yêu thích bắt đầu.

4 103

Khát Vọng Trỗi Dậy

(Đang ra)

Khát Vọng Trỗi Dậy

Ro Yu Jin (로유진)

Kết quả là chết một cách thảm bại - nhưng một vị nữ thần đã gửi đi hình ảnh của tương lai khủng khiếp này cho chính anh trong quá khứ, có được kiến thức rằng mình sẽ trở nên như nào, liệu cậu ta có th

9 362

Tập 02 - Tên Hề (2) - Chương 19: Ngôi Nhà Mục Tiêu

Translator: Kouji

✫ ✫ ✫

Số 2 phố Hoa Thủy Tiên, thành phố Tingen.

Sau khi để lại giấy nhắn, Klein khóa cửa rồi sải bước về phía Leonard Mitchell đang đợi bên kia đường.

Mái tóc đen ngắn của Leonard đã dài hơn một chút so với tháng trước. Vì không được chăm sóc đúng cách nên trông nó rối bù.

Dù vậy, gương mặt điển trai, đôi mắt xanh ngọc bích cùng khí chất thi sĩ vẫn giúp anh ta có một vẻ đẹp dị biệt.

“Quả nhiên, mặt đẹp thì để kiểu nào cũng được.”

Klein thầm mỉa, chỉ hướng phố Chữ Thập Sắt và hỏi: “Frye đang đợi chúng ta ở đó à?”

“Ừ.” Leonard chỉnh phần áo sơ mi không sơ vin, như thuận miệng hỏi: “Anh tìm được manh mối nào từ tư liệu không?”

Klein chống gậy bằng tay trái, bước dọc theo con đường và nói: “Không. Tôi không tìm được quy luật nào trong thời gian, địa điểm hay nguyên nhân tử vong cả. Anh biết đấy, mấy nghi lễ liên quan đến Tà thần hay ác ma nhất định phải được tiến hành trong khung giờ cụ thể hoặc theo cách thức đặc biệt nào đó.”

Leonard chạm vào khẩu súng đặc chế giấu dưới lớp áo sơ mi bên hông, cất tiếng cười khẽ: “Điều đó không phải tuyệt đối đâu. Theo kinh nghiệm của tôi, một số Tà thần hoặc có thể gọi là ác ma rất dễ thỏa mãn, chỉ cần Nó cảm thấy hứng thú với những gì sẽ xảy ra tiếp theo là được. Vả lại, tôi dám chắc rằng một phần trong các chết này là trường hợp bình thường. Chúng ta phải gạt phần đó sang một bên thì mới tìm được câu trả lời chính xác.”

Klein liếc sang anh ta: “Vậy nên đội trưởng mới yêu cầu chúng ta điều tra một lần nữa, để loại trừ những sự cố bình thường.

“Leonard này, cái cách anh nói cho tôi biết rằng anh rất có kinh nghiệm trong những vụ tương tự. Nhưng anh trở thành Kẻ Gác Đêm chưa được bốn năm, bình quân mỗi tháng chỉ gặp không quá hai trường hợp siêu phàm, mà đa số là những vụ đơn giản và dễ giải quyết.”

Klein luôn cảm thấy người đồng đội Leonard Mitchell có chút kỳ quái và thần bí. Anh ta không ngừng nghi ngờ anh, cho rằng anh rất đặc biệt mà còn hay tự lẩm bẩm một mình. Tính cách lúc thì kiêu ngạo, lúc thì tùy tiện, có khi lại trầm lặng.

Chẳng lẽ mình đã khiến anh ta cảm thấy mình là kỳ ngộ mà nhân vật chính trong mấy vở kịch hay gặp được à? Klein đã liên kết những kiến thức phong phú về phim ảnh, tiểu thuyết và phim truyền hình của bản thân với nhau để đưa ra một suy đoán sơ lược.

Trước thắc mắc ấy, Leonard cười đáp: “Tại anh còn trong giai đoạn huấn luyện chứ chưa tiến vào trạng thái Kẻ Gác Đêm thôi. Cứ sáu tháng một lần, Thánh Đường sẽ chỉnh lý những vụ án siêu phàm thành sách, cũng căn cứ vào sự khác biệt của mức độ bảo mật để xóa giảm một số chi tiết nhất định trong mỗi phiên bản khác nhau, sau đó phát cho từng thành viên tương ứng. Ngoài chương trình thần bí học, anh còn có thể nộp đơn xin đội trưởng cho phép tiến vào Cổng Chianese để mượn đọc những hồ sơ vụ án tương tự từng xảy ra trong quá khứ.”

Klein sửng sốt trước khi gật đầu bảo: “Đội trưởng chưa bao giờ đề cập chuyện này với tôi.”

Cho đến giờ anh vẫn chưa tiến vào Cổng Chianese lần nào.

Leonard cười khẽ: “Tôi tưởng anh biết rõ đội trưởng có phong cách thế nào rồi chứ. Không ngờ anh lại dại đến nỗi chờ ông ấy nhắc nhở.”

Đoạn, anh ta nói một cách đầy ẩn ý: “Chừng nào đội trưởng cái gì cũng nhớ, không quên gì hết thì lúc đó chúng ta sẽ cần đề cao cảnh giác đấy.”

Có nghĩa là mất khống chế? Klein trịnh trọng gật đầu rồi hỏi ngược lại: “Đây là phong cách riêng của đội trưởng sao? Tôi cứ nghĩ đó là vấn đề chung của ‘Kẻ Không Ngủ’.” Kiểu như thức đêm nhiều gây suy giảm trí nhớ.

“Đúng hơn thì đó là phong cách chỉ ‘Ác Mộng’ mới có. Sự đan xen giữa thực và mơ khiến họ không thể phân biệt đâu là thực, là thứ cần nhớ ký; đâu là giả, không cần đặt trong lòng…” Leonard định nói thêm gì đó. Nhưng hai người đã rẽ vào ô phố Chữ Thập Sắt, trông thấy “Người Nhặt Xác” Frye đang đợi ở trạm xe ngựa công cộng.

Frye đội mũ phớt tròn vành đen, mặc áo khoác mỏng cùng màu và xách một chiếc cặp da. Nước da tái nhợt làm người ta sợ rằng anh sẽ gục ngã bất cứ lúc nào. Khí chất thì lạnh lẽo âm u đến nỗi khiến những người chờ xe ngựa đều phải đứng cách xa anh.

Họ gật đầu chào nhau trước khi lặng lẽ tập trung lại, cùng vượt qua tiệm bánh Sling, bước trên con phố Chữ Thập Sắt.

Âm thanh ồn ào lập tức ập đến. Tiếng rao tới khàn cổ của những người bán canh hàu, cá áp chảo, bia gừng, trái cây các loại liên tục vang lên, khiến khách bộ hành bất giác giảm tốc độ.

Lúc này, đồng hồ điểm năm giờ, không ít người đã trở lại phố Chữ Thập Sắt. Hai bên đường bắt đầu đông đúc. Vài đứa trẻ lẫn trong đám đông, ném những cái nhìn hờ hững vào túi tiền của những người đi đường.

Klein từng ở khu tập thể gần đó, lại hay xuống đây để mua đồ ăn nấu sẵn rẻ tiền nên khá quen với tình huống này, bèn mở miệng nhắc nhở: “Cẩn thận đám trộm.”

Leonard cười bảo: “Không sao.”

Anh ta kéo áo sơ mi, chỉnh bao súng sao cho khẩu súng lục dưới thắt lưng lộ ra.

Những đôi mắt chằm chằm họ lập tức chuyển hướng nhìn. Người đi đường chung quanh cũng tự giác nhường đường.

Klein ngẩn người, nhanh chóng bắt kịp Leonard và Frye. Đồng thời, anh cúi thấp đầu, phòng ngừa khả năng bắt gặp người quen.

Benson và Melissa vẫn giữ liên lạc với một số hàng xóm cũ ở đây. Dù sao nhà mới của họ cũng không chuyển đi quá xa.

Ba người xuyên qua con phố đông đúc, rẽ vào Đường Dưới chân chính của phố Chữ Thập Sắt.

Người qua lại ở đây đều mặc quần áo cũ nát. Họ vừa cảnh giác, vừa hau háu nhìn những kẻ lạ lẫm ăn mặc gọn gàng đẹp đẽ mới xuất hiện, chẳng khác nào lũ kền kền háu mồi chực chờ tấn công bất cứ lúc nào. Song khẩu súng lục ổ xoay của Leonard đã ngăn chặn điều bất trắc xảy ra một cách hiệu quả.

“Chúng ta sẽ bắt đầu điều tra từ trường hợp tử vong vào đêm qua. Đầu tiên là bà Lauwis sống bằng nghề dán bao diêm.” Leonard lật ghi chú và chỉ vào một vị trí cách đó không xa, “Số 134, tầng một.”

Ba người tiếp tục tiến về phía trước. Những đứa trẻ trong bộ đồ rách rưới đang chơi đùa xung quanh nhanh chóng nấp bên vệ đường, quan sát họ bằng đôi mắt thơ dại, tò mò và sợ hãi.

“Nhìn tay chân chúng xem, khác nào que diêm đâu.” Leonard cảm thán, dẫn đường vào tòa nhà ba tầng số 134.

Đủ thứ mùi khác nhau xộc vào mũi Klein. Anh có thể lờ mờ nhận ra mùi khai của nước tiểu, mùi chua của mồ hôi, mùi ẩm mốc trộn lẫn mùi than và gỗ cháy.

Klein không thể không đưa tay lên bịt mũi. Đúng lúc này, anh trông thấy Beech Mountbatten đứng cách đó không xa, dáng vẻ như đang chờ đợi họ.

Vị cảnh trưởng có bộ râu quai nón màu nâu nhạt phụ trách việc trị an ở ô phố quanh đây nhìn thanh tra Leonard với vẻ nịnh nọt.

“Thưa sếp, tôi đã bảo Lauwis chờ trong nhà rồi.” Beech Mountbatten cười nói bằng giọng hơi the thé đặc trưng.

Rõ ràng Beech không hề nhận ra Klein, người có vẻ tinh thần và ra dáng hơn trước rất nhiều. Hắn chỉ lo lấy lòng ba vị cấp trên, dẫn họ tiến vào nhà Lauwis.

Nhà Lauwis chỉ có một phòng đơn. Bên trong cùng có một chiếc giường hai tầng. Bên phải đặt một chiếc bàn để keo, giấy cứng, còn trong góc thì chất đầy những cái giỏ đựng bao diêm. Bên trái là một cái tủ cũ kỹ được dùng để cất quần áo và bộ đồ ăn.

Hai bên cửa để bếp than, bồn cầu và một ít than đá, củi. Giữa phòng có hai tấm nệm trải sàn bẩn thỉu. Trên đó là một người đàn ông đắp một chiếc chăn bông mục nát đang ngủ ngon lành. Nơi này chật chội đến nỗi gần như không có chỗ đặt chân.

Một người phụ nữ nằm ở tầng dưới chiếc giường tầng. Làn da lạnh toát, rõ ràng đã mất đi sinh mệnh.

Ngồi cạnh cái xác là một người đàn ông trạc ba mươi, mái tóc rối bù bết dầu, vẻ mặt lờ đờ và đôi mắt thất thần.

“Lauwis. Ba vị sĩ quan này muốn khám nghiệm tử thi và hỏi anh vài chuyện.” Beech Mountbatten hét lên, không mảy may bận tâm tới người đang ngủ trên mặt đất.

Người đàn ông uể oải ngẩng đầu lên, kinh ngạc hỏi: “Sáng nay kiểm tra với hỏi rồi còn gì?” Ông ta mặc đồng phục công nhân màu xanh xám vá víu.

“Bảo anh trả lời thì cứ trả lời đi, hỏi nhiều thế nhỉ!” Beech Mountbatten mắng đối phương trước khi quay sang cười với Leonard, Klein và Frye, “Thưa ngài, đây là Lauwis. Thi thể trên giường chính là vợ anh ta. Kết quả điều tra bước đầu cho thấy nguyên nhân cái chết là do một cơn bạo bệnh.”

Klein và hai người còn lại kiễng chân, bước qua khe hở giữa tấm nệm và giường.

Frye có mũi cao, đôi môi mỏng và khí chất lạnh lùng không nói gì, chỉ nhẹ nhàng vỗ vai Lauwis, ra hiệu cho ông ta nhường chỗ để mình kiểm tra thi thể.

Klein liếc nhìn người đàn ông đang ngủ dưới đất, bối rối hỏi: “Đây là ai?”

“Người… người thuê trọ của tôi.” Lauwis gãi đầu, “Mỗi tuần chúng tôi phải trả 3 Saule 10 Penny cho phòng này. Mà tôi chỉ là công nhân bến tàu, vợ làm hộp diêm. Mỗi rổ hơn 130 hộp chỉ kiếm được 2 và ¼ Penny. Chúng tôi… chúng tôi còn có con. Thế nên, tôi chỉ có thể cho người khác thuê chỗ trống. Mỗi tấm nệm chỉ cần 1 Saule 1 một tuần…”

“Một người thuê trọ khác của tôi làm công việc hỗ trợ bố trí phông nền ở rạp hát, toàn mười giờ tối mới về. Thế nên tôi bán quyền sử dụng nệm vào ban ngày cho anh này. Anh ấy là bảo vệ rạp hát vào buổi tối. Chỉ cần trả 6 Penny mỗi tuần…”

Nghe đối phương lải nhải giới thiệu, Klein không khỏi liếc nhìn đống rổ trong góc.

Mỗi rổ có hơn 130 hộp mới kiếm được 2,25 Penny, tức là khoảng hai pound bánh mì đen. Một ngày họ có thể làm được bao nhiêu rổ chứ?

Leonard nhìn quanh rồi hỏi: “Trước khi mất, vợ ông có hành động gì lạ không?”

Lauwis từng trả lời câu hỏi tương tự lập tức chỉ vào ngực trái: “Từ tuần trước, không, có lẽ là từ hai tuần trước, cô ấy nói rằng mình cảm thấy buồn bực ở chỗ này, không thể thở được.”

Dấu hiệu bệnh tim? Một cái chết bình thường sao? Klein ngẫm nghĩ trước khi chen ngang: “Ông có tận mắt chứng kiến lúc bà ấy qua đời không?

Lauwis nhớ lại: "Mỗi khi mặt trời lặn, cô ấy sẽ ngừng làm việc. Tại nến và dầu hỏa đắt hơn bao diêm nhiều… Cô ấy bảo cô ấy rất mệt, muốn tôi chăm lũ trẻ để cô ấy nghỉ ngơi một lát. Lúc tôi quay sang nhìn cô ấy, cô ấy đã… đã tắt thở.”

Khi nói ra điều đó, Lauwis không thể che giấu nỗi đau buồn và bi thương trong lòng được nữa.

Klein và Leonard lần lượt hỏi một vài vấn đề. Tuy nhiên họ không tìm thấy bất kỳ yếu tố bất thường, siêu nhiên nào trong vụ việc.

Hai người đưa mắt nhìn nhau. Leonard mở miệng: “Ông Lauwis. Phiền ông ra ngoài đợi vài phút. Chúng tôi muốn tiến hành khám nghiệm tử thi chuyên sâu. Tôi cho là ông sẽ không muốn nhìn quá trình đó.”

“Vâng… Vâng.” Lauwis cuống quýt đứng lên.

Beech Mountbatten bước sang một bước, đá tỉnh người khách trọ đang ngủ trên nệm, lôi đối phương ra khỏi phòng trước khi tự giác đóng cửa và đứng canh bên ngoài.

“Thế nào?” Leonard chuyển sang Frye.

“Chết do bệnh tim.” Frye khẳng định khi rút tay về.

Klein cân nhắc một chút, lấy ra một đồng ½ Penny, định làm một đánh giá nhanh chóng.

“ ‘Căn bệnh tim khiến bà Lauwis qua đời có yếu tố siêu nhiên?’ Không, nghĩa câu này quá hẹp, đáp án rất dễ gây hiểu lầm. ‘Cái chết của bà Lauwis bị ảnh hưởng bởi yếu tố siêu nhiên’ Cái này được đấy!” Anh lẩm bẩm, mau chóng xác định câu bói toán.

Với đôi mắt tối đen, anh đứng gần xác bà Lauwis, vừa mặc niệm vừa búng đồng xu lên.

Keng… Âm thanh vang vọng khắp phòng. Đồng xu màu đồng thau quay một vòng trong không khí trước khi rơi thẳng vào lòng bàn tay anh.

Lần này, chân dung quốc vương nằm ngửa.

Điều này cho thấy cái chết của bà Lauwis quả thực bị gây ra bởi yếu tố siêu nhiên!

“Có siêu tố siêu nhiên…” Khi màu mắt trở lại bình thường, Klein nghiêng đầu về phía Leonard cùng Frye.

Leonard bỗng bật cười: “Chuyên nghiệp phết. Không hổ là ‘Nhà Bói Toán’.”

“Anh đang định ám chỉ gì đấy.” Klein nhạo báng không thành lời.

Frye mở cặp da, rút ra con dao bạc cùng các vật dụng khác. Anh nói sau vài giây im lặng: “Thi thể nói rằng bà ấy thực sự chết vì bệnh tim đột ngột. Anh biết cách nào có thể bói ra tình hình chi tiết hơn không?”

Klein nghiêm túc gật đầu: “Tôi có thể thử kết hợp bói mộng với nghi lễ ma thuật. Biết đâu có thể thu được gì đó từ Linh tính còn sót lại của bà Lauwis.”

Frye lãnh đạm lùi lại hai bước: “Anh thử đi.”

Anh ta quay đầu nhìn Klein một chút, bỗng cảm thán bằng giọng đều đều: “Anh càng ngày càng quen với tình huống kiểu này nhỉ.”

“Tôi đâu có muốn…” Klein nghĩ thầm, kích động đến muốn khóc. Anh lấy ra lọ nước cất thơm, tinh dầu và bột thảo dược cần dùng, nhanh chóng hoàn thành việc bố trí nghi lễ thông linh.

Đứng ở trung tâm bức tường linh tính, anh đọc thầm tôn danh Nữ thần Đêm Đen và cầu nguyện bằng tiếng Hermes.

Chẳng mấy chốc, gió cuốn lấy anh, ánh sáng mờ dần.

Klein với đôi mắt đen tuyền chớp cơ hội đó và lặp đi lặp lại câu bói toán:

“Nguyên nhân cái chết của bà Lauwis.

“Nguyên nhân cái chết của bà Lauwis.”

Anh bước vào trong mộng, “nhìn” thấy linh hồn trong suốt mờ mịt đang bồi hồi bên thi thể.

Sau đó, anh chạm cánh tay phải hư ảo vào linh tính còn sót lại của bà Lauwis.

Trong khoảnh khắc ấy, ánh sáng và bóng tối nổ tung trước mắt anh. Một vài cảnh tượng thoáng hiện -----

Một người phụ nữ gầy guộc, tiều tụy, mặt bủng da chì, ăn mặc rách rưới đang mải miết dán bao diêm.

Bà đột nhiên dừng động tác, đưa tay che ngực;

Bà đang nói chuyện với hai đứa con của mình;

Cơ thể bà lung lay, há miệng thở dốc;

Khi đi mua bánh mì đen, ai đó đột nhiên vỗ bà một cái;

Triệu chứng bệnh tim xuất hiện hết lần này đến lần khác;

Bà cảm thấy rất mệt, nằm xuống giường và không bao giờ tỉnh lại.

Klein cẩn thận quan sát từng chi tiết, cố gắng tìm ra dấu hiệu tồn tại của các yếu tố siêu nhiên.

Nhưng cuối cùng, anh vẫn không tìm được bất kỳ manh mối rõ rệt nào.

Cảnh tượng mờ ảo vỡ tan. Klein rời khỏi giấc mộng, trở về thực tại.

Anh phá vỡ bức tường linh tính, nói với Leonard có vẻ thích thú và Frye đang chờ đợi: “Không thấy biểu tượng trực tiếp. Hầu hết các cảnh tượng đều cho thấy bà Lauwis đã mắc bệnh tim từ lâu. Cảnh khác biệt duy nhất là hình ảnh bà Lauwis bị ai đó vỗ vào lưng. Bàn tay đó rất thon thả và trắng nõn, dường như thuộc về một người phụ nữ.”

“Trừ phi rơi vào đường cùng, gia đình kiểu này sẽ không bao giờ tới gặp bác sĩ. Ngay cả khi họ chỉ việc xếp hàng để được chữa bệnh miễn phí ở tổ chức y tế từ thiện chăng nữa. Thời gian không phải thứ họ phung phí nổi. Một ngày không làm việc có thể đồng nghĩa với việc không có thứ gì bỏ bụng vào hôm sau.” Leonard thở dài với giọng điệu sầu não thơ mộng.

Frye liếc nhìn cái xác trên giường, nhẹ nhàng thở dài.

Trước khi Klein mở miệng, Leonard cấp tốc điều chỉnh trạng thái và tự hỏi: “Ý anh là yếu tố siêu nhiên xuất hiện vào lúc bà Lauwis bị vỗ một cái, từ một cánh tay thon thả của một quý cô hoặc quý bà nào đó?”

Klein gật đầu trả lời: "Đúng thế, nhưng đây chỉ là cách diễn giải của tôi thôi. Kết quả bói toán thường rất mơ hồ." Cuộc thảo luận đến đây là kết thúc. Anh và Leonard lùi về hai đầu tấm nệm, để Frye có thể lấy các dụng cụ từ cặp da và kiểm tra một lần nữa.

Một lúc sau, Frye cất gọn đồ đạc, dọn dẹp và che đậy những việc đã làm, sau đó quay đầu lại: “Nguyên nhân cái chết chắc chắn là do bệnh tim tự nhiên đột phát.”

Nghe kết luận ấy, Leonard đi tới đi lui, thậm chí còn bước tới cạnh cửa, hồi lâu mới lên tiếng: “Tạm thời như thế đã. Chúng ta hãy đến trại tế bần ở khu Tây xem có thể tìm ra manh mối nào không, liệu chúng có kết nối với nhau không.”

“Chậc, xem ra chỉ còn cách này thôi.” Klein nuốt những nghi ngờ xuống bụng, gật đầu đồng ý.

Frye cầm cặp lên, nửa đi nửa nhảy qua hai tấm nệm, tránh giẫm lên chăn của người khác.

Leonard mở cửa, bước ra đầu tiên và nói với Lauwis cùng người thuê nhà: “Hai người có thể vào nhà rồi.” 

Klein suy nghĩ một chút rồi nói thêm: "Đừng vội hạ táng. Ông hãy đợi thêm một ngày. Biết đâu chúng tôi sẽ cần kiểm tra kỹ lưỡng hơn.”

“Vâng… Vâng, sĩ quan.” Lauwis hơi gập người, vội vàng trả lời. Ông nói với vẻ chết lặng và mờ mịt, “Thực ra… Thực ra tôi tạm thời cũng không có tiền để chôn cất cô ấy. Tôi phải tiết kiệm mấy ngày nữa… Cũng may… Cũng may là thời tiết bắt đầu trở lạnh.”

Klein kinh ngạc thốt lên: “Ông định giữ thi thể trong phòng mấy ngày sao?”

Lauwis gượng cười đáp: “Ừm, cũng may… cũng may thời tiết bắt đầu trở lạnh. Buổi tối, tôi có thể để thi thể lên bàn, lúc ăn sẽ bế cô ấy lên giường...”

Ông ta còn chưa nói hết câu, Frye đã xen ngang: “Tôi để lại tiền mai táng cạnh vợ ông đấy.”

Sau khi ném ra những lời đó với vẻ lạnh nhạt, Frye bước nhanh về phía cổng khu tập thể, phớt lờ vẻ mặt kinh ngạc cùng những lời cảm tạ rối rít từ Lauwis.

Klein theo sát phía sau, đầu nghĩ mãi về một vấn đề: Nếu thời tiết vẫn nóng như hồi tháng 6 tháng 7 thì Lauwis sẽ làm gì với thi thể của vợ mình? Tìm một đêm nào đó thật tối, gió thật mạnh rồi lén lút ném xác xuống sông Tussock hay sông Hoy? Hoặc tùy tiện đào một cái hố ở đâu đó rồi chôn kỹ?

Klein biết luật “nhất định phải được chôn cất ở nghĩa trang” đã được lập cách đây hơn một nghìn năm, vào cuối Kỷ nguyên trước. Để giảm thiểu và loại bỏ thủy quỷ, thây ma và oan hồn, bảy Đại Giáo hội cùng hoàng tộc các nước đã chuyên môn chế định điều luật này. 

Biện pháp thực hiện cụ thể là các nước sẽ cung cấp đất miễn phí, còn giáo hội phụ trách canh gác, tuần tra. Họ chỉ thu một khoản phí nhỏ khi hỏa táng, chôn cất để chi trả cho lao động cần thiết.

Ngay cả như vậy, những người nghèo thực sự vẫn không có đủ khả năng trang trải.

Ba Kẻ Gác Đêm rời khỏi số 134 Đường Dưới của phố Chữ Thập Sắt rồi tạm biệt Beech Mountbatten. Họ lặng lẽ rẽ sang hướng trại tế bần khu Tây trên con phố gần đó.

Vừa đến nơi, Klein đã trông thấy một dòng người xếp hàng rất dài, nối tiếp nhau, chen chúc nhau.

“Chỗ này có đến hơn một trăm, không, gần hai trăm người.” Anh ngạc nhiên lẩm bẩm. Đôi mắt đảo qua những người xếp hàng mặc quần áo cũ nát, vẻ mặt chết lặng đang lo lắng nhìn cổng trại tế bần.

Frye giảm tốc độ, nói với sắc mặt lạnh lùng và âm trầm: “Số lượng người nghèo vô gia cư mà mỗi trại tế bần có thể tiếp nhận được mỗi ngày là có hạn. Họ chỉ có thể chọn theo thứ tự xếp hàng. Tất nhiên, trại tế bần sẽ có cách xác định, không để cho những người không đủ điều kiện tiến vào.”

“Suy thoái kinh tế trong mấy tháng gần đây cũng đóng góp một phần vào việc này…” Leonard cảm thán.

“Những người xếp hàng mà không có được danh ngạch thì sao, tự tìm biện pháp?” Klein vô thức hỏi.

“Họ có thể đến trại tế bần khác để tìm vận may. Các trại tế bần thường có giờ mở cửa khác nhau. Tuy nhiên, ở đó cũng sẽ có một hàng dài, có người chờ đến hai giờ chiều.” Frye dừng lại một lát, “Hầu hết những người còn lại phải nhịn ăn một ngày. Điều đó đồng nghĩa với việc họ sẽ mất khả năng tìm việc, rơi vào vòng luẩn quẩn ấy cho đến khi chết. Càng ngày sẽ càng có nhiều người gặp tình cảnh tương tự. Những người không chịu nổi sẽ từ bỏ việc giữ gìn sự lương thiện…”

Klein im lặng vài giây rồi thở dài: “Báo chí không bao giờ cho đăng những chuyện này. Frye, hiếm khi tôi mới thấy anh nói nhiều như vậy.”

“Tôi từng làm mục sư ở trại tế bần của Nữ thần.” Frye vẫn giữ thái độ lạnh băng.

Ba người mặc quần áo chỉnh tề dễ dàng tiến gần đến cổng trại tế bần khu Tây. Sau khi đưa giấy chứng nhận cho tay gác cổng đang ngạo nghễ đánh giá những người xếp hàng, họ được dẫn vào bên trong trại.

Trại tế bần được cải tạo từ một nhà thờ cũ. Sảnh làm lễ phủ đầy nệm và võng, mùi mồ hôi đặc quánh quyện với mùi chân thối bốc lên từ mọi ngóc ngách.

Có rất nhiều người nghèo vô gia cư ở trong và ngoài sảnh. Một số vung búa đập đá, một số tách sợi dây thừng cũ. Không ai nhàn rỗi.

“Nhằm ngăn người nghèo phụ thuộc quá nhiều vào trại tế bần và trở thành những kẻ vô lại, « Luật Tế Bần » ban hành năm 1336 quy định rằng mỗi người nghèo chỉ được ở trong trại tế bần tối đa năm ngày. Quá thời gian đó sẽ bị đuổi đi. Trong năm ngày này, họ sẽ phải làm việc, chẳng hạn như đập đá hoặc tách sợi dây thừng. Đây cũng là công việc mà những tên tội phạm trong khám phải làm.” Frye giải thích cho Klein và Leonard với gương mặt vô cảm.

Leonard mở miệng, cuối cùng nói bằng giọng không biết là mỉa mai hay trần thuật: “Rời trại này thì vẫn có thể tới trại khác. Tất nhiên là chưa chắc đã được vào lại. Chà, có lẽ trong mắt một số người thì người nghèo chẳng khác nào tội phạm cả.”

“Tách sợi dây thừng?” Klein hỏi sau một lúc im lặng.

“Sợi trong dây thừng cũ là chất liệu tốt để bịt kín khe hở trên thuyền.” Frye dừng bước trước vết cháy đen trên mặt đất.

Vài phút sau, viện trưởng trại tế bần và mục sư chạy tới. Hai người đàn ông ấy khoảng chừng bốn mươi tuổi.

“Đây chính là nơi Salus phóng hóa, cuối cùng chỉ thiêu chết chính mình?” Leonard hỏi, chỉ dấu vết trên mặt đất.

Viện trưởng trại tế bần là một người đàn ông có vầng trán rộng, hơi lồi. Đôi mắt xanh của ông liếc qua khu vực thanh tra Mitchell chỉ rồi gật đầu khẳng định: “Đúng thế.”

“Trước đó Salus có biểu hiện bất thường nào không?” Klein bổ sung.

Viện trưởng trại tế bần suy nghĩ một lúc, đáp: “Theo người ngủ cạnh Salus thì hắn ta liên tục thì thào những lời như ‘Chúa đã vứt bỏ ta’, ‘Thế giới này thật ô uế và dơ bẩn’, ‘Ta trắng tay rồi’ bằng sự phẫn uất và tuyệt vọng tột cùng. Nhưng không ai có thể ngờ rằng hắn định đập hết đèn dầu để thiêu rụi nơi này trong lúc mọi người say ngủ cả. Cảm ơn Chúa, có người đã phát hiện, ngăn chặn tội ác của hắn kịp thời.”

Klein cùng Leonard lần lượt gặp những người dân nghèo ngủ cạnh Salus đêm qua, cũng như người bảo vệ đã ngăn chặn thảm kịch. Tuy nhiên họ không phát hiện manh mối mới nào.

Đương nhiên, họ đã bí mật sử dụng Linh Thị và xem bói để chắc chắn đối phương không nói dối.

“Xem ra Salus đã có ý định trả thù và tự hủy hoại bản thân từ lâu. Vụ này có vẻ bình thường.” Chờ viện trưởng và mục sư đi xa, Leonard mở miệng phát biểu ý kiến đầu tiên.

Klein cân nhắc: “Bói toán cũng cho tôi biết rằng không có bất kỳ yếu tố siêu nhiên nào ảnh hưởng đến vụ án.”

“Vậy ta hãy tạm thời bài trừ trường hợp Salus phóng hỏa.” Leonard kết luận.

Đúng lúc này, Frye đột nhiên nói: “Không, còn một khả năng nữa. Ví dụ như Salus đã bị ai đó xúi giục. Người đó là Kẻ Phi Thường, nhưng không sử dụng thủ đoạn phi thường.”

Hai mắt Klein sáng lên. Anh lập tức phụ họa: “Rất có khả năng, giống như ‘Kẻ Xúi Giục’ lúc trước.”

“Tris ‘Kẻ Xúi Giục’! Nhưng chuyện này không có cách nào mối nối với cái chết của bà Lauwis.” Anh hơi nhíu mày khi nghĩ thầm.

Trước suy đoán của Klein và Frye, Leonard giật mạnh cổ áo sơ mi, từ tốn đi đi lại lại vài bước rồi nói: “Vậy thì chúng ta nhất định phải điều tra tất cả những người từng tiếp xúc với Salus ở trại tế bần. Cả những ai mà hắn từng tiếp xúc sau khi phá sản nữa. Sẽ rắc rối đây. Hãy nắm chặt thời gian, chia nhau ra điều tra. Sau đó chúng ta sẽ tới thẳng khu Tây để kiểm tra cái chết thứ ba, còn lại giao cho cảnh sát.”

“Được.” Klein đáp ngay.

Frye cũng không phản đối, xoay người về phía những người nghèo ngủ gần Salus đêm qua.

Klein đang định tìm mục tiêu khác thì bỗng thấy Leonard nháy mắt và hất cằm ra hiệu cho mình theo anh ta tới sảnh phụ của trại tế bần.

Anh có ý gì? Klein bối rối, giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, vòng quanh sảnh làm lễ một lát. Nhân lúc không ai chú ý, anh bước theo Leonard vào sảnh phụ, đi qua vách ngăn, tới một góc vắng vẻ không người.

“Tôi có một giả thuyết.” Leonard dừng trước cửa kính vỡ vụn, đột nhiên mở miệng thẳng thừng.

Klein liếc trái liếc phải, bối rối hỏi: “Giả thuyết?”

Thay vì trả lời, Leonard có đôi mắt xanh lục thăm thẳm hỏi: “Nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố siêu nhiên, anh nghĩ bà Lauwis sẽ có kết cục như thế nào?”

Klein suy nghĩ một chút rồi nói với giọng khá nặng nề: “Cũng vậy, chỉ chậm hơn một hoặc hai tuần, cùng lắm là một tháng. Đối với gia đình như vậy, họ sẽ chỉ gặp bác sĩ khi không còn chịu đựng được nữa. Một khi bệnh tim trở nên nghiêm trọng thì cái chết sẽ ập tới bất cứ lúc nào và không thể cứu vãn.”

“Salus thì sao? Nếu không bị ai đó xúi giục thì hắn sẽ có kết cục như thế nào?” Leonard hỏi tiếp.

Klein cân nhắc: “Theo thông tin trong tư liệu, Salus đã luôn oán giận chuyện phá sản, oán hận vì không được ai cứu vớt. Tôi cho rằng hắn ta sớm muộn gì cũng sẽ báo thù. Nhưng mục tiêu không phải là những người trong trại tế bần mà sẽ là giám đốc công ty đã khiến hắn phá sản, nhân viên ngân hàng đã thu giữ nhà cửa của hắn.”

“Sau khi trả thù thì hắn sẽ làm gì?” Leonard truy vấn.

“Hắn chắc chắn đã lên kế hoạch tự sát. Cho dù việc trả thù có thành công hay thất bại, hắn vẫn sẽ chết.” Klein khẳng định.

Leonard hơi gật đầu và nở nụ cười tùy tiện đặc trưng: “Vậy tôi có thể nói, bà Lauwis và Salus là những người chắc chắn sẽ chết trong tương lai gần nhỉ?”

Nghe thế, Klein có kiến thức rộng rãi lập tức suy đoán: “Ý anh là, yếu tố siêu nhiên đã khiến cái chết của họ diễn ra trước thời hạn? Tại sao lại vậy?”

“Đúng hơn là ‘sinh mệnh’ mà họ đáng lẽ phải có đã bị rút ngắn, bị đánh cắp bởi yếu tố siêu nhiên nào đó. Mà ‘sinh mệnh’ thì luôn là nguyên liệu tốt nhất để triệu hồi Tà thần, ác ma hoặc thực hiện lời nguyền đáng sợ.” Leonard hơi nhếch miệng, sửa lại suy đoán của Klein.

“Triệu hồi Tà thần, ác ma hoặc thực hiện lời nguyền đáng sợ…” Klein nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh lục và hỏi bằng giọng nửa chất vấn nửa phỏng đoán, “Hình như anh rất chắc chắn với giả thuyết đấy thì phải? Chúng ta mới khảo sát được hai trường hợp thôi mà.”

Leonard cười đến bất cần đời: “Klein. Anh không cần phải đóng kịch với tôi. Tôi đã tận mắt thấy anh thoát khỏi sự kiểm soát của Vật Phong Ấn 2-049, biết anh có chỗ đặc thù. Còn anh hẳn cũng có thể mơ hồ cảm thấy tôi khác với những Kẻ Phi Thường thông thường.”

Leonard đón ánh mắt Klein, nụ cười biến mất trên môi: “Tôi từng nói với anh, trên đời có rất nhiều những người đặc biệt có thể làm được những điều mà người khác không thể, chẳng hạn như anh, hay tôi.

“Trong lịch sử dài đằng đẵng của thế giới này tồn tại những vật thể ma thuật thần kỳ thuộc loại này hay loại khác. Chắc chắn sẽ có người đạt được chúng, nắm giữ chúng và trở thành nhân vật chính trong các vở kịch khác nhau. Loại người như thế không có nhiều. Nhưng tuyệt đối không chỉ có một hoặc hai.

“Tôi không nghĩ những kẻ Phi Thường che giấu bí mật nhất định là kẻ xấu, cũng không nhất định muốn biết rõ khả năng đặc biệt của họ đến từ đâu, biểu hiện như thế nào. Chỉ cần anh không làm gì nguy hại đến tôi, đến Kẻ Gác Đêm, đến cả thành phố Tingen thì anh vẫn là đồng đội của tôi. Tôi hy vọng anh có thể đối xử với tôi bằng thái độ tương tự. Tất nhiên, anh tốt nhất đừng nói điều này cho cấp trên. Đám người ấy là những kẻ cổ hủ và bảo thủ, luôn cho rằng những người đặc biệt như chúng ta nhất định sẽ mất khống chế, nhất định sẽ sa đọa vì những lời cám dỗ của Tà thần hay ác ma.”

“Tôi có nhiều bí mật hơn anh tưởng nhiều.” Klein nhủ thầm trong lòng. Tiếp đó, anh thản nhiên nói: “Tôi tán đồng với anh. Tôi sẽ chỉ nhìn hành vi và mục đích của anh chứ không quan tâm vì sao anh đặc thù, cũng không cố gắng thăm dò bí mật của anh.”

Dứt lời, anh bổ sung trong lòng: “Không, kỳ thật tôi vẫn khá tò mò. Nhưng đành buộc bản thân phải nhẫn nại. Leonard cảm thấy anh ta là nhân vật chính trong tuồng kịch à? Anh ta có được kỳ ngộ gì? Có vật phẩm thần kỳ nào?”

Leonard cởi cúc áo sơ mi, gật đầu cười khúc khích: “Tôi rất vui vì chúng ta đạt được chung nhận thức. Mấy tiểu thuyết phiêu lưu thường gọi đây là cuộc gặp giữa hai nhân vật chính, bánh xe lịch sử bắt đầu chuyển động về phía trước.”

Kein nở nụ cười chiếu lệ. Anh biết, “bánh xe lịch sử bắt đầu chuyển động về phía trước” xuất phát từ Roselle Đại đế.

Lúc này, Leonard đi đi lại lại hai vòng, đôi mắt xanh lục sáng rực, khóe miệng hơi nhếch: “Được rồi, thú thật, tôi khá chắc chắn rằng những người chết trong các vụ việc này đều sẽ qua đời trong vòng ba tháng nữa. Nhưng trong vòng hai tuần qua, ai đó đã sử dụng biện pháp khiến cái chết đến với họ sớm hơn. Mục đích của đối phương là triệu hoán Tà thần, ác ma hoặc tiến hành một lời nguyền đáng sợ có quy mô lớn.

“Cái chết của những người có dấu hiệu sắp chết rất dễ được che giấu, lại không khiến Sở Cảnh sát chú ý, trong giai đoạn chuẩn bị cũng không sợ bị phá rối bởi Kẻ Gác Đêm, Thế Phạt Giả hay Trái tim Máy móc…” Klein nhỏ giọng lẩm bẩm, phân tích suy nghĩ của thủ phạm.

Leonard mỉm cười phụ họa: “Đúng thế, nếu người bình thường khỏe mạnh bất thình lình tử vong mà không có lời giải thích. Chỉ cần vượt quá hai trường hợp thì chắc chắn sẽ gây chú ý và bị điều tra theo thông lệ.”

“Vậy chúng ta phải làm cách nào mới có thể tìm ra bàn thờ cử hành nghi lễ? Cho dù thủ phạm muốn triệu hoán Tà thần, ác ma hay chế tạo lời nguyền đáng sợ thì đều cần có bàn thờ, cần có nghi thức. Những ‘sinh mệnh’ bị thu hoạch sớm kia nhất định phải được cất giữ ở nơi đó.” Klein tạm thời tin tưởng đối phương. Dù sao anh cũng không tìm được manh mối, không có cách nào đưa ra phán đoán khác.

Thử một lần cũng không chết ai!

Leonard cười hì hì: “Klein, đây không phải là lĩnh vực chuyên môn của anh sao? Chẳng lẽ anh không tưởng tượng được tình trạng xung quanh bàn thờ nghi lễ kiểu đó sẽ như thế nào à?”

Không đợi Klein đáp lại, anh ta đã cướp câu trả lời: “Tử khí nồng nặc. Lấy bàn thờ làm trung tâm, trong vòng mười dặm sẽ không có bất kỳ sinh vật sống nào ngoài chủ trì nghi lễ. Nhiệt độ xung quanh thấp hơn nhiệt độ không khí bình thường ít nhất năm độ C. Gió lạnh không bao giờ ngừng thổi. Trong bàn thờ bị bịt kín bởi bức tường linh tính sẽ có ‘sinh mệnh’ đã cướp đoạt từ bà Lauwis cùng những người khác.

Nói đến đây, anh cười một cách hóm hỉnh: “Tôi tin chắc anh có thể bói được bàn thờ có đặc điểm như vậy ở đâu.”

Klein cau mày, trầm giọng đáp: “Miễn là nó nằm trong thành phố Tingen. Mặt khác, tôi cần một nơi tuyệt đối yên tĩnh, không bị ai quấy rầy, nhà tôi chẳng hạn. Đúng rồi, phải có vật phẩm tùy thân của bà Lauwis, Salus nữa.”

Đồng thời, Klein không khỏi nói thầm trong lòng, cảm thấy Leonard quá am hiểu ma thuật hắc ám.

“Không thành vấn đề.” Leonard cười, đột nhiên vượt qua Klein, sải bước về phía sảnh làm lễ.

“Tên này có phong cách làm việc đặc biệt thật.” Klein nhủ thầm khi đi theo đối phương.

Khi tìm thấy Frye đang chăm chỉ thăm hỏi và ghi chép, Leonard nghiêm túc nói: “Tôi có một giả thuyết, định để Klein thử một lần.”

“Giả thuyết gì?” Frye lạnh lùng hỏi.

“Tôi sẽ nói cho anh biết khi có kết quả. Tôi không muốn bị mấy người Rozanne chế giễu đâu.” Leonard viện cớ đáp qua loa.

Frye không hỏi gì nữa. Anh đến đồn cảnh sát phụ cận mượn vật phẩm tùy thân của Salus và bà Lauwis như Leonard yêu cầu, rồi hội họp với các đồng đội khác ở nhà Klein.

“Hai người chờ ở phòng khách nhé. Đừng để ai quấy rầy tôi.” Klein móc lấy đồng hồ mở túi, bấm xem giờ.

Lúc này đã gần sáu giờ, Melissa có thể quay về bất cứ lúc nào.

“Anh có thể tin tưởng chúng tôi.” Leonard đi quanh phòng khách nhỏ với hai tay đút túi. Frye thì ngồi yên lặng trên ghế sofa.

“Tên này mắc chứng tăng động giảm chú ý hay sao?” Klein bĩu môi, lên phòng ngủ tầng hai, khóa chặt cửa và bịt kín căn phòng bằng bức tường linh tính.

Sau đó, anh bố trí bàn thờ, cầu xin sự giúp đỡ từ Nữ thần để bước đầu loại bỏ sự quấy nhiễu.

Tiếp theo, Klein viết câu xem bói lên giấy: “Vị trí bàn thờ.”

Anh đặt phạm vi rất rộng, tránh bỏ lỡ bất kỳ thông tin nào.

Klein cầm mảnh giấy và vật phẩm tùy thân của người chết rồi nằm dài trên giường, nhớ tới cảnh tượng mà Leonard mô tả, sau đó niệm câu bói toán bảy lần.

Anh không định vận dụng sự đặc thù của phía trên sương xám để xem bói. Một là bởi gã kỳ quái và thần bí Leonard đang ở dưới lầu, ai mà biết lần này hắn có thể phát giác manh mối nào hay không; hai là anh sắp tiêu hóa hết Ma Dược “Nhà Bói Toán”, lại có nghi thức hỗ trợ, hẳn là đủ rồi.

Nếu xem bói ở thực tại không ra kết quả, Klein sẽ cân nhắc tới việc bước lên sương xám để thử. Rốt cuộc, việc triệu hoán Tà thần, ác ma cũng là mối đe dọa tới Benson, Melissa và bản thân anh!

Với sự trợ giúp từ Minh tưởng, anh nhanh chóng đi vào giấc mơ, “nhìn” những khung cảnh mờ ảo, hư ảo và rời rạc.

Ngay sau đó, một cảnh tượng hiện lên trước mắt anh.

Đó là một ngôi nhà hai tầng màu xanh xám ngập trong ánh hoàng hôn. Các cửa sổ tầng một được đóng chặt và bị che kín bởi những tấm rèm tối màu không kẽ hở, thỉnh thoảng mới có chút phập phồng. Đất xung quanh có màu nâu đen, không một cọng cỏ, không một đóa hoa. Khu vườn trước nhà như được phủ trong bóng tối, đổ nát và tối tăm. Cách ngôi nhà không xa là một dòng sông lặng lẽ chảy xuôi.

Klein chờ một lát, tới khi không xuất hiện hình ảnh nào khác, mới thoát khỏi giấc mơ.

“Leonard đoán đúng rồi. Tòa nhà đó có thể ở đâu? Tingen có rất nhiều chỗ có sông. Chẳng hạn như phía tây nam của Khu Tây, như khu bến tàu, hay khu đại học…” Anh mở to mắt, xoa bóp huyệt thái dương khi nghiêm túc tự hỏi.

.

Số 2 phố Hoa Thủy Tiên, trong phòng khách nhuốm sắc hoàng hôn.

Klein đứng trước cửa sổ lồi khi nói với Frye và Leonard: “Tôi đã bói ra kết quả. Trong mơ, tôi nhìn thấy một ngôi nhà hai tầng màu xanh xám với tất cả các cửa sổ ở tầng một đóng kín, kéo rèm. Đất mấy mét xung quanh đó chỉ có màu nâu đen. Không có một cọng cỏ hay một đóa hoa nào. Nó còn có một khu vườn hoang tàn, âm u, tựa như mấy chỗ trong truyện kinh dị vậy.

“Thứ duy nhất có thể xác định được vị trí là một nhánh sông cách đó không xa, một nhánh sông khá lớn.

“Đó có thể là sông Tussock hoặc sông Hoy. Chúng ta chỉ có thể dựa vào biện pháp bài trừ để tìm kiếm. Mong là còn kịp.”

Sông Tussock là con sông lớn nhất ở Vương quốc Loen. Nó bắt nguồn từ dãy Minminsk phía tây bắc, chảy về phía đông nam, đi qua quận Awwa, quận Midsea, thủ đô Backlund, cảng Pritz rồi mới đổ ra biển.

Ở Tingen, nó xuyên qua phía tây nam của khu Tây và bến tàu khu Nam. Sông Hoy thì bắt nguồn từ dãy York phía bắc, xuôi qua vùng ngoại ô và khu vực đại học ở khu Đông trước khi nhập vào nhánh sông Tussock địa phương.

Đây là hai con sông chính xung quanh thành phố Tingen. Còn những chỗ khác chỉ có thể gọi là lạch hoặc suối nhỏ mà thôi.

Khi Klein nói xong, Frye lạnh lùng gật đầu đồng ý.

Trong trường hợp không có manh mối thì phương pháp bài trừ là cách hiệu quả nhất!

Leonard bấy giờ cười bảo: “Có lẽ chúng ta có thể thu hẹp phạm vi mục tiêu.”

“Bằng cách nào?” Klein cầm đồng hồ quả quýt được trang trí bằng nhánh dây leo cau mày hỏi.

Leonard cười khúc khích: “Tội phạm có kế hoạch và mục tiêu kiểu này thường chọn nạn nhân ở những nơi cách xa khu vực đặt bàn thờ. Nó xuất phát từ bản năng truy cầu sự an toàn.

“Chờ đến khi ‘người sắp chết’ trong khu vực khác không còn mấy, độ khó tìm mục tiêu tăng lên thì hắn sẽ cân nhắc tới việc ra tay ở phụ cận.

“Vì vậy, chúng ta hãy xem lại tư liệu và lọc ra những khu vực có số người chết tăng cao gần đây.”

Đôi mắt Klein sáng lên trước điều đó: “Suy luận tuyệt đấy!”

Đồng thời, anh ai thán trong lòng: “Mình quả nhiên là không có tài làm thám tử!”

Frye gật đầu cầm tư liệu đặt trên bàn lên và bắt đầu đọc lại.

Sau vài phút, anh ta trầm trọng nói: “Có một chỗ như vậy, và chỉ có một.”

“Ở đâu?” Klein buột miệng hỏi.

Frye chuyển chồng tư liệu dày cộp cho Leonard đứng cạnh, môi mỏng mím nhẹ: “Khu Tây.”

Chính là khu Tây sao? Klein siết nắm tay, lập tức đề nghị: “Vậy chúng ta hãy kiểm tra phía tây nam của khu Tây trước đi. Chỗ đó không lớn lắm!”

“Tôi đồng ý.” Leonard thoải mái tán đồng khi vẫy đống tư liệu trong tay, như thể người vừa đưa ý kiến thu hẹp phạm vi không phải là anh ta.

.

Cỗ xe ngựa chầm chậm lăn bánh trên con đường hơi lầy lội và bẩn thỉu. Cách đó không xa, mặt sông rộng lớn được tô màu bằng ánh chiều tà.

Klein và Frye nhìn cửa sổ hai bên xe, quan sát hết ngôi nhà này đến ngôi nhà khác. Họ tập trung kiểm tra những ngôi nhà màu xanh xám, xem nhà nào có vườn hoa hoang tàn, hoặc xem nhà nào có cửa sổ tầng một bị đóng kín và che rèm hay không.

Leonard ung dung ngồi một chỗ, ngả lưng vào thành xe, ngâm nga một giai điệu địa phương.

Khung cảnh mờ ảo vụt qua. Klein đột nhiên bắt gặp tòa nhà hai tầng màu xanh xám từ khóe mắt.

Trước căn nhà là một khu vườn cho người ta cảm giác hoang tàn và âm trầm.

“Thấy rồi!” Klein nhỏ giọng nói.

Anh vừa nói xong, Frye và Leonard lập tức chen tới và nhìn ra xa.

Khi xe ngựa tiến gần tới ngôi nhà, những cửa sổ đóng kín được kéo rèm hiện lên trong tầm mắt ba Kẻ Gác Đêm.

Klein không cần bói toán để xác nhận. Anh hoàn toàn chắc chắn rằng đây chính là ngôi nhà mà anh nhìn thấy trong giấc mơ, là nơi đặt bàn thờ tà ác!

Cả ba người đều không bảo dừng xe, mặc cho người đánh xe tiếp tục điều khiển cỗ xe chạy về phía trước, vượt qua mục tiêu, cách xa mục tiêu như thể đi ngang qua.

Đến khi không còn nhìn thấy tòa nhà nữa, Leonard mới bảo người đánh xe dừng lại.

“Klein, anh hãy ngồi xe về phố Zouteland, trực thay cho đội trưởng để ông ấy có thể đến đây hỗ trợ nhé.” Leonard búng tay thành tiếng, mỉm cười nhìn đồng đội.

“Anh ta cảm thấy mình là tân binh, không nên dính vào chuyện nguy hiểm như vậy? Tên này tử tế đấy chứ.” Klein sững sờ một lát mới hiểu được ý Leonard. Anh nghĩ thầm trong lòng.

Frye cạnh đó tán đồng: “Anh chỉ vừa mới học kỹ năng đánh tay đôi, hơn nữa lại theo nghề hỗ trợ.”

“Tôi biết chứ. Chưa kể, một kẻ có thể chế tạo nhiều cái chết như vậy để tổ chức nghi lễ chắc chắn không dễ đối phó. Chỉ có đội trưởng mới đủ khả năng giảm thiểu nguy hiểm trong việc này…” Klein hít một hơi, lý trí đáp ứng.

Anh liếc Leonard va Frye, gượng cười nói: “Hai người cẩn thận nhé.”

“Yên tâm đi. Tôi quý mạng mình lắm. Trước khi đội trưởng tới thì chúng tôi sẽ chỉ giám sát từ xa thôi.” Leonard cười khẽ.

Frye không nói gì, chỉ nhấc cặp da lên.

Klein im lặng vài giây trước khi lấy ra một đồng xu: “Để tôi bói toán cho hai người.”

Trong lúc đôi mắt chuyển sang màu đen, anh mặc niệm “mọi thứ sẽ kết thúc tốt đẹp” và tung đồng xu lên.

Thấy chân dung quốc vương nằm ngửa, Klein lập tức thở phào nhẹ nhõm.

“Đây chỉ là một biểu tượng mơ hồ, còn có cách hiểu khác, quan trọng nhất là phải cẩn thận và thận trọng.” Klein nói với Frye cùng Leonard bằng giọng điệu của “Nhà Bói Toán”.

Leonard đã sớm xoay người qua chỗ khác. Nghe thế, anh ta vẫy tay và nhảy xuống: “Anh lải nhải y hệt bà nội tám mươi tuổi của tôi ấy...”

Frye nghiêm túc gật đầu, cầm theo cặp da rời xe.

Klein đưa mắt nhìn hai đồng đội tiến về phía ngôi nhà mục tiêu rồi nói với người đánh xe: “Phố Zouteland.”

Người đánh xe được trả theo giờ thúc ngựa tiếp tục hành trình mà không hề thắc mắc.

Số 36 phố Zouteland.

Vào thời điểm Klein tiến vào Công ty An ninh Blackthorn, các nhân viên văn phòng đã tan tầm. Nơi đây trở thành một chốn vắng vẻ và tối tăm đến lạ.

Dunn mặc áo măng tô đen ngồi trên ghế sofa cho khách. Ông không bật đèn khí, dường như hòa mình vào khu vực không ánh sáng xung quanh.

“Tìm được manh mối rồi à?” Ông cất lời. Tuy giọng ông rất êm dịu, song vẫn khiến Klein đang mải tìm kiếm ông thót tim một phen.

Klein nhanh chóng quay lại và nhìn vào đôi mắt xám của Dunn: “Vâng, chúng tôi…”

Anh nhanh chóng thuật lại “giả thuyết lớn mật” của Leonard, kết quả xem bói của mình và quá trình điều tra thực địa sau đó.

Dunn thỉnh thoảng lại hỏi xen đôi câu. Chờ đến khi câu chuyện kết thúc, ông đột ngột đứng dậy, đi về phía cửa.

“Suýt quên. Cậu hãy ở lại chỗ này, phòng trường hợp ngoài ý muốn.” Khi đặt một chân lên bậc cầu thang, ông quay đầu căn dặn.

“Vâng.” Klein trịnh trọng gật đầu.

Lúc này, ngoại trừ Kenley đang trực ở Cổng Chianese thì những Kẻ Gác Đêm khác đều bận rộn ngoài thực địa.

Vào thời điểm Klein tiến gần tới giá treo mũ, Dunn vừa bước vài bước xuống cầu thang bỗng dừng lại và nói: “Cậu hãy khóa cửa lại, đi với tôi đi. Cậu không cần tham gia cuộc chiến. Việc này một là để cậu cảm nhận được không khí, hai là chúng tôi có thể cần tới sự hỗ trợ từ nghi lễ ma thuật khi tiến hành lục soát và kiểm tra. Nhớ điều này. Trước khi mọi chuyện kết thúc, cậu nhất định phải cách xa chúng tôi ít nhất năm mươi mét, tuyệt đối không được tới gần ngôi nhà!”

Klein sửng sốt một chút rồi gật đầu thật mạnh: “Vâng!”