Sau khi đi qua bến xe buýt chật cứng người hầm hập dưới trời hè, leo qua một đoạn dốc hướng về phía đài truyền hình rồi rẽ trái là có thể thấy tòa nhà xập xệ nơi đặt trụ sở của Hirasaka-gumi. Văn phòng và thư phòng nằm trên tầng ba, còn tầng hai vừa là nhà kho vừa là sảnh lớn.
Một ngày sau vụ việc ở Akasaka, tôi và Yondaime quyết định gặp nhau trước cánh cửa thép trên tầng hai, nơi tôi vốn chẳng bao giờ bén mảng tới. Mới mười giờ sáng nhưng ánh nắng chói chang của tháng Bảy đã nướng những bức tường xi măng muốn tan chảy, còn cánh cửa bằng thép thì nóng đến mức gần như có thể rán được cả trứng
Ấy thế nhưng không phải chỉ mỗi cái nóng của mùa hè làm mọi người bồn chồn. Từng thành viên của Hirasaka-gumi đứng thành hàng ngay ngắn phía trước cầu thang, cởi trần trùng trục, phô bày thân hình lực lưỡng của bọn họ.
“Ư-ừm… sao mấy anh không mặc áo vào?” Mấy người đang ăn mừng cái gì hả? Mấy người làm thế này làm gia tăng hiệu ứng nhà kính lắm, thôi đi có được không?
“Vâng thưa aniki! Là lỗi của bọn em để mất mấy cái áo phông!”
“Chúng em đã giao nộp lại áo cho Sou-san rồi ạ! Chúng em không còn mặt mũi nào để mặc áo khi chưa bắt được thủ phạm!”
“Aniki nhìn này. Bọn em bôi kem chống nắng thành hình của phù hiệu, nên cứ để một lúc là bọn em sẽ trông như đang mặc đồng phục ngay ấy mà!”
Tôi giơ tay lên mắt để che nắng, và cố gắng không để sự thương hại hiện ra trên mặt sau khi ngước nhìn mặt trời, rồi quay về phía Yondaime. Không biết ảnh làm thế nào mà nhặt về được ngần này gã đần.
“Nếu anh đây có mệnh hệ gì, anh giao lại mấy thằng đần này cho chú mày. Để sổng bọn này tác oai tác quái thì có hại cho xã hội lắm.”
“Không đời nào! Làm thế có hại cho em thì có!”
Yondaime cười khẩy trước lời chống chế của tôi. Nhưng rồi anh ta đột nhiên nhìn tôi một cách nghiêm nghị, vươn nắm đấm của mình ra và ấn nó vào ngực tôi. Cứ như là chạm thẳng vào trái tim tôi, và tôi chỉ biết ngơ ngác nhìn lại Yondaime.
Như vậy là sao? Hay là… anh ấy nói nghiêm túc?
May thay, người thứ ba đồng ý có mặt ở đây, Thiếu Tá, đã đến ngay sau đó. Một chiếc mũ màu vàng nâu gắn phù hiệu hình ngôi sao nhô lên từ dưới cầu thang, hình như là đồ ngụy trang ở sa mạc của quân đội Trung Quốc thì phải? Bước tiếp theo sau là một anh chàng còn lùn hơn cả tôi, da mịn như học sinh cấp một. Chiếc ba lô quân đội anh ta đeo trên lưng trông chẳng ăn nhập tẹo nào.
“Cái gì thế này? Tập trận trên môi trường sa mạc vào giữa ban ngày đấy hả? Thế lại càng hay, tôi mang đủ dao quân đội cho mọi người này, để tôi phát cho từng người.”
Thiếu Tá nheo mắt nhìn đám đầu gấu đang cởi trần. Đúng là otaku quân sự chuyên nghiệp có khác.
“Tuyệt đối không. Em phải dặn anh là đừng có cầm dao quân đội đi lung tung, luật bây giờ chặt lắm.”
“Yên tâm đi. Để phi tang chứng cứ trước khi bị nhà chức trách phát hiện, tôi đã cài bom hẹn giờ lên mỗi con dao rồi.”
“Thế làm sao mà em yên tâm được! Người nguy hiểm như anh nên ở rịt trong phòng thí nghiệm đi thì hơn!”
“Nhưng Souichirou nhờ tôi tới đây mà.”
“À- ừ- phải rồi.”
“Thằng lùn bảo hắn có dao nổ được kìa!”
“Tao cũng muốn một con…” “Ở sa mạc quái nào mà mày lại cần cái của đấy hả?”
“Đồ ngu này! Chúng bay nhìn cho kĩ, là sa mạc đô thị Tokyo!” Làm ơn im đi, băng Cởi Trần.
“Nghe cho rõ đây, đi hết lên nhà, mặc đồ vào!”
Mệnh lệnh của Yondaime khiến đám lâu la im thin thít, còn bản thân anh ta thì quay lại với Thiếu Tá, hất cằm ra hiệu về phía cánh cửa thép.
Mặc dù trông anh ta cũng giống con nít như Alice, chuyên môn của Thiếu Tá về kĩ thuật cơ khí khiến cho cả những giáo sư đại học cũng phải tiếc nuối vì anh ta chỉ dùng chúng vào những việc phi pháp như chụp hình lén, theo dõi, tham gia trò chơi sinh tồn và đột nhập trái phép. Lý do chính khiến Thiếu Tá nhập hội là vì bọn họ đều cùng một giuộc với nhau cả. Thiếu Tá ngồi xổm xuống trước lỗ khóa, lấy ra một vật giống như một cái kính lúp nhỏ. Một đầu của nó mảnh như cái đầu phễu, và anh ta cắm nó vào lỗ khóa.
Một lát sau, Thiếu Tá đứng dậy, mặt sa sầm.
“Kiểm tra cả cửa sổ nữa.”
Yondaime gật đầu mở cánh cửa thép ra. Hở? Có chuyện gì vây? Sao anh không nói cho bọn này kết quả kiểm tra? Tôi vừa đi vừa nghĩ thầm như thế. Theo lời dặn của Alice, tôi phải nhớ chụp ảnh những lối ra vào khả dĩ.
Bên trong là một căn phòng lát ván gỗ. Ngoại trừ một vài tấm thảm tatami được cuộn vào góc phòng, bên trong chẳng có gì đáng kể. Đối diện với chúng tôi là một cánh cửa trượt dẫn vào nhà kho. Mùi khét như thuốc trừ sâu ùa ra ngay khi cánh cửa được kéo mở. Bên trong là rất nhiều thảm tatami được quấn lại và xếp tựa vào tường, những chiếc thùng các-tông chồng lên nhau, và cả một vài chiếc mũ bảo hiểm dùng ở công trường được treo trên móc gắn tường. Những thanh chấn song thép chắc chắn được gắn bên ngoài cửa sổ.
Thiếu Tá lắc đầu sau khi kiểm tra ba ô cửa sổ.
“Souchirou này, mấy cái áo cất ở đây hả? Hay là có ai trong băng đã lấy nó đi để đem đi thay?”
“Tôi mà không nói thì chúng nó còn chẳng biết là trên áo có lỗ để chui vào đâu.”
“Thế còn chìa khóa thì sao?”
“Tôi mang bên người.”
“Còn chìa dự phòng?”
“Không có.”
“Làm sao lại không có chìa dự phòng được?”
“Đã bảo không có là không có!”
Thật là khó để miêu tả vẻ mặt của Yondaime trong giây phút ấy. Vẻ mặt giống như một người đã cặm cụi hai ngày đêm để đóng một chiếc bè bằng tre để rồi nhận ra đại dương đã khô cạn.
“Bất luận ra sao thì tôi cũng không phát hiện ra dấu hiệu hư hại nào trên ổ khóa.”
Thiếu Tá nhún vai. Theo như anh ta thì ổ khóa bị cạy mở sẽ luôn để lại những dấu vết nhỏ li ti.
“Dĩ nhiên nếu kẻ đột nhập là một chuyên gia như tôi đây thì sẽ không để lại dấu vết nào. Từ đó suy ra…”
Thiếu Tá tỏ vẻ đắc ý.
“Thủ phạm chỉ có thể hoặc là tôi, hoặc là Souichirou.”
“Mấy người về được rồi. Tôi sẽ chuyển tiền công cho Alice luôn một thể, đến lúc đó cứ liên hệ với cô ta.”
“Lúc đầu tôi còn định bớt cho cậu một ít, nhưng mà tôi không thể nào mê được cái thứ Nhật cổ lỗ như cậu.”
“Khi nào cần mấy người giúp thì tôi sẽ gọi lại, việc hôm nay xong rồi nên phắn giùm đi! Với cả tôi không tài nào gọi được cho Tetsu. Có ai biết hắn đang ở đâu không?”
“Tetsu-san nói rằng cậu ấy đã bắt xe chùa đi Niigata để để dự giải đua ngựa mùa hè.”
Yondaime sốt ruột tặc lưỡi. Tetsu-senpai cũng là một thành viên của đội thám tử NEET như Hiro-san và Thiếu Tá. Xét về đánh đấm thì anh ấy cũng không thua kém gì Yondaime. Những kĩ năng của anh ấy hẳn là sẽ rất thiết thực cho vụ việc bất thường lần này, nhưng vì ảnh mê đỏ đen nên cứ mỗi lần lân la tới trường đua ngựa là đừng hòng gặp được anh ấy trong hai ngày tiếp theo.
“Thế nhé, khi nào có tin của cậu ta thì tôi sẽ báo lại ngay.”
Thiếu tá nói rồi bước ra khỏi phòng. Cùng lúc đó, một tiếng hô to vang lên từ bên kia cánh cửa thép.
“Khởi động bài tập! Điểm danh!”
“Im mồm đi! Thằng lùn đừng có giả vờ làm người hướng dẫn nữa.” “Mau đưa dao cho bọn này đi!”
Điểm khác biệt Thiếu tá với Hiro-san và Tetsu-senpai là đám lâu la của Hirasaka-gumi không hề tôn trọng anh ta chút nào. Hình như tôi còn nghe thấy cả một tiếng nổ nữa, nhưng tốt hơn hết thì tôi nên coi như đó là tưởng tượng thôi.
Tôi lại nhìn Yondaime, hai tay vẫn thọc sâu vào túi quần, mắt nhìn chằm chằm cái nhà kho.
“Mấy cái áo phông… em nghĩ thiết kế của nó cũng không quá đặc biệt, mua ở đâu mà chẳng có.”
“Tất cả đều là hàng đặt may. Kể cả kích thước và vị trí của cái phù hiệu cũng giống hệt, không thể nhầm đi đâu được.”
“Cứ cho là thế… cũng đâu có nghĩa là người ta không bắt chước được đâu… phải không?”
Bộ đồng phục của Hirasaka-gumi cũng gọi là có tiếng tăm trong thành phố này, chắc hẳn là ai đó đã chụp hình lại rồi làm ra bản sao, hoặc nếu họ tìm thấy một chiếc trong đống rác của tòa nhà này chẳng hạn, họ cũng có thể bắt chước nó.
“Tao biết chứ.”
Yondaime thẳng thừng ngắt chuyện.
Có đúng là không còn ai khác có chìa khóa phòng không? - Không hiểu vì sao tôi chẳng thể thốt ra câu hỏi đó.
Khi hai chúng tôi ra khỏi phòng, bóng dáng của Thiếu Tá và đám vai u thịt bắp kia đã biến mất từ lâu. Những tiếng hô khẩu hiệu ‘Hira—! Saka!’ ‘Fight!’ ‘Hira—! Saka!’ ‘Fight!’ trở nên xa dần. Ơ này! Đừng bảo đám đó cởi trần đi ra ngoài đấy nhé? Làm vậy là bị bắt thật đấy. Thế nhưng Yondaime chỉ lẳng lặng bước lên cầu thang, môi mím chặt. Vẫn còn cảm thấy lấn cấn, tôi liền bước theo sau. Vừa đặt chân tới bậc cầu thang thứ hai thì Yondaime quay ngoắt lại.
“Mau lo việc quảng bá sự kiện đi. Không có thời gian cho chú mày chĩa mũi vào mấy việc này đâu.”
“Nhưng… dù sao em cũng là trợ lý thám tử, việc điều tra này mới là ưu tiên cao nhất của em chứ.”
“Im đi. Mày xem băng ghi hình rồi đấy còn gì nữa? Cỡ như que diêm như chú mày mà xen vào thì chỉ có vào viện thôi.”
“Anh không cần lo quá thế đâu—”
“Ai thèm lo cho chú mày. Anh mượn mày từ chỗ Alice mà để mày bị sứt mẻ gì thì mất uy tín… Mày làm cái mặt đần thối gì thế hả!”
“Không có gì… Em chỉ thấy lạ vì anh phản ứng giống hệt như Alice.”
Tôi còn chưa kịp dứt câu thì nắm đấm của Yondaime đã vụt tới. Trước cả khi kịp thấy đau, tôi đã thấy cả người mình bay lơ lửng rồi đập phải vật gì đó, và không khí bị ép hết ra khỏi lồng ngực. Tới lúc đó tôi mới hiểu ra mình bị đấm bay tới tận lan can cầu thang. Tôi ho sặc sụa, trong mồm đắng ngoét dịch dạ dày.
“Bớt lảm nhảm rồi biến ngay đến Ueno! Tao đã gọi điện cho người phụ trách để gia hạn buổi hẹn rồi.”
Tôi xoa bụng nhìn Yondaime bỏ đi. Anh ta bị gì vậy?
Nhưng đoạn ‘Ai thèm lo cho mày’ chắc là anh ta nói thật.
*
‘Thấy bảo anh đến Ueno hả! Thế thì tiện thể đi vườn thú cho em nữa.’
Lúc Alice gọi tôi, tình cờ tôi cũng đang ngắm nhìn những lá sen mơn mởn bồng bềnh trên hồ Shinobazu. Ánh nắng hè rực rỡ phản chiếu trên phiến lá khiến người ta phải nheo mắt.
“Ừm… Anh đang ở Ueno rồi đây. Sao lại đi sở thú?”
‘Để chụp ảnh chuột lang nước chứ còn gì nữa! Anh đang cầm máy ảnh kĩ thuật số đấy thôi? Nhớ phải chụp một kiểu thật gần để em nhìn ảnh cũng thấy lông của chúng nó êm và phồng phềnh đấy nhé. Vuốt ve chúng nó hộ em luôn cũng được.’
“Lúc khác đi. Anh đã bảo đang bận lắm mà, hôm nay vừa phải đến công ty quảng cáo vừa phải đến phòng nhạc nữa.”
‘Hôm trước anh bảo không bỏ quên nhiệm vụ của trợ lý thám tử cơ mà? Đến cả con giun dẹp cũng nhớ được linh hồn của mình, không thể tin được là anh còn kém cả loài động vật bậc thấp như thế.’
Sao tôi lại bị mắng đến nỗi này… Nhưng chí ít thì tôi cũng biết rút kinh nghiệm và nuốt lại câu phàn nàn ‘Thế mà cũng là việc của trợ lý thám tử ấy hả?’. Vả lại hôm qua tôi đã làm Alice không vui, nên thật nhẹ nhõm khi thấy cô ấy lại đối xử với tôi như mọi khi.
‘Mười hai giờ anh có hẹn với công ty quảng cáo, còn buổi hẹn với phòng nhạc là năm giờ chiều, đúng không? Thế thì anh vẫn còn tha hồ thời gian để đi sở thú còn gì nữa?’
“Ớ? Em bảo anh phải đi giữa hai buổi hẹn chứ không phải là lúc sau á?”
‘Lẽ dĩ nhiên thế mà anh cũng không hiểu. Đến tối thì mấy con vật đi ngủ hết, mà sở thú cũng đóng cửa rồi còn đâu nữa.’
Tôi không muốn nghe một cô nàng hikkikomori NEET với một cơ khác thường mỗi ngày chỉ ngủ một tiếng bảo tôi như vậy!
“Cái chính là sao anh phải chụp ảnh chuột lang nước? Chúng nó chỉ là mấy con gặm nhấm to đùng, ngái ngủ, lông lá thì nhìn đã thấy ngứa ngáy thôi mà? Có gì hay ho nào? Đến sở thú Ueno thì phải chụp ảnh gấu trúc chứ?”
Tràng chế giễu sau đó của Alice vượt quá những gì có thể mô tả được bằng lời nên tôi xin không ghi lại toàn văn ở dưới đây.
‘Anh không cảm thụ được vẻ đáng yêu của chuột lang nước thì thôi cũng không nói làm gì, nhưng anh còn dám nhắc đến gấu trúc nữa hả! Nếu anh chỉ mê mấy con gấu trắng đen đó thì thà rằng anh dùng khúc tre mà cúng dịp Obon rồi cầu nguyện cho nó hồi sinh ấy! Mấy con gấu trúc ở Ueno chết từ lâu rồi.’
“Eh? Thật hả?”
Nhưng gấu trúc là linh vật của Ueno từ đó tới giờ mà?
‘Thế nên nó mới có tác dụng thần hiệu với mấy người chẳng biết gì như anh đấy, đã gọi là linh vật thì nó chỉ để hút khách mà thôi. Tóm lại là anh chỉ cần quan tâm đến mấy con chuột lang nước thôi, nhớ mua một con thú nhồi bông về nữa.’
Sau đó tôi còn phải hứng chịu thêm mười phút hướng dẫn tỉ mỉ qua điện thoại, nào là phải quay phim lại từ góc nào, nào là phải chụp bao nhiêu kiểu ảnh, ấy thế mà đến lúc cúp máy Alice vẫn còn thở dài thườn thượt. Ấy chết, đã gần đến giờ hẹn với bên thiết kế rồi.
Rốt cục thì hình ảnh của mấy con chuột lang nước đang nhảy nhót cứ hiện lên trong đầu tôi giữa buổi họp, mà ngay từ đầu thì tôi đã bị phân tâm rồi. Một phần cũng là vì cái xưởng của công ty quảng cáo bừa bộn quá, những con búp bê chất đống trên tủ lẫn trên bàn, làm tôi nhìn đâu cũng nhớ tới phòng của Alice. Nhà thiết kế phụ trách công việc là một cô gái trẻ tên Mika-san. Chị ta nhuộm tóc màu vàng, gắn mi giả, sơn móng tay, dùng mascara đậm, và nói chuyện bằng giọng như nữ sinh trung học, tóm lại là kiểu người tôi đối phó kém nhất. Thật khó để nhìn vào mắt chị ta trong lúc nói chuyện
“Fujishima-san, cậu là người thiết kế trang web ư? Tuyệt vời, xuất sắc tuyệt đối! Vừa đơn giản lại hiện ngay lên trang đầu của công cụ tìm kiếm!”
Dù chị ta lớn tuổi hơn nhưng tôi cảm thấy gần như bị đè bẹp dưới năng lượng tươi trẻ của chị ta.
“Sao cậu không chỉnh lại logo của ban nhạc luôn, Fujishima-san? Tôi nghĩ thiết kế gốc cũng ổn nhưng nó không gây quá nhiều ấn tượng.”
“Em ấy ạ? Dạ, thôi…”
“Logo này được thiết kế bởi tay trống của ban nhạc, nhưng trọng tâm của nó thì hơi… Bọn họ là một ban nhạc nữ mà lại để phong cách kitsch, chẳng hợp tông gì cả. Fujishima-san, cậu nghe họ hát rồi chứ? Cảm giác phải sắc bén và căng thẳng hơn.”
Tôi gật gù vì thấy chị ta nói cũng hợp lý.
“À nhưng cậu cố gắng giữ lại con chim nhé, toàn bộ design đều dựa trên con chim đấy.”
Khoan nào, đừng coi như là tôi đã đồng ý luôn rồi! Trong đầu nghĩ như vậy còn tôi thì nhìn tờ giấy được trải ra trên bàn tiếp tân. Logo của ban nhạc được ghép bởi những chữ cái tiếng Anh, dấu chấm phía trên chữ “i” được thay bằng một chú chim nhỏ. Đúng là trông cũng dễ thương thật.
Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu. Tôi liền hỏi:
“Mình có làm cả áo phông nữa nhỉ? Chắc là chưa xong, phải không?”
“Bên bọn tôi sẽ lo chuyện này vào tháng tới, vấn đề quyền bán hàng đi kèm lằng nhằng quá!”
“Tại vì thế này, em có một người bạn chuyên bán quần áo second-hand. Cửa hàng đấy tên là Alan Garba, dạo gần đây cũng nổi tiếng lắm.”
Tôi gọi là một người bạn nhưng thực ra tôi và Alice mới đây đã giúp họ một chuyến lớn trong một vụ việc gần đây. Kể ra cũng dài dòng nên xin mạn phép dời sang dịp khác. Nghe tôi nhắc đến tên cửa hàng, Mika-san sáng mắt lên.
“Có chứ, tôi biết chỗ đó! Tôi đã đến đó vài lần, nghe bảo tiệm mới mở lại gần đây, phải không?”
“Vậy nếu chúng ta thêm logo của ban nhạc và ngày tổ chức sự kiện lên áo rồi bán ở nhiều nơi thì sẽ quảng bá được thêm chứ?”
Mika-san sung sướng nhún nhảy. Tôi thấy hơi lo khi thấy chị ta bày tỏ cảm xúc hồn nhiên như thế này.
“Được rồi, nhất trí luôn! À, nhưng mà… Phải làm sao giờ? Nếu không bắt đầu ngay từ bây giờ thì không kịp nữa. Kể cả bây giờ chúng ta thiết kế lại ngay và gửi cho bên sản xuất thì…”
“Em cũng biết một nhà sản xuất nữa, nhưng là một chỗ khác.”
“Ehhh-!?”
Mika-san chống tay xuống bàn, nhoài hẳn người về phía trước vì ngạc nhiên. Tôi mở trang web của tiệm Thủ công Wakagi của Yoshiki-san trên một chiếc máy tính notebook. Phạm vi mặt hàng của cửa tiệm vượt xa so với một ‘tiệm thủ công’, bao gồm cả phụ kiện nguyên bản làm bằng tay và còn nhận cả đơn đặt hàng của khách nữa. Trang giới thiệu sản phẩm liệt kê các phụ kiện theo phong cách nước ngoài lẫn Nhật Bản, các loại vải và đồ thêu.
“Tuyệt cú mèo! Nhà thiết kế này giỏi thật đấy. Cậu biết anh ta sao? Fujishima-san, cậu là ai vậy? Một học sinh cấp ba quen biết với Sou-san đã khó tin rồi, nhưng cậu lại còn có quan hệ khắp nơi nữa!”
…Tôi là ai ư? Chính bản thân tôi cũng muốn biết nữa.
Nhưng tôi còn chưa kịp giải thích với Mika-san rằng chưa chắc Yoshiki-san sẽ nhận lời thì chị ta đã nhấc điện thoại lên gọi tiệm Thủ công Wakagi.
“...Xin chào, tôi là… Tôi gọi vì muốn nhờ cửa tiệm giúp chúng tôi thiết kế một vài món đồ. Cùng với Hinamura Souichirou-san… Đúng rồi, là Fujishima-kun đã giới thiệu cho tôi… Vâng, vâng, đúng rồi, uầy, thật sao!? Đúng, đúng, là ban nhạc đó, vâng, vâng…”
Tôi ước gì mình có thể bắt chước khả năng làm việc dứt khoát của chị ta. Nghĩ vậy, tôi lại lo về những vấn đề rắc rối của việc bán đồ đi kèm mà chúng tôi vừa bàn tới. Hai chúng tôi tự quyết định một mình thế này có được không vậy?
“Để tôi chuyển máy cho Fujishima-san!”
Chiếc điện thoại được nhét vào tay tôi trong khi tôi còn đang ngỡ ngàng.
“Ừm…. Fujishima đây ạ. Fujishima Narumi.”
‘Narumi-kun đấy à? Cũng lâu rồi nhỉ… à mà đâu phải.’
Chất giọng hơi ồm dịu dàng của Yoshiki-san chỉ nghe thôi cũng làm người ta thư giãn. Bị chuyển máy bất ngờ, cũng may là tôi chưa lỡ lời nói gì thô lỗ.
“Em xin lỗi vì gọi đường đột thế này… Mới gặp anh lần đầu mà đã nhờ anh giúp chuyện này…”
“Không sao thật mà. Tôi lúc nào cũng hân hạnh khi được nhận những công việc liên quan tới quần áo. Về phần thiết kế, hay là mình bố trí một cuộc gặp riêng để thảo luận được không?’
“Dạ phải. Dĩ nhiên càng sớm thì càng tốt ạ. Khi nào thì tiện cho anh?”
‘Lúc nào cũng được, chỉ cần cậu tới chỗ tôi thôi. Rất xin lỗi, nhưng tôi không thể đi được xa.’
Cũng phải. Anh ấy đâu thể bỏ mặc cửa tiệm ở đấy được.
‘Công việc này liên quan tới việc của Hina đúng không? Cậu đưa cả Hina đến nhé? Lần đầu tiên tôi thấy nó ngại như thế, thú vị quá đi mất.’
Ồ, hóa ra lần đó là anh ta xấu hổ à? Người ta nói người nuôi chó lâu có thể hiểu được biểu cảm của chó cưng của mình, vậy chắc là đói với sói cũng tương tự nhỉ?
“Ừm… em vẫn chưa chán sống, nên tạm thời bỏ qua chuyện đó đi ạ. Chắc là đợt này Yondaime cũng đang rất bận nữa.”
Tôi vừa dứt lời thì ở đầu dây bên kia có một tiếng cười giòn giã.
Tôi trả lại ống nghe cho Mika-san, chị ta xác nhận lại chi tiết của dự án rồi dập máy.
Bước ra khỏi xưởng, nét mặt của Mika-san sa xuống, chị ta nhỏ giọng hỏi tôi:
“Hôm qua tôi nghe nói bên phía Sou-san đang gặp một vài vấn đề lạ. Hình như là có ẩu đả gì đó…”
“À thì… Ừm, vụ đó...”
Dù không báo cảnh sát nhưng tin tức về vụ hành hung đã lan nhanh, khiến tôi hơi bất an. Tôi đứng ngây ra một chỗ hồi lâu, lắp bắp một lúc rồi mới trả lời:
“Em nghĩ vụ đó không liên quan gì đến Yondaime và Hirasaka-gumi, chẳng có sao đâu.”
Cuối cùng tôi chỉ nặn ra được mấy lời xã giao để trấn an.
Theo thiển ý của tôi, trên đời này chẳng có gì sầu não hơn đi sở thú dưới nắng hè chói chang.
Từ lúc xếp hàng ở ngoài cổng để mua vé đã có không ít gia đình hạnh phúc đội mũ rơm đi ngang qua, còn tôi thì phải cố hết sức để giải thích với bà bán vé ở ngoài cổng. “Phiền bác ghi hóa đơn cho ‘Văn phòng Thám tử NEET’. Dạ… Văn phòng- Thám tử- N- E- E- T…” Tôi muốn chết quách đi cho rồi.
Cuộc nói chuyện ở công ty quảng cáo mất thời gian hơn dự kiến nên tôi không còn nhiều thời gian trước khi đến giờ hẹn ở phòng nhạc. Sau khi đặt báo thức điện thoại một tiếng đồng hồ, việc đầu tiên tôi làm là mua một xấp búp bê chuột lang nước mặt ngơ ngác ở tiệm lưu niệm và ghi hóa đơn cho cả chúng nữa. Nụ cười của cô thu ngân làm tôi thấy khổ sở.
Tôi không muốn thong thả ngắm nghía mấy con thú trong một ngày nóng bức thế này, nên tôi đi thẳng tới chỗ mấy con chuột lang nước sau khi xác định vị trí của chúng trên tấm biển hiệu. Trên đường đi, tôi lướt qua một vài cặp đôi và cả con nhỏ với làn da sạm nắng, nghe loáng thoáng những cuộc nói chuyện chẳng có nội dung gì. Chim cánh cụt dễ thương quá… Gấu trắng bắc cực xinh ghê… Tiếc là không còn gấu trúc nữa, nhưng mấy con gấu trúc đỏ cũng dễ thương…
Ở khu của lạc đà llama và lợn vòi, có một khối ục ịch to cỡ người ôm và một khối bé hơn đang rúc vào nhau. Chắc là hai mẹ con chuột lang nước. Vẻ mặt của chúng trông vừa vô hại lại vừa đần đần, chúng không những sợ sệt bọn llama và lợn vòi ở bên cạnh mà còn bị mấy con quạ bay qua dọa cho phát hoảng. Tôi chụp lia lịa bằng cái máy ảnh kĩ thuật số đa chức năng Alice cho tôi mượn, và chợt nhận ra rằng hình như cái máy ảnh hơi ươn ướt. Tôi cứ ngỡ rằng đó là mồ hôi, nhưng khi giơ cái máy ảnh ra xa tôi mới phát hiện ra nó bị ướt bởi nước mắt. Tôi đang khóc ròng ròng.
Hóa ra chuột lang nước sống thật kiên cường. Llama ăn cỏ, lợn vòi ăn giấc mơ, còn chúng thì ăn nỗi buồn của những kẻ nhỏ mọn và tầm thường như tôi để sống. Một luồng cảm xúc chẳng biết từ đâu ập xuống đầu tôi như một trận mưa rào. Sợ rằng cứ nán lại đây lâu thì tôi sẽ ngồi phịch xuống mà chẳng đứng dậy lại nổi, nên tôi lặng lẽ cất máy ảnh rồi rời khỏi chuồng thú.
Lúc đi về tôi mới chợt nhớ ra một chuyện. Bà chị chỉ đạo thiết kế mới bảo tôi lúc nãy là con chim trên logo ban nhạc gọi là… là gì ấy nhỉ? Hoét đen à? Biết đâu tôi lại tìm được trong sở thú. Một bức ảnh thật của nó chắc sẽ có ích khi làm việc với Yoshiki-san tới đây. Nghĩ vậy tôi liền quay lại chỗ bảng chỉ dẫn.
Lồng của các loài chim cao bằng bốn tầng nhà, trên những cành cao là các loài chim săn mồi. Tôi chạy ra hỏi ông chú trông giống người phụ trách ở đây.
“Hoét đen ấy hả? Hừm— chắc là ở đây không có đâu. Có một khu dành cho những loài chim phổ biến ở Nhật, nếu cháu tìm một con hoét hổ thì chắc là có ở đấy.”
Ông chú vừa nói vừa lấy mũ quạt liên hồi.
“Thường thì ở Nhật không nhiều hoét đen, nhưng ở châu Âu thì không hiếm đâu. Ở Anh thì chúng cũng như là chim sẻ ở Nhật ấy.”
Ra là như thế. Vậy thì đành tìm ảnh trên mạng thôi vậy. Dở ở chỗ là ảnh của những thứ thường gặp thì lại khó tìm ở trên mạng.
“Dạo này có trào lưu chim hoét đen à? Mới có biểu diễn rối hay gì hả cháu?”
“Dạ?”
“Nãy vừa có một cậu khác cũng hỏi tôi đấy. À, nhìn kìa, là cái cậu đứng đằng kia kìa.”
Tôi nhìn theo cái hất cằm của ông chú và bắt gặp một thanh niên cao lớn đang đứng chống tay lên lan can chuồng chim cánh cụt. Một vệt vàng nổi bần bật trên tóc anh ta, và chiếc áo phông— đúng nó rồi, là tôi đã mua đền anh ta.
“...Renj…san?”
Từ chỗ tôi đến chuồng chim cánh cụt vẫn còn xa, mấy con chim thì chí chóe inh ỏi, nhưng dường như anh ta vẫn nghe thấy tiếng tôi gọi và quay đầu lại. Phải cố gắng lắm tôi mới nhìn thấy đôi mắt đang nở to dưới cặp kính râm. Đúng là Renji-san rồi.
“Hay chưa kìa, phải Narumi đấy không—!?”
Nói rồi Renji-san lập tức sải bước thật mau lại gần tôi, hai tay nắm lấy vai tôi.
“Còn hơn cả tình cờ nữa! Không ngờ tui lại gặp cậu ở sở thú đấy!”
Tôi cũng vậy luôn. Anh đang làm gì ở đây hả trời?
“Áo phông! Áo phông của tôi, cậu có cầm không Narumi? Tôi lượn lại Dotoru một lần mà không thấy đâu cả.”
“À, đ-đúng rồi.” Ơ, tôi nhớ là mình có cầm nó về nhưng rồi lại để ở đâu rồi?
“Cái áo đó tôi quý lắm. Tôi tưởng mất mà tôi khóc mấy ngày trời luôn đấy, may quá—! Cảm ơn nhé!”
Renji-san túm hai vai tôi mà lắc uỳnh uỳnh để cảm ơn. Ông chú phụ trách nhìn tôi cười yếu ớt như muốn nói ‘chú không biết có việc gì nhưng trông vất vả quá, thôi cháu cố gắng’ rồi rời đi.
“Tôi cũng lo cho cậu dữ lắm đó. Để cậu liên lụy vào vụ đánh lộn, số điện thoại thì chẳng biết, mà mặt cậu thì nom nhạt nhẽo đến mức có đi ngang qua tôi cũng chẳng nhận ra, khí chất thì yếu nhớt, làm tôi cứ lo ba bữa nữa cậu lại ngỏm củ tỏi vì ngộ độc mất…”
“Ai mượn anh lo mấy chuyện đó!” Chả mấy khi có người lo lắng cho tôi, thế mà đến lúc được lo cho thật thì lại thành ra thế này đây!
Renji-san lấy bút ra ghi lại số điện thoại của tôi vào lòng bàn tay. Hình như ảnh không có điện thoại di động.
Nhưng trong thâm tâm tôi có một linh cảm kì lạ — làm sao giữa lòng Tokyo đồ sộ như vậy mà chúng tôi lại gặp nhau liên tục thế này được? Lẽ nào mới gặp nhau thoáng qua thôi mà đã thành cái “nợ” rồi? Nghĩ lại thì chúng tôi đã phải mỗi người một ngả trong lúc cuộc trò chuyện lần trước còn dang dở, chưa đâu vào đâu. Cái gì mà muốn thử kết bạn xem tình bạn ấy có tan vỡ hay không…
“Duyên” mà hóa “nợ” cũng chẳng có gì lạ.
Chẳng biết có nên hỏi luôn những chuyện còn chưa kịp nói hết hôm trước, cũng không biết có nên đứng ở chỗ này để nói chuyện không… thành ra chúng tôi chỉ nói mấy lời tầm phào xã giao.
“Ừm… khi nào thì em trả áo cho anh được nhỉ? Mà anh đang làm gì thế, Renji-san?”
“Ngắm chim cánh cụt này, gấu trúc này… rồi cả mấy loài quý hiếm, chẳng hạn như nam sinh cấp ba rảnh rỗi một mình chiều nay này.”
“Thôi đi! Anh làm gì có quyền nói em như thế! Em hỏi anh đang làm nghề gì cơ mà!”
“Cậu thấy rồi đấy thôi, là NEET.”
Hẳn rồi. Tôi bị đần nên mới đi hỏi câu đó. Tôi có thể cảm nhận một bầu không khí giống Hiro-san hay Tetsu-senpai từ anh ta, và đang tự hỏi không biết có phải vậy không. Nhưng thật sự tôi không muốn nghĩ mình đang trở thành một cái máy dò NEET, cho nên lúc hỏi tôi đã ước thầm trong bụng rằng ảnh có một cái nghề ngỗng gì đó tử tế.
“Đến Ueno hôm nay thực ra tôi còn việc nữa cơ, nhưng chả mấy khi có dịp nên tôi tranh thủ ghé qua sở thú luôn. Tại tôi mới biết tên ban nhạc mà dạo này tôi hay nghe có nghĩa là hoét đen, nên tôi mới đến đây xem nó trông như thế nào. Rốt cục lại chả có con nào ở đây cả.”
Tôi không nhịn được mà phải nhìn chằm chằm Renji-san thêm lần nữa.
Vậy là ảnh… có cùng mục đích với tôi ư? Tôi nghĩ đây không thể hoàn toàn là trùng hợp được. Nguồn gốc của tên ban nhạc mà lại nổi tiếng thế ư? Họ mới là một ban nhạc indie, mà cũng chưa có nhiều sự kiện đình đám…
“Đã thế gấu trúc cũng không có nốt. Người ta bảo chết hết rồi. Giờ chuồng gấu trúc lại dành cho gấu trúc đỏ, làm tôi cứ nghĩ Rin Rin chuyển thành màu nâu rồi tách làm đôi chứ!”
Ờ, phải.
“Tokyo thay đổi nhiều quá.”
Ngắm nhìn mặt nước trong chuồng sư tử biển, một thoáng cô đơn lướt qua gương mặt của Renji-san.
“...Anh vốn là người Tokyo phải không? Anh xuống vùng Kansai bao lâu rồi?”
Renji-san ấn cặp kính sâu lên mũi rồi quay lại nhìn tôi chằm chằm. Bất ngờ thay, đôi mắt ấy như ngấn lệ.
“Tôi kể mình là người gốc Tokyo khi nào nhỉ?”
“À, không… có đúng không ạ? Em chỉ thấy anh nói tiếng Kansai cứ không tự nhiên thế nào ấy.”
Phải rồi. Cảm giác mà tôi nhận thấy từ người này không giống Tetsu-senpai lẫn Hiro-san…
“Em thấy giống như anh đang cố tình nói vậy để tỏ ra dễ chịu.”
Giống Yondaime hơn. Ấy là nếu Yondaime cố gắng chọc cười người khác thì sẽ giống y chang Renji-san.
Bởi vì cặp mắt ẩn sau cặp kính râm đó thuộc về loài sói hoang.
“Trước kia em cũng sống ở Kanssai rồi, em nghe là biết ngay. Renji-san, lúc nói tiếng Kansai thi thoảng anh lại quen mồm đệm tiếng Nhật chuẩn vào, phải không? Người gốc Kansai thì phải là ngược lại, tức là họ nói tiếng Nhật chuẩn nhưng lâu lâu lại dùng giọng Kansai.”
Tới lúc đó mới nhận ra giọng mình hơi tỏ vẻ dạy đời làm tôi bỗng dưng thấy ngượng.
“Ừm… nếu không phải thì em—”
“Cậu bảo tôi gốc Tokyo không sai. Cách đây năm năm tôi vẫn còn sống ở đây. Trông cậu ngố như con chuột lang nước mà lại có chỗ bén nhạy không ngờ.”
Renji cười và thụi nhẹ nắm đấm vào ngực tôi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nụ cười tự nhiên của anh ta.
“Nhưng đằng này cũng không đi Kansai đâu. Chỉ quanh quẩn ở Chiba thôi.”
Tôi bối rối lắc đầu. Thế thì ảnh nói giọng Kansai để làm gì?
“Tôi có vay mượn chỗ này chỗ kia rồi thành dân lang bạt chẳng nghề ngỗng gì cả. Ở Chiba ấm hơn.”
“Ừm… vậy sao anh không về nhà?”
“Bố mẹ tôi mất lâu rồi.”
Ra vậy. Tôi chấp nhận sự thật và ngả lưng tựa vào lan can, nhìn mấy cô bé tiểu học đang ngồi trên ghế háo hức xúc những thìa đá bào.
Renji-san nghiêng đầu nhìn một bên mặt tôi.
“...Cậu này kì ghê. Bộ không muốn hỏi gì nữa hả?”
“Hỏi gì nữa ạ?”
“Ừ thì người ta chí ít cũng hay nói rất lấy làm tiếc hay gì đấy chứ. Rồi thì là do bệnh hay do tai nạn… đại loại thế.”
“Nhưng anh không thấy bị hỏi mấy câu đó rất phiền à?”
Mắt Renji-san hấp háy, ảnh quay lưng lại với mấy con chim cánh cụt. Một đám trẻ con nô đùa náo nhiệt chạy ngang qua chúng tôi, và rồi chỉ còn lại cái nắng uể oải của buổi chiều và mùi phân động vật phảng phất.
Bỗng dưng Renji-san hỏi tôi:
“Bố mẹ cậu cũng thế hả?”
Tôi cúi đầu, dán mắt xuống hai bàn chân.
Anh ta nhận ra ư? Chỉ qua mấy câu ngắn ngủi đó thôi?
Mà chắc là cũng đoán được thôi. Tôi nghĩ chúng tôi đều đã từng trải qua cùng một chuyện, cùng từng phải nuốt trôi cảm giác bồn chồn. Tôi chợt cảm thấy bất an. Phải chăng tôi ăn nói tồng tộc quá nên đã làm Renji-san phật lòng rồi sao? ‘Anh không thấy bị hỏi mấy câu đó rất phiền à?’ Ai mà hỏi tôi như vậy thì tôi cũng khó chịu, người đâu mà ích kỉ. Nó cũng như một vết loét trong mồm, có dùng răng hay lưỡi khều tới khều lui cũng không tìm ra nó ở góc nào.
“...Mẹ em mất rồi. Bố thì ít khi về nhà.”
“Nom cậu đâu biết tự lo cho bản thân, trước giờ xoay xở ra sao?”
Renji-san hỏi kèm theo một nụ cười tinh nghịch làm tôi ít nhiều cảm thấy nhẹ nhõm.
“Em có chị lớn nữa. Chị ấy đảm đang hơn em nhiều. Bố thì vẫn gửi tiền sinh hoạt cho hai chị em.”
“Cậu đang trên đà trở thành NEET rồi đấy.”
Người mới gặp tôi hai lần cũng thấy vậy hả? Tương lai sao mà mù mịt quá.
“Bố cậu… ổng có thương cậu không?”
“...Sao tự dưng anh hỏi thế?”
“Hỏi thì hỏi thôi. Lúc tôi biết thì ông già nhà tôi đã bỏ nhà theo gái rồi, nên tôi cũng chẳng biết cảm giác đó như thế nào. Tôi muốn biết những ông bố đối xử với con mình thế nào.”
“Em cũng không chắc nữa. Nhưng căn bản là em nghĩ người cha nào cũng yêu con thôi.”
“Ồ! Không ngờ cậu lại trả lời vậy đó.”
“Bởi vì người ta vẫn nói cha mẹ yêu thương con vô điều kiện mà.”
“Thôi mấy câu sến chảy nước làm người ta dựng da gà với cái quả giọng nhà đài đấy đi.”
“Em nghe cả người khác cũng nói vậy mà. Người ta bảo trẻ con được xếp trong một căn phòng trên thiên đàng trước khi được sinh ra, sống trong sung sướng, thế rồi chúng bị bố mẹ kéo xuống trần gian và sinh ra mà chẳng được hỏi ý kiến. Nếu cha mẹ cứ mặc kệ chúng ta ở đấy thì đã chẳng phải chịu khổ dưới trần gian, chẳng phải lo sống chết.”
“Truyện gì nghe kì vậy trời.”
Công nhận đấy, tôi đang lải nhải cái gì không biết nữa. Ngay chính tôi cũng muốn tự tsukkomi mình. Trời nắng đẹp đến nhường này, được ngắm nhìn những loài chim đến từ cả cực Bắc lẫn cực Nam của Trái Đất, mà tôi lại…
“Em chỉ đang giải thích nghĩa vụ phải chăm sóc cho con cái của cha mẹ.”
“Đằng này dốt lắm, cậu nói đơn giản thôi.”
“À thì… tức là, từ lúc sinh con ra, cha mẹ đã thiếu nợ con cái rồi, cho nên phải yêu thương chúng vô điều kiện mới là phải phép… đại khái thế.”
Renji-san nheo mắt nhìn tôi cứ như ảnh đang phải nhìn giờ tàu chạy từ bên kia đường ray.
“Narumi, cậu hay nghĩ đến mấy chuyện này phỏng? Chả trách anh bô nhà cậu không muốn về nhà.”
“Ừm, trước kia lúc trốn học em hay nghĩ vẩn vơ mấy chuyện này. Nhưng bây giờ… chắc là hết rồi.”
“Sao lại thế? Giờ hạnh phúc rồi nên không cần vò đầu lăn lộn như thằng dở hơi nữa hả?”
Renji chọt cùi chỏ vào sườn để trêu tôi. Nhưng sự thực đúng như anh ta nói. Tôi đã gặp được nhiều người, họ khiến tôi cảm thấy… hơn một chút. Tôi nghĩ mình đã trưởng thành hơn một chút, chỉ một tí xíu mà thôi.
“Bị trêu thế mà cậu vẫn nghĩ đằng này là người tốt à? Người lớn quá đi mà.”
“Anh tự biết thế thì tém tém lại giùm!”
Renji-san ngẩng đầu nhìn mặt trời tháng Bảy chói lọi đã lặn xuống từ khi nào rồi bật cười. Sau đó anh ta mua hai cốc đồ uống ở quầy ăn uống và cầm lại về chỗ tôi.
“Tôi mời lại cậu một ly, thế là mình huề nhé.”
“Trong mắt anh em rẻ tiền vậy thôi hử?”
“Narumi, đằng này mua hẳn cho cậu ly cỡ lớn đó.”
“Quý hóa quá đi mất!”
Tôi giật lấy chiếc cốc giấy trong tay Renji-san. Răng tôi vừa chạm vào ống hút thì anh ta đột nhiên hỏi:
“Narumi, năm năm trước cậu đã từng sống ở đây chưa?”
“...Chưa. Bố em chuyển công tác liên tục. Em không nhớ cụ thể từng nơi nhưng đều không phải ở Tokyo.”
“Thế thì chúng mình chưa từng có cơ hội gặp nhau nhỉ.”
“Gặp… là sao?”
“Nếu gặp được người như cậu thì có khi ngày đó tôi đã chẳng phải rời bỏ Tokyo…”
Renji-san lẩm bẩm. “... Ngày về cũng chẳng thành ra như thế này.”
Thật sự trông anh ta còn mong manh hơn khi đeo đôi kính râm đó lên.
“Thực ra lúc đâu tôi có muốn quay về đâu. Thôi bỏ đi… gặp được một người hay ho như cậu rồi, coi như xí xóa.”
Renji-san nâng cốc của mình lên, nhăn răng cười. Một nụ cười cô đơn.
Sao anh ta lại phải rời Tokyo đi tha hương, và vì sao anh ta lại quay về đây?
“Anh không có ai thân thích ở đây thật à?”
Biết rằng đó là một câu hỏi không tế nhị nhưng tôi vẫn phải hỏi cho rõ.
“Ừ. Có kha khá bạn ăn chơi, nhưng chẳng có ai là bằng hữu thực sự. Rặt một đám NEET lêu lổng không xu dính túi, cũng chẳng nhờ cậy được việc gì.”
“Tại vì anh cứ nói cái gì mà thử kết bạn ấy.”
“Chắc vậy thật.”
Tiếng cười của Renji-san nghe như tiếng bánh xe đạp quay lúc không chạm đất.
“...Cho nên em mới nói anh không cần phải thử kết bạn. Ừm… có thể em không rảnh vì bận việc, nhưng đang dịp nghỉ hè, nếu có lúc nào trống thì cứ gọi cho em.”
“Cậu cho tôi vay tiền luôn hở?”
“Không! Ý em là em có thể đi cùng nếu anh muốn đi mua sắm!”
Renji-san vỗ vai tôi nhè nhẹ, khóe miệng hơi nhếch lên. Tôi tự nhủ, có phải đây mới là nụ cười thật sự của anh ta.
“Còn phải hỏi nữa. Tôi vẫn còn phải xin lại cái áo chứ. Nếu thiếu một chân mạt chược, có là đêm khuya tôi cũng sẽ gọi cậu.”
“Món đó thì em xin kiếu.”
“Đừng chỉ ‘thử làm bạn’ hả? Cũng đúng nhỉ?”
Anh ta bỗng nhiên nhìn tôi bằng ánh mắt nghiêm nghị, làm tôi phải nuốt nước miếng trước khi gật đầu.
Tôi chợt nghĩ có lẽ trước kia anh ta đã bị phản bội chăng? Nếu không thì việc gì phải đề phòng như vậy. Có điều… sao anh ta lại không trở nên giống tôi của ngày trước, rúc vào thế giới riêng của mình? Liệu có phải vì nỗi cô đơn tột cùng đã khiến đến cả việc đó anh ta cũng không làm được?
“Vậy thì, Narumi này…”
Renji-san dí sát chiếc cốc giấy màu trắng đọng đầy nước vào mặt tôi.
“...Sao thế?”
“Thế này nhé. Narumi, để tay cậu ra đây, như thế này nè… bắt chéo nhau qua đây.”
Tôi ngơ ngác làm theo hướng dẫn của Renji-san, hai cánh tay cầm cốc của chúng tôi ngoắc vào nhau.
“Cạn ly.”
Khi chạm môi vào ống hút, hai cánh tay của chúng tôi khép lại thành hai mắt xích nối vào nhau.
Tôi biết nghi lễ này— chính tôi đã trở thành huynh đệ với một người như thế này rồi.
“Tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm… gì gì đó. Đáng lẽ ra phải cần thêm một người làm chứng, một người trung gian nữa, nhưng thôi cứ coi con gấu trắng kia là trung gian cũng được. Chỉ có động vật là không biết nói dối.”
Nói rồi Renji-san uống sạch cốc coca của mình.
“Từ trong thâm tâm, có lẽ tôi chẳng còn tin vào tình bạn nữa.”
Lời Renji-san nói tan vào không gian giữa hai chúng tôi cùng với những bong bóng soda.
“Thế nên… chúng mình mới kết nghĩa huynh đệ à?”
“Cậu cũng biết hả?”
Tôi chẳng biết phải trả lời sao. Đó là nghi lễ trong phim Ben-Hur— mà cũng chẳng phải, nó chỉ là một cách thể hiện tình bằng hữu giữa hai bậc nam nhi khi nâng cốc cùng nhau. Thế nên—
Tôi chưa thể nói anh ta có liên quan tới Yondaime.
Nhưng mà…
“Tôi biết việc mình mất hết bạn bè chủ yếu là lỗi ở mình.”
Renji-san vò chiếc cốc giấy lại.
“Tính tình thì lươn lẹo, lại không biết tự kiềm chế, ăn nói thì cẩu thả. Ngày xưa tôi cũng từng có một người bạn thân ở Tokyo này, nhưng nghĩ đến vì một chuyện cỏn con mà tôi đã đoạn tuyệt với cậu ta lại khiến tôi thêm buồn. Cho nên, nói sao nhỉ, tôi nghĩ chí ít mình cũng nên để lại một hình thù.”
Tôi nhìn chăm chăm vào chiếc cốc đang sủi bọt, nguội dần trên tay mình.
“Tôi từng nghĩ chừng nào còn sống trên cõi đời này sẽ chẳng bao giờ có một người bạn chí cốt hơn cậu ta. Cho nên tôi với cậu thì nên kết nghĩa huynh đệ luôn.”
“Rồi cuối cùng—” Cuống họng tôi khô khốc. “Có chuyện gì… xảy ra sao?”
“A ha ha! Cuối cùng thì đúng như tôi đã dự cảm, hai thằng đánh nhau một trận rồi tuyệt giao với nhau. Từ đấy cũng bỏ luôn cái trò kết nghĩa huynh đệ hão này. Âu cũng là số kiếp của tôi đấy mà.”
Từ tận thâm tâm, tôi thấy may mà Renji-san đang đeo kính râm. Giả như lúc ấy anh ta nhìn thẳng vào tôi bằng ánh mắt tràn đầy hi vọng, chắc tôi sẽ không chịu nổi mà bỏ chạy mất.
“Không hiểu vì lẽ gì mà giờ tôi lại phải quay lại Tokyo này chỉ để sinh sự với hắn. Thế này là sao chứ? Tại sao tôi… lần nào cũng vậy.”
Từng lời Renji nói ra rơi xuống mặt đường nhựa bỏng rát, cháy xèo xèo. Anh ta lắc đầu rồi nuốt chúng xuống.
“Xin lỗi vì bắt cậu cùng chơi trò này. Cảm ơn nhé!”
“...Không, đừng cảm ơn em.”
“Ta cứ coi như đây là một giấc mơ trước khi rượu tàn. Chắc sau này cậu chẳng muốn lại gần tôi đâu nhỉ, Narumi?”
“Làm gì có chuyện đó được!”
Tôi có nên nói gì không nhỉ? Biết nói gì mới được chứ? Vừa mới uống coca mà mồm miệng tôi đã khô ráo cả. Đang vắt óc nghĩ xem phải nói gì thì trong túi tôi réo ầm lên. Là báo thức điện thoại. Hỏng rồi, sắp đến giờ hẹn. Tôi nên làm sao đây? Tôi vẫn còn nhiều điều muốn nói với Renji-san. Anh ta có quan hệ gì với Hirasaka-gumi? Tôi còn nhớ mấy gã xỏ khuyên tới sinh sự ở phòng nhạc ở Harajuku hôm trước có nhắc đến Hirasaka-gumi. Chắc chắn không phải là do tôi tưởng tượng ra đúng không.
“Cậu còn có hẹn nữa hả?”
Renji-san ném cái cốc giấy bẹp dí trúng phóc vào thùng rác cách đấy mấy mét.
“Ể? À, đâu… vâng, em phải chạy đến phòng nhạc ngay bây giờ, thành ra…”
“Phòng nhạc?”
Renji-san lại nghiêm nghị tiến sát lại. Mặt tôi hơi tái đi, nhưng tôi vẫn lí nhí đọc được tên của cái livehouse đó, còn Renji-san lập tức cau mày lại khi nghe thấy nó.
“Đừng đến đó thì hơn.”
“...Ơ?”
“Tôi bảo đừng là đừng. Hôm nay đừng đến.”
“T-tại sao?”
“Đừng đi.”
Lời anh ta nói xoáy sâu vào lòng tôi, để lại một cảm giác kì lạ khó tả như chèn vào giữa những rẻ sườn của tôi, kể cả sau khi anh ta đã bỏ đi.
Đi ven theo bờ hồ Shinobazu sau khi ra khỏi sở thú, tôi cứ nghĩ mãi về Renji-san. Dù anh ta có nói vậy tôi cũng không thể bùng hẹn được, và vẫn tiếp tục bước về phía phòng nhạc.
Trong lòng tôi thấy bất an. Mặc dù có nhiều cách để xác nhận mối liên hệ giữa Renji-san với Hirasaka-gumi, cách đơn giản nhất là gọi điện hỏi thẳng Yondaime, mà riêng việc đó tôi không làm được.
Nếu tôi cứ mặc kệ nó đi thì anh ta chỉ là một người bạn vong niên mà tôi tình cờ gặp được trong một ngày hè oi bức.
Cứ mặc kệ đi có lẽ là cách hay hơn cả.
Thế là tôi cứ để vô vàn câu hỏi rối bời như mớ rong biển quấn lấy đầu lưỡi mình, nhổ ra không được mà nuốt vào cũng không xong, và hòa vào đám đông trên phố Mỹ ở Ueno, bước về hướng Okachimachi sau khi vượt qua đoạn đường sắt.
Thành ra tôi không để ý thấy điện thoại đang của mình reo lên.
Tiếng còi hú và ánh đèn đỏ vụt qua tầm mắt của tôi từ bên phải. Một chiếc xe cứu hỏa. Ngẩng đầu lên, tôi thấy khói đen bốc lên từ một tòa nhà ở phía tôi đang hướng về. Giật mình, tôi vội vàng lấy bản đồ mới in ra khỏi túi và xác nhận lại.
Chính là tòa nhà của livehouse đang bị cháy. Tôi chạy vội đến nhưng đám đông hiếu kì ùa ra từ những cửa tiệm xung quanh chặn kín con đường hẹp làm tôi không thể nhúc nhích. Tôi cố len lỏi qua đám đông, phải mất công lắm tôi mới đến được phía trước tòa nhà. Những cột khói dày đùn lên từ cầu thang dẫn xuống tầng hầm, một vài thanh niên cả nam lẫn nữ vừa bước lên vừa ho sặc sụa.
“Mọi người tránh ra nào! Tránh ra!”
“Này! Ở bên trong đang bị quá tải điện!”
“Nhường đường cho người bị thương!”
Lính cứu hỏa hò hét inh ỏi. Tôi bồn chồn dán mắt vào tấm biển báo ở bên cạnh lối vào của tòa nhà. Không nhầm đi đâu được, tầng -1 chính là phòng nhạc mà tôi phải đến. Tôi chạy vội tới chỗ một đám nhân viên mặc áo sơ mi cổ rộng màu đỏ đang ngồi thụp xuống mặt đường để hỏi han.
“Ừm- em là Fujishima mới gọi đến hôm trước đây ạ, em có hẹn với mọi người hôm nay!”
Một người đàn ông để tóc đuôi ngựa ngẩng đầu lên nhìn tôi với vẻ thiểu não.
“...Hẹn gì nữa? Này cậu kia, giờ nào rồi mà còn hẹn mới chả hò.”
“Có chuyện gì xảy ra thế ạ?”
“Có trời biết.” “Tự dưng điện tắt ngóm—” “Hình như có ai trong bếp làm đổ cái gì ấy.”
“Có kẻ phá hoại cầu dao tổng!” Một người đích thị là nhân viên chạy ra từ trong làn khói mù mịt gào lên với lính cứu hỏa, mặt anh ta lấm tấm tro lẫn nước mắt. Cầu dao tổng bị hỏng ư? Thế này là sao? Rốt cuộc là đã có chuyện gì?
“Cháy bé thôi, không sao cả!” “Dập được lửa rồi.”
“Vẫn còn nhiều người bị kẹt trong thang máy! Ưu tiên cứu người ta ra trước!”
Những tiếng kêu thảm thiết đan vào nhau trong không trung. Lời Renji-san nói lúc nãy lại vang lên trong đầu tôi—
‘Đừng đi. Hôm nay không được đi.’
Chuyện này—sao có thể như vậy được? Phải chăng… anh ta nói về vụ này sao?
Tôi ngồi thụp xuống bên lề đường, tay ôm lấy chiếc túi đựng thú nhồi bông. Những người lính cứu hỏa mặc đồ chống lửa óng ánh liên tục lướt qua tầm mắt tôi, có lúc họ còn giẫm phải tôi nữ, nhưng lời nói của Renji-san, nụ cười của loài sói, và cả nụ cười bình thường cùng với mùi vị của cốc coca chúng tôi uống cùng nhau vẫn quanh quẩn trong tâm trí tôi. Không chỉ tiếng kêu gào của lính cứu hỏa, cơn đau trên người, và cả không gian kì quặc xung quanh, tôi còn không cảm nhận được cả nhịp đập của tim mình nữa.
Phải tới khi tiếng phanh gấp rít lên và làn khói xe nóng hổi phà lên mặt tôi mới bừng tỉnh lại. Khi ngẩng đầu lên, tôi chỉ thấy một màu xanh lấp loáng. Tôi biết màu xanh này — nó là một chiếc xe mà tôi đã rát quen. Cửa ghế lái bật mở, và một bóng người mặc áo choàng màu be và quần tây lao ra ngoài.
“Narumi-kun! May quá, bọn tôi tìm thấy cậu ngay!”
“...Hiro…san?”
Sao Hiro-san lại ở đây. Tôi vẫn chưa hoàn hồn hẳn. Nhìn quanh một hồi, tôi nhận ra mình đang ngồi trước một cái cửa cuốn cách đám cháy không xa. Tôi mê man ở đây được bao lâu rồi? Đám đông hiếu kì đã bỏ về từ lâu, lối vào tòa nhà đã bị dán băng phong tỏa, một vài cảnh sát mặc đồng phục cũng đã có mặt ở hiện trường.
“Có việc gì không? Narumi-kun vừa chạy từ trong đấy ra phải không?”
“K-không ạ. Lúc em đến thì đã—”
Cửa ghế sau lập bập mở làm tôi hết hồn. Vẫn mặc pajama và vớ dài, quên cả mang giày, Alice đang đang cố dùng hai tay như hai cọng bún của mình để đẩy cánh cửa xe ra và bước xuống đường.
“T-từ từ nào!”
Tôi đứng phắt dậy, chạy tới đẩy Alice lại vào bên trong xe.
“S-sao em lại đến đây, Alice?”
“Còn dám hỏi tại sao nữa hử!?”
Ngồi trên ghế xe, Alice mếu máo nhìn tôi, hai nắm tay bấu chặt lên ngực tôi.
“Khi biết tin vụ cháy, em gọi anh bao nhiêu lần mà anh cũng không nhấc máy, còn tín hiệu GPS thì cứ nằm yên ở hiện trường không nhúc nhích, thế mà anh còn dám hỏi vì sao hả?!”
“À…” Tôi đút tay vào túi quần. Có cuộc gọi mà tôi chẳng để ý thấy nó rung tẹo nào.
“Cái đồ… cái đồ này! Em cứ nghĩ anh đã cháy thui rồi, để xem óc anh chảy ra như bơ thì suy nghĩ có mượt mà hơn không, nhưng hóa ra anh đang ngồi bó gối ở đây để tập làm ăn mày ở xó đường, em cũng hết cả lời để mắng anh rồi đây!”
Nhưng thay vì không còn từ nào như cô ấy vừa nói, Alice lại đang mắng tôi xối xả, lại còn vừa mắng vừa khóc nữa, làm tôi cũng sắp chập mạch đến nơi. Tôi chỉ còn nước đẩy Alice vào ghế xe, sau đó tôi cũng theo sau và sập cửa lại. Mong sao chuyện này không ai hay biết gì cả. Hiro-san ngồi vào ghế lái và kéo dây an toàn.
“Làm anh sợ hết hồn. Tự dưng bị gọi đến quán Hanamaru, rồi Alice lại còn chạy xuống trong bộ dạng như thế nữa.”
“Hiro ngốc! Im đi!”
Alice thụi lia lịa vào phía sau ghế lái, nước mắt tèm lem, còn tôi chỉ thấy cô nàng thám tử NEET mặt đỏ gay vì khóc trước mắt mình thật khó tin.
Cô nàng hikkikomori này chỉ ra khỏi phòng thôi đã khó thở rồi, ấy vậy mà…
“...Anh xin lỗi nhé. Xin lỗi vì làm em lo lắng.”
“Đã bảo bao nhiêu lần rồi!? Trong đời em chưa từng xuất hiện một khái niệm lãng phí thời gian như là lo cho anh cả!”
Hai nắm tay của Alice giã liên tục lên đùi tôi.
“Em l-lo cho… hức… cho con chuột lang nước em bảo anh mua kia kìa!”
“Ừ… được rồi…”
Nếu cô ấy cứ phải lo cho một thằng trợ lý bất tài như tôi thì lo biết bao nhiêu cho đủ. Nghĩ vậy làm tôi thấy mình thật tồi.
“Ừm… Con gấu bông vẫn không việc gì này. Anh có nhớ mua nó mà, vẫn tươi nguyên đây thôi.”
Khi Alice thấy tôi lấy ra một vật màu cà phê ba lớp từ trong túi, cô ấy bỗng nổi đóa lên.
“Đây là nhân vật Chuột Lang Nước, chứ không phải con chuột lang nước, cái đồ vô tích sự này! Em biết thừa là cái đồ đần nhà anh không phân biệt nổi trăng tròn với bánh dưa hấu, nhưng em không ngờ là nó lại thậm tệ đến mức này!”
“Hở? Là sao? Đây không phải chuột lang nước thì còn là cái gì nữa?”
“Rõ ràng là khác hẳn nhau! Đây là nhân vật hoạt hình do một kẻ chẳng biết gì về chuột lang nước vẽ nguệch ngoạc ra! Em muốn con chuột lang nước nhồi bông giống hệt con thật mà có mũi vuông vuông cơ!”
Alice mặt đỏ phừng phừng, dậm thình thịch trên ghế ngồi, còn tôi chỉ biết nín thinh. Thế quái nào vậy, rõ ràng là giống hệt nhau mà. Hiro-san cười ngượng: “Anh sắp nổ máy này, cài dây an toàn cho Alice giúp anh với.” Chiếc xe bỗng vọt lên phía trước, làm cả người tôi dính vào lưng ghế.Phải tới lúc đó tôi mới nhận ra tim mình đang đập thình thịch.
“Thôi dẹp chuột lang nước qua một bên, mau báo cáo tình hình ở hiện trường xem nào. Anh có biết nguyên nhân hỏa hoạn không? Có phải là do đám người tự xưng là Hirasaka-gumi hôm bữa không?”
“À…”
Cổ họng tôi nghẹn lại.
Ừ nhỉ. Cũng có khả năng là vậy thât. Tôi nghe có người nói cầu dao tổng bị cố ý phá hỏng…
Khoảnh khắc ấy trong đầu tôi hiện ra hình ảnh của tiếng kêu đinh tai và mùi nồng nặc của kim loại chà sát lên nhau, chúng in dấu lên một tấm phim rõ ràng.
Renji-san có nhắc tới ban nhạc mà tôi và Yondaime đang quảng bá, rồi lại phản ứng một cách kì lạ khi tôi nhắc tới tên của livehouse. Như vậy tức là—
Chúng tôi gặp nhau ở Ueno chẳng phải tình cờ.
Từ cái nắng chói chang, đến mùi vị của cola đọng trên môi, hơi ấm từ cổ tay Renji-san khi chúng tôi ngoắc tay dần tan đi khi tôi tỉnh mộng, người tôi hơi run lên vì lạnh. Cái lạnh có lẽ không chỉ đến từ điều hòa được vặn hết mức trong xe.
Tôi thực sự không muốn tin vào điều đó… Nhưng mọi suy luận đều ăn khớp.
Điện thoại tôi reo lên trong túi quần.
“...A lô?”
‘Chú mày vừa đến Ueno hử? Có gặp hỏa hoạn không? Thiệt hại có nghiêm trọng không?’
Giọng Yondaime ở đầu dây bên kia thản nhiên một cách lạ thường.
“Không, lúc em đến thì ở đấy đã… Cháy không to lắm. Em nghe nói là do hỏng điện, cầu dao tổng của tòa nhà bị hư hại.”
Tôi nuốt nước bọt. Cần phải nói với anh ta về Renji-san nữa, nhưng tôi phải nói như thế nào đây? Tôi không có bằng chứng gì cụ thể, và cũng không có nhân chứng nào thấy thủ phạm tận mắt.
Bất luận thế nào tôi cũng phải nói ra cho bằng được. Đúng lúc tôi chuẩn bị cất lời thì Yondaime lại bắt đầu trước:
‘Thế mày có thấy không?’
“Thấy gì cơ?”
‘Tao hỏi mày có nhìn thấy cái đứa phá hoại nó bỏ chạy không!’
“K-không. Em còn không biết thủ phạm là ai…”
‘Thôi khỏi. Từ nay không cần chú mày phải lo chuyện đó nữa.’
Giọng của Yondaime giống như một cái bong bóng nhỏ trồi lên trên bề mặt của một biển dầu, sâu thẳm và đục ngầu.
“...Ơ?”
‘Đã bảo chỉ cần tập trung vào việc quảng bá sự kiện thôi! Tao đánh hơi được bọn ăn cắp áo phông rồi. Chú mày và Alice đừng có mó tay vào chuyện này.’
“Anh bắt được rồi hả? L-Là ai đã lấy thế?”
Lọn tóc nhuộm và cặp kính râm lại thoáng qua trước mắt tôi.
‘Đã bảo không phải việc của mày!’
“T-từ từ đã nào!”
Đầu dây bên kia dập máy. Tôi chết trân nhìn chiếc điện thoại câm nín trong lòng bàn tay, rồi đảo mắt nhìn quanh chiếc xe mở điều hòa lạnh cóng.
Tới khi ánh mắt tôi chạm phải Alice tôi mới dừng lại.
Tôi gập điện thoại lại như muốn đập nó nát vụn.
“Thủ phạm vụ lần trước… Yondaime nói đã bắt được rồi. Anh ta bảo chúng ta đừng can thiệp nữa.”
Làm sao Yondaime tìm ra thủ phạm nhanh vậy? Từ hôm đó tới nay mới được có hai ngày.
“Tờ rơi truy nã em in hôm trước đã được phát khắp nơi trên tuyến Yamanote rồi. Hơn nữa còn có cả một nhóm người cơ mà. Hirasaka-gumi mà dùng toàn lực để tìm thì kiểu gì cũng ra thôi. Quan trọng là anh thì muốn làm gì tiếp nào?”
Làm gì tiếp à? Có lẽ tôi nên cứ nghe lời Yondaime, mặc kệ những tiếng kêu thảm thiết và những tiếng còi báo cháy, chỉ tập trung làm quảng bá sự kiện thôi?
Đời nào tôi lại làm vậy được.
“Để anh nói chuyện trực tiếp với Yondaime. Hiro-san, phiền anh cho em xuống ở ga trước khi về tiệm Hanamaru được không?”
Hiro-san gật đầu, mắt vẫn không rời kính trước.
“Để anh thả cậu đến tận văn phòng luôn.”
“Thôi ạ, anh đưa Alice về trước đi.”
Cô nàng thám tử NEET bị chứng sợ ra ngoài này không thể ra khỏi văn phòng lâu được. Thế nhưng Alice vẫn ôm chặt lấy con chuột lang nước nhồi bông đến nỗi nó móp hẳn đi, nhỏ giọng nhưng cương quyết nói vào sau gáy Hiro-san.
“Tôi cũng đi cùng.”
Tôi ngỡ ngàng nhìn Alice, nhưng chỉ được đáp lại bởi một cái lườm nguýt.
“Anh mà đến một mình thì kiểu gì cũng bị Yondaime đuổi về ngay tức khắc. Phải dùng đủ lý luận để anh ta phải thừa nhận tính đúng đắn của việc chia sẻ nội dung thông tin với chúng ta.”
“Thế thì cứ gọi điện…”
“Narumi-kun, cậu đi một mình là thế nào cũng bị Yondaime đánh cho thừa sống thiếu chết. Alice không nỡ để cậu như thế đâu.”
“Ai thèm lo chứ! Hiro, im ngay!”
Hiro không trả lời mà chỉ lẳng lặng dậm chân ga.
“Đã bảo mấy người đừng có chõ mũi vào cơ mà!”
Yondaime ngồi sau bàn làm việc trong văn phòng của Hirasaka-gumi, cau có ra mặt. Đã sang hè rồi nhưng anh ta vẫn mặc chiếc áo choàng in hình rồng Trung Hoa, đồng nghĩa với việc sẵn sàng chiến đấu.
“Nee-san, Aniki, Ojiki, mọi người vất vả rồi ạ!” “Vất vả rồi ạ!”
Đám chân tay của Hirasaka-gumi xếp thành hai hàng trong phòng, cúi đầu hạ giọng chào khi chúng tôi bước vào phòng. Lần nào bọn họ cũng làm thế, tôi chỉ mong họ bớt cái trò này đi. Hên là hôm nay chí ít bọn họ cũng chịu mặc áo vào rồi. Bị cấm mặc đồng phục cho tới khi vụ việc kết thúc nên hôm nay mỗi người mặc một kiểu trang phục truyền thống khác nhau.
“Sao lại có cả Alice thế này? Lại còn mặc pajama nữa.”
Từ bên kia bàn làm việc, Yondaime hầm hè liếc nhìn thân hình nhỏ nhắn của Alice.
“Tôi là một thám tử đã chấp nhận một yêu cầu. Đó là một điều không thể chối cãi.”
Giọng điệu thì tự tin lắm nhưng Alice tay trái thì ôm gấu bông, tay phải thì túm lấy ống tay áo tôi, cô nàng nấp cả người ra sau lưng tôi, run như cầy sấy. Xem chừng cô ấy đã ra ngoài quá lâu rồi.
“Mặc xác mấy cái lý do vớ vẩn của cô. Tôi chỉ yêu cầu cô phân tích ảnh, việc đã xong từ lâu rồi còn gì. Bọn tôi đã dùng nó để bắt được một đứa lâu la đây. Tuần sau tôi sẽ chuyển tiền cho, mau về với cái hầm băng đi.”
Bàn tay nhỏ nhắn của Alice nắm chặt lấy cổ tay tôi. Nước da Alice vốn đã nhợt nhạt sẵn nên khó mà nhận ra, nhưng lúc này mặt cô ấy đã tái hẳn đi.
Bắt được một đứa rồi sao? Vậy tức là một trong số những kẻ mạo danh Hirasaka-gumi để gây rối đã bị tóm ư? Thực sự tôi đã quá coi thường sức mạnh Yondaime có thể huy động.
“Nghĩa là anh… chấm dứt yêu cầu của mình?”
“Chính thế. Giờ vụ này là mâu thuẫn nội bộ của băng đảng, chúng tôi sẽ tự xử lý.”
Mâu thuẫn nội bộ? Vậy tức là sao?
“Nhưng tôi vẫn có nghĩa vụ phải xác nhận thông tin mình đưa ra có đúng không. Nhỡ đâu lại hại nhầm người vô tội thì sao.”
“Không có chuyện đó đâu. Chính mắt tôi đã kiểm tra rồi, đúng là đứa trong băng ghi hình.”
“Đúng hay không phải tự tôi mới quyết định được.”
Yondaime tỏ vẻ sốt ruột.
“Chúng tôi đã nhốt gã xuống tầng hai rồi, nó đã bị đánh te tua, cỡ như cô mà nhìn thấy thì phải ngất lên ngất xuống cả chục lần. Cô không định đòi chất vấn hắn trực tiếp đấy chứ?”
“Cho nên tôi mới đưa trợ lý tới, thấy chưa? Narumi là đôi mắt duy nhất tôi tin tưởng.” Chỉ tin đôi mắt của tôi sao? Vinh dự quá, cô ấy nói chí phải. “Tôi sẽ để Narumi lo việc xác nhận xem tên đó có đúng là người xuất hiện trong đoạn băng hay không.”
“Kiểu gì cũng lý sự được…”
Yondaime nhìn tôi dữ dằn làm tôi chỉ biết lảng đi nhìn ra chỗ khác, nhưng rốt cục anh ta cũng đứng dậy, hất hàm ra hiệu cho tôi đi theo. Alice thì đút một chiếc máy ghi âm vào tay tôi và dặn ‘Nhớ ghi lại lời khai của nghi phạm.’ Cái gì mà ‘xem có đúng là thủ phạm không’ nữa hả trời. Đúng là ngụy biện.
Dẫu vậy chính bản thân tôi cũng muốn được nhòm vào sự thật đang dần thành hình này… và cả lý do vì sao Yondaime đòi xử lý vụ này nội bộ mà không để chúng tôi can thiệp.
Hiro-san ở lại với Alice, còn tôi và Yondaime bước xuống tầng hai cùng với Cột Điện và Núi Đá.
Vừa mở cánh cửa thép ra đã nghe thấy một tiếng rên rỉ từ sâu trong cuống họng.
“Nó có khai thêm gì không?”
Yondaime bước nhanh trên mặt sàn gỗ và quay ra hỏi hai người đứng gác bên ngoài cửa nhà kho.
“Nó nói không biết cả căn cứ lẫn số điện thoại của bọn kia.”
Gã đệ tử đứng bên trái nhún vai. Cột Điện khom cái thân hình lêu nghêu hơn hai mét của gã để bước vào nhà kho, và Yondaime theo sau sát gót. Tôi bỗng nhớ lại tay buôn ma túy bị Hirasaka-gumi bắt được từ vụ Angel Fix, không khỏi nuốt nước bọt. Bấm nút nguồn của chiếc máy ghi âm, nó sẽ tự động gửi dữ liệu không dây lên tầng trên, và cũng lưu lại nữa.
Một gã thanh niên bị trói túm lại bằng túi ni lông đen. Khi tôi rón rén đặt chân vào phòng thì hắn mới ngửa mặt lên.
Nhìn qua thì không thấy vết thương nào nổi bật hẳn nhưng có thể thấy rõ là hắn đã bị đánh nhừ tử. Mí mắt và môi sưng húp vì phải đòn, vệt máu khô trộn dãi còn lấm ở trên mép. Chắc là hắn bị nện vào bụng là chính, vì họ sợ đánh vào mặt thì không nói được nữa. Tôi lấy tay che miệng, đứng khựng lại ở khung cửa vì sợ.
“...Em bảo rồi mà… em không biết gì thật…”
Gã thanh niên kêu lên như sắp khóc đến nơi.
“Lúc nào cũng là bên kia chủ động gọi bọn em, mà hắn ta cũng không có điện thoại di động.”
“Chúng mày từng gặp mặt chưa?” Cột Điện giở dọng du côn. Gã kia nằm ngửa trên sàn, vừa trả lời vừa run rẩy:
“Có gặp một vài lần ở quán của bọn em… ở Ikebukuro.”
“Sou-san, phải làm sao bây giờ? Có treo ngược no lên e là cũng chẳng hỏi thêm được gì đâu.”
Núi Đá thì thầm với Yondaime.
“Hay là mình tống gã vào bao tải rồi lăn xuống núi?”
“Ấy đừng, em xin các anh!”
Gã kia bị trói ngọ nguậy như con sâu gào tướng lên, đờm dãi văng tung tóe.
“Sou-san, c-có phải ở đây có Phán xử bằng quyết đấu mà ai thắng thì được tha đúng không ạ? Hirasaka-san đã kể với em như thế. Em xin anh!”
Hirasaka— tiếng ấy ùa vào hai tai tôi rồi sinh sôi như một đàn nhện con.
Yondaime nheo mắt lại rồi lại gần gã thanh niên.
“...Thế hả? Thì ra hắn vẫn chưa quên cái trò vô nghĩa đó.”
Anh ta trả lời khẽ, cúi xuống nhìn kẻ địch đang chẳng còn hồn vía nào dưới đất.
Đúng lúc tôi định can ngăn thì Yondaime quay lại lườm tôi:
“Nhóc Làm Vườn, đi ra ngoài một lúc, bọn tao sẽ quyết đấu ở trong này. Chả có gì hay ho đâu, đừng để Alice nghe được.”
Phán quyết của Hirasaka-gumi.
Phải rồi, Yondaime từng kể với tôi khi chúng tôi kết bái huynh đệ— băng đảng này là do hai người lập ra.
Hai người thủ lĩnh, một người là Hinamura Souichirou, người lãnh đạo đám thanh niên du côn, và một người nữa— đã đặt ra những nghi thức, lưu tên mình lên biển hiệu của băng đảng, rồi ra đi biệt tăm biệt tích.
Núi Đá lầm lì đẩy tôi ra khỏi phòng. Tôi còn chẳng có sức để chống cự lại. Tôi nhìn thấy Cột Điện cởi trói cho gã thanh niên và lôi hắn tới mặt sàn gỗ. Thế rồi thân hình đồ sộ của Núi Đá che khuất tầm mắt của tôi, đẩy tôi ra tới tận cầu thang. Ngay trước khi cánh cửa thép khép lại, tôi nghe thấy cú đấm của Yondaime ăn vào thịt.
Khoảng hai phút sau, Yondaime bước ra, vừa lau máu dính trên tay vừa lườm tôi. Thế rồi anh ta tựa lưng vào tay vịn cầu thang và thở dài. Núi Đá và Cột Điện thì chỉ đứng sừng sững ở hai bên cánh cửa.
“Xin lỗi vì mấy bữa trước đã giấu chú mày.”
Yondaime nói khẽ. Tôi nhấp nháy mắt.
“..Giấu chuyện gì?”
“Về cái gã đã lấy mấy cái áo phông. Thực ra tao đã biết hắn là ai từ lâu rồi.”
Yondaime ngồi tựa lưng vào chấn song, đút tay vào túi và lấy ra một chiếc chìa khóa có dán nhãn “Nhà kho 2F”.
“Thực ra vẫn còn một người nữa có cái này. Chính hắn đã lấy mấy cái áo… Chỉ là trước giờ tao chưa từng nghĩ hắn vẫn giữ nó tới ngày hôm nay.”
Những đường gân hằn lên trên bàn tay phải của Yondaime. Cái nhãn lập tức bong ra, và cả cái chìa khóa bị gập cong lại. Nhưng so với sức nắm khủng khiếp đó, vẻ mặt thâm trầm của Yondaime trông còn đáng sợ hơn.
“Sou-san, em vẫn chưa tin được, chắc là có hiều nhầm gì chăng—”
Cột Điện bước lại gần nhưng lập tức bị ánh mắt sói đẩy lùi lại về chỗ.
“Chẳng có hiểu nhầm gì hết. Làm gì còn ai với cái họ kì quặc đó lặn lội về tới tận Tokyo để gây sự với chúng ta nữa?”
Yondaime quẳng cái chìa khóa giờ hỏng xuống đất rồi quay đi, thay cho anh ta là con rồng uốn lượn trên lưng áo đang nhìn trừng trừng vào mắt tôi.
“—Thủ phạm chính là Renji.”