Từ thuở xa xưa, đã từng xảy ra một trận đại chiến. Nó diễn ra từ rất lâu rồi, trước lúc tôi được sinh ra. Và rồi nó cũng kết thúc, thế giới hòa bình trở lại.
—
Trong kỷ nguyên hiện đại, bất kì ai cũng mang trong mình một Chén Thánh thu nhỏ, không hơn kém gì việc định đoạt số phận con người. Dựa theo sự chỉ dẫn của Chén Thánh, bất kì ai cũng có thể triệu hồi Servant định mệnh cho riêng mình.
Servant là những nguồn thông tin tự nhiên được tích lũy xuyên suốt bề dày lịch sử nhân loại. Linh hồn của họ được cất giữ trong một khu vực vượt qua giới hạn không gian và thời gian được gọi là Anh Linh Tọa. Bằng việc triệu hồi thông qua Anh Linh Tọa, họ có thể hiện hình trong thế giới này.
—
Khuôn hình thế giới đã thay đổi đáng kể từ sau chiến tranh. Nơi tôi ở cũng được tái cơ cấu – phân chia thành nhiều đơn vị nhỏ hơn, tạo nên một chỉnh thể, mang tên Thành Phố Mosaic. Trong số này có Akihabara, thành phố biển chứng kiến cái ngày tôi ra đời. Do mực nước dâng lên vì hiệu ứng nhà kính, nên nói không ngoa thì, đại dương giờ đúng nghĩa biên giới của nơi đây. Như di chỉ của một thời đại cũ, cái tên sông Kanda chỉ còn là hoài niệm; trên thực tế, gọi nó là kênh đào nghe còn thân thuộc hơn.
—
Thị trấn này được bảo hộ bởi Chén Thánh, không một ngày nào trôi qua mà người dân nơi đây không nhận được phước lành. Những kẻ sống sót trước cuộc chiến đã nhân cơ hội đoạt lấy chén thánh sau khi cuộc chiến kết thúc, trong khi những người đủ trẻ tuổi như Karin được sinh ra sau cuộc chiến sở hữu trong tim mình một Chén Thánh khi mới chào đời.
Chén Thánh đã ban sự bất tử cho quần chúng. Những nguyên nhân chính gây nên cái chết ở thế giới cũ nào là - lão hóa, suy thoái gen, bệnh truyền nhiễm, virus, và ung thư ác tính - đều đã được ngăn chặn. Với việc sử dụng Lệnh Chú, ai cũng có thể kiểm soát tuổi tác cho riêng mình. Tại thành phố này, một trong những ước vọng cổ xưa của nhân loại - tuổi trẻ vĩnh hằng - đã xuất hiện.
—
Nhưng tôi rất khác biệt. Tôi luôn sống tách biệt với mọi người. Vì tôi là người duy nhất trong thành phố này không nhận được sự bảo hộ của Chén Thánh. Tôi sinh ra trong một thế giới hoàn toàn mới, theo lẽ thường tình thì tôi sẽ già đi - và kể cả có chết đi - cùng với những đặc tính già nua. Thì việc sinh ra bên ngoài tầm nhìn của Chén Thánh là điều không tưởng. Người đó không ai khác chính là tôi đây - Utsumi Erice.
Không có Chén Thánh, tôi không thể ký khế ước với Servant như một người cộng sự. Thi thoảng, sẽ có một vài người không thể kiềm chế và hỏi tôi cảm giác đó trông như thế nào. Nếu là tôi thì tôi sẽ cười thẳng mặt và bảo rằng họ sẽ không bao giờ hiểu được dẫu có giải thích đến mấy - và đã không ít lần tôi bị sư phụ khiển trách vì điều này. Bạn sẽ bị bài trừ khỏi xã hội nếu có hành vi quá nhẫn tâm, trừ khi muốn sống thật yên bình tại thế giới mới này.
Cho nên là, vì không biết nói sao, tôi đã đáp lại thế này:
“Thử tưởng tượng bạn bị cận nặng, khó có thể nhìn, nhưng tự nhủ bản thân mình không cần phải đeo kính.”
“Thử tưởng tượng bạn bị bắt phải đi bộ đến một nơi nào đó, trong khi người khác có thể dùng tàu hỏa hay xe buýt.”
“Thử tưởng tượng bạn đi đến một nơi xa lạ, chỉ để nhận ra bản đồ điện tử là thứ vô dụng.”
Câu hỏi rối rắm nhất mà tôi từng gặp, đó là về việc làm thế nào mà tôi có thể sống ngày qua ngày khi thiếu đi Lệnh Chú, một trong những phước lành của Chén Thánh. Về việc đó, cho dù tôi có cố giải thích cặn kẽ đến mấy, hầu như họ chỉ nỗ lực để nắm rõ hoàn cảnh của tôi hơn là mường tượng ra nó, và đến cuối thì chả còn ai hứng thú nữa cả. Đó là phản ứng bình thường, gần giống như những gì tôi đã dự đoán. Không thể trách cứ ai được.
Nhưng đấy là chưa tính những người hiểu ý tôi, những người hay đáp trả bằng những niềm ngạc nhiên, hoặc thông cảm thái quá. Một số cho phép tôi dùng Lệnh Chú của mình, ngọt ngào trấn an tôi, rằng cứ tìm đến họ mỗi khi cần giúp đỡ. Thậm chí có những người đồng cảm đến quên mình, mạnh mồm nói muốn đổi chỗ với tôi – dẫu lúc nào cũng có vài điều khoản, như là được hoàn nguyên về cuộc sống thường nhật nếu muốn.
Mỗi lần gặp gỡ ai đó lại khiến tôi nhớ về những lần bản thân mình chả khác gì một thứ đồ tiêu khiển. Một lũ tự tâng bốc lòng vị tha của bản thân, chỉ để giải tỏa sự buồn chán trong vài khắc ngắn ngủi.
Akihabara là mê cung ba chiều, chứ không chỉ có hai. Cách một quãng tương đối với khu vực nội thành ở địa mảng trung tâm, có công viên quốc gia thuộc lãnh địa tiếp giáp, là môt nhà cao tầng với nhiều dịch vụ công. Lớp học tôi thường lui tới thuộc tầng một tòa nhà.
Tôi đến vừa sát giờ vào lớp và vội vàng ngồi vào chỗ của mình. Căn phòng hình cánh quạt rộng lớn này vắng bóng học sinh đến lạ. Nơi đây đã được xác nhận là không phải một cơ sở dành cho việc giáo dục bắt buộc; nó được cung cấp cho những người thuộc các khoá học cao hơn nhằm thúc đẩy việc học tập suốt đời. Công dân thuộc mọi lứa tuổi gia nhập khoá học và tham dự toàn bộ các buổi dạy là điều mà tôi chưa từng nghe thấy bao giờ. Hậu quả là người như tôi được coi là một thứ gì đó khá là lập dị.
Người dân nơi đây không hề biết gì về trận chiến người bất tử diễn ra tối qua. Những sự cố như trên chưa một lần nào được đưa lên tin tức.
—
Giờ thì - đã đến lúc cho tiết” Lịch sử Nhân Loại Thời Tiền Chiến” rồi.
Đó là tên của khóa học tôi đang tham gia. Nhưng xui rủi thay, nó khó có thể được gọi là môn học được ưa chuộng. Nội dung của tiết giảng gần giống với đố vui hơn là giáo dục. Trọng tâm của khóa Lịch sử Nhân Loại Thời Tiền Chiến là tìm hiểu về cuộc đại thắng và sai lầm của nhân loại trong quá khứ. Nó kiểu… à-ừm, nói thẳng ra là, khô khốc.
Ban đầu, Akihabara là khu nghỉ dưỡng hàng đầu thành phố Mosaic. Những học sinh nghiêm túc phấn đấu trong học tập hoặc những gia đình lo lắng về sự giáo dục của bọn trẻ, sẽ đơn giản là di dời sang quận khác. Tôi có khuynh hướng tin rằng vũ trụ này thực sự tồn tại là để duy trì sự hứng thú của giảng viên đang đứng trước đại sảnh này đây - sư phụ của tôi, cô Fujimura.
Ồ, có vẻ cô bé đó lại tới rồi.
Tôi đảo mắt về phía giảng đường từ chiếc ghế cuối cùng của hàng ghế sau. Một thân hình nhỏ nhắn, một bóng dáng quen thuộc bao giờ cũng ngồi riêng một hàng, luôn chăm chú tập trung vào tiết giảng. Hôm nay cô bé lại đến. Theo luật lệ, tôi chưa bao giờ bắt gặp một học sinh nhỏ tuổi hơn mình khi tham gia tiết giảng cho nên đầu óc của tôi cứ nhớ mãi về con bé ấy. Nó là một đứa trẻ nhợt nhạt, thấp bé, và có lẽ là đủ tuổi để học hết lớp cuối tiểu học. Giọng điệu và thái độ của con bé trong suốt thời gian học, lúc mà con bé đặt câu hỏi với giảng viên khiến tôi suy đoán con bé là nữ giới, tuy nhiên không có gì chắc chắn cả. Đối với những ai sinh sống ở thành phố này.
Chiếc mũ lúc nào cũng ngả xuống quá nửa đầu, cặp mắt con bé bị phần tóc mái che khuất nên tôi chưa bao giờ thấy rõ dung mạo. Tôi cũng chưa lần nào bắt chuyện với con bé và cũng không biết tên của nó là gì. Con bé tham gia tiết giảng mỗi tháng một lần: vậy nên tôi cảm thấy sự ngắt quãng giữa thái độ sắc sảo trong tiết giảng và tỷ lệ có mặt tại lớp.
Hôm nay, kỷ lục về người nhỏ tuổi nhất tham dự tiết giảng đã bị phá vỡ. Người vô địch không ai khác chính là người bạn đồng hành của tôi: một Servant đi lạc mà tôi mang về tối qua, cậu bé có mái tóc màu vàng. Ít ra thì thằng bé đang ngồi tại vị mà không gây ra tiếng ồn, dẫu vậy thằng bé không ngừng bồn chồn - ngoe nguẩy người qua lại, và nằm trườn xuống như thể muốn tận hưởng cái lạnh của chiếc ghế gỗ. Hoặc đó là những gì tôi nghĩ thôi, trước khi thằng bé đột ngột quay sang nhìn tôi, che khuất đi tầm nhìn tới cái bảng.
“Em nghĩ mình là con mèo hay gì thế?”
“...Con-..con mèo?”
“Chắc là giống chó hơn, huh. Mái tóc lòa xòa thế cơ mà.”
“Em biết về chó.”
“Ồ, vậy sao? Mừng là - em nghĩ mình đang làm cái gì thế!?”
Cậu bé trèo lên ghế ngồi, chống hai tay lên bàn và bắt đầu hú, cực kỳ rầm rĩ.
À úúúúúú! À-à-à úúúú! À úúúúúúú!
Thằng bé nở một nụ cười rạng rỡ sau khi truyền đi thông điệp đầy bất ngờ của mình. Tôi ngồi trơ ra trong kinh ngạc - trong một khoảnh khắc, tôi nghĩ đây là chút hành động trìu mến, dù cho đây không phải thời điểm thích hợp để làm điều này.
“Thôi đi! Ngồi xuống cho chị!”
Cho tôi nghỉ đi trời. Chị đây đã đặt niềm tin vào em chí ít không muốn em ồn ào như Karin, và để rồi kéo chị vào chuyện này. Những người tham dự tiết giảng ngoảnh người lại phía sau nhìn về phía chúng tôi, tìm nơi phát ra âm thanh.
“Em xin lỗi. Tụi em sẽ im lặng ngay đây. Em thực sự xin lỗi.”
Sư phụ của tôi đã dừng tiết giảng, và nghiêng đầu nhìn bọn tôi. Cô bé ở hàng trước cũng đang dòm về phía này. Nếu cái nhìn có thể giết người, thì ánh nhìn chán chường từ dưới làn tóc mái của cô bé ấy có thể khiến tôi hóa đá rồi vỡ vụn mà chết. Tuy rằng tôi không thể trách con bé vì bực dọc với ai đó vừa gây náo động trong lớp học được.
Vâng em xin lỗi cô, em thật là tệ hại, em sẽ không tái phạm đâu… ugh, tôi đã làm gì mà phải lãnh điều này chứ…
Ngay từ đầu, tôi không hề biết cách để trông nom một đứa trẻ như cậu bé này - nhưng tôi cũng không thể bỏ lại thằng bé một mình trong căn hộ. Và tôi đã tự huyễn hoặc rằng bản thân sẽ học hỏi được gì đó nếu mang thằng bé đi theo.
“Không phải chó hay kêu là “bow-wow” trong tiếng Anh à?”
“Boh-roh.”
“Không giống chút nào. Phải giỏi lắm thì mới bắt chước được…”
Trời ạ. Tôi bắt đầu có cảm giác như sẽ không học hỏi được quá nhiều trong tiết giảng hôm nay rồi.
Tôi úp đầu tựa tay lên bàn, đồng thời bĩu môi. Nhìn vu vơ về phía cậu bé có khuôn mặt thiên thần thông qua khóe mắt, hồi tưởng về lễ rửa tội tối qua.
Sự việc diễn ra vào trước buổi chiều, sau khi xong việc với Karin và Koyou ở bờ cảng. Nói vắn tắt câu chuyện, thì tôi đã đề nghị mang cậu bé về căn hộ và ở lại qua đêm cho đến khi tìm ra mối liên hệ về thân thế thực sự và cội nguồn của cậu bé.
—
Tôi đã sống tự lập từ ngày chia tay người bà.
Trong một góc yên tĩnh của thành phố Akihabara, có một quận nhỏ, ít người sinh sống mà mọi người hay tránh xa. Trước chiến tranh, nó đã tập hợp các tòa nhà đa năng và nhồi nhét chúng lại nhằm thành lập vô số cửa hàng, nhưng rồi tất cả đều bị san bằng sau khi tiêu chuẩn của Đại Chén Thánh đã tái cơ cấu lại thành phố. Căn hộ của tôi bao gồm một phòng trong số những tòa nhà ấy.
Bên trong căn phòng được trang trí theo kiểu thời Victoria. Từng inch một trong tầng này đều được lát bằng sàn gỗ, và nội thất cổ của nó được bảo quản rất kỹ càng. Hiển nhiên, ban đầu nó là nơi thành lập một cửa hàng ẩm thực đáng ngờ được biết với cái tên “maid cafe”.
—
Căn hộ của tôi tuy không được thiết kế cho việc sống dễ dàng, nhưng nó được tân trang cả phòng tắm và phòng ngủ, và hàng tá thứ khác đủ để một người có thể sống tiện nghi. Nó thậm chí còn có hiên, dẫu hơi nhỏ. Từ cửa sổ phòng ngủ, tôi có thể nhìn thấy đường xẻ dọc của đại dương được bao quanh bởi các tòa nhà.
—
Cơ hội để tôi kêu gọi người khác trở lại nơi ở khiêm tốn này là vô cùng hiếm hoi. Dựa trên công việc, thì rủi ro liên quan tới việc để người khác biết về nơi ở của mình là quá cao. Lý do duy nhất tôi mang cậu bé này về căn nhà là vì sẽ thật vô trách nhiệm nếu bỏ mặc lại thằng bé với trang thiết bị của mình. Tôi không biết đối tác của cậu bé đó là ai: để thằng bé tự do đi lảng vảng quanh thị trấn là điều không ai nghĩ đến.
Thằng bé hẳn đã thể hiện bộ mặt của một đứa trẻ ngây ngô, nhưng như thế chỉ càng đưa tôi đi sâu hơn vào ngõ cụt. Tôi đã để bản thân trở nên không phòng bị vì vẻ bề ngoài của mục tiêu trong công việc cũ, và đã gây ra một sai lầm tai hại. Một Servant tôi tin tưởng không khác gì một cậu nhóc thiên thần - cứ như sự tinh khiết của nó được khắc trong thạch cao - đã tích tụ hắc ám. Avenger, Louis XVII. Thảm kịch xảy ra xoay quanh một con quái vật dị dạng đã tước đi mạng sống không chỉ master của hắn, mà còn rất nhiều người vô tội.
Thời thơ ấu, khi tôi còn chưa tốt nghiệp tiểu học. Louis và tôi đã có tầm vóc giống nhau, tôi cứ ngỡ cả hai sẽ là bạn tốt, vậy mà. Đến cuối cùng, tình bạn và thiện chí đã phản bội tôi. Thảm kịch đó tôi khó lòng mà quên được.
—
Còn một lý do khác mà tôi mang đứa trẻ đi lạc này về. Tôi đã bị dồn đến đường cùng của lý trí. Thẳng thắn mà nói, tôi không thể chịu nổi nữa: tôi không thể chịu nổi thứ mùi hôi thối bám chặt trên cơ thể của cả hai, tôi không thể chấp nhận việc dành vài phút đi tiếp mà không tắm rửa sạch sẽ.
Thủ phạm chính là vết dầu loang nằm ngay gần nơi neo đậu tàu, lúc mà tôi được vớt lên trên sông Kanda. Dầu mỏ rỉ ra từ một con tàu đang neo đậu tại cảng biển. Sau khi rời khỏi cầu cảng, tôi đã tức tốc dành nhiều thời gian suy ngẫm về nhiều thứ, nhưng rồi phải tỉnh táo trở lại, cảm giác khó chịu đang khiến tôi mất tập trung. Tạt nước lên người hay lau mình từ trên xuống là chưa đủ để xóa nhòa đi thứ mùi này - tôi cần phải đi tắm.
Ngay cả Karin cũng cản tôi lại sau khi thấy mình đi loạng choạng trên đường về, tôi vẫn phải cắn răng chịu đựng cái vết thương nghiêm trọng không được phục hồi nhanh chóng này. Chỉ sau khi giải thích về mấy tấm bùa đang cất gọn ghẽ trong căn nhà của mình, cô mới thả tôi đi. Cô ấy dễ tính vậy đấy.
Tôi đã cố mời cô ngụ lại qua đêm, nhưng rồi cô nhẹ nhàng từ chối, và bảo rằng cô đã được mời ngủ qua đêm ở nhà một người bạn khác ở vùng lân cận rồi. Đối với tôi, mối quan hệ xã hội của Karin là thứ bí ẩn hơn hết thảy. Mặc dù cô hay nở nụ cười đượm buồn với tôi, và nói rằng gia đình sẽ rất giận dữ lúc mà cô trở về nhà vào sáng hôm sau.
—
Dù sao, tôi cuối cùng đã về đến nhà, có thể để cho bản thân thư giãn một hồi rồi. Tôi hướng mắt về cậu bé thêm lần nữa, lần này với sự hỗ của trợ của ánh đèn nhân tạo bên trong căn hộ.
“Đợt chút. Này, không, khoan, khoan, chờ đã! Đừng đi thẳng vào trong, Cứ đứng chờ vài phút đi!”
Tôi níu giữ cậu bé bằng chiếc khăn quàng cổ và giật ngược thằng bé lại, nhắc nhở về nỗi phiền muộn cho thằng bé thấy.
“Uh… Em xin lỗi.”
Hóa ra thằng bé cũng có cảm xúc, đồng thời sở hữu khả năng gây chú ý người khác đến lạ. Ít nhất thì nó sẽ có ích sau này.
Cả hai chúng tôi trông thật nực cười, từ đầu tới chân thấm đẫm thứ dầu nhớt óng ánh. Nhưng ít ra tôi đang mặc một bộ đồ bơi và một chiếc áo gió thay cho thường phục, còn thằng bé thì khổ đốn hơn nhiều.
Được rồi. Tôi thu mình lại, khụy một gối trước cửa vào, ngắm nghía toàn thân cậu bé từ trên xuống dưới thêm một lần nữa.
Cậu bé này độ khoảng tám, có lẽ là chín tuổi. Nước da trắng, với đặc điểm nhạt nhòa của khí hậu vùng Scandinavian - mặc dù nhiều người cho rằng Servant sở hữu khái niệm di truyền, nhưng bất kỳ nỗ lực nào nhằm xác định chủng tộc của họ đều gần như vô nghĩa. Tóc thằng bé màu vàng nhạt, gần trắng xóa, và đang dài ra theo tự nhiên.
Chiếc khăn quàng cổ ướt đẫm, mềm mại choàng quanh cổ cậu bé. Hay đó là một chiếc khăn trùm, đúng không nhỉ? Chà, không mấy quan trọng. Nó được đúc kết từ vải dệt kim trông khá kỳ lạ, và bằng những vật liệu xa hoa - khó có thể nói nó được làm bằng vàng, hoặc đó chỉ là công đoạn khâu vá phức tạp thôi. Trang phục thằng bé nhìn như được làm từ vải cotton, có thiết kế khá đơn sơ, làm tôi nhớ về áo dài phong cách hy lạp. Có một biểu tượng được thêu dệt trên ngực thằng bé, một manh mối quan trọng tôi cần phải ghi chép lại.
Dây nịt và giày của thằng bé được làm bằng chung với chất liệu của chiếc khăn quàng cổ. Gót giày có thiết kế độc lạ; hẹp dần về sau như chiếc cựa cưỡi ngựa. Tôi nghĩ đó là dấu hiệu cho thấy trước kia cậu bé này từng là một hiệp sĩ - nhưng biểu hiện của cậu bé lại không cho thấy vậy. Thằng bé không giống chút nào so với class Saber hay Rider mà tôi từng gặp.
Cặp mắt xanh nhạt của thằng bé nhìn ngược chằm chằm về phía tôi một cách đầy hoài nghi trong lúc tôi đang dò xét từng tí một.
“Êy. Nói cho chị biết em tới từ đâu được chứ?”
Cậu bé uyển chuyển vươn cánh tay lên, hướng thẳng về phía trần nhà.
“Từ bầu trời sao? Hay là từ thiên đàng vậy? Đừng nói là ở trên mặt trăng luôn nhé?”
Thằng bé lắc đầu với tất cả.
“Em… đến từ một nơi rất xa.”
“Servant nào cũng vậy.”
“.... Thật không?” Chắc hẳn thằng bé đã tìm được thứ gì đó hứng khởi, bởi khuôn mặt thằng bé đang rạng rỡ và cười khúc khích thế kia mà. Thật an tâm khi có thể giao tiếp với thằng bé, tôi không nghĩ lại dễ dàng như vậy, dù cho thằng bé dường như vẫn đang cố tiêu hóa những gì mà tôi vừa nói.
Cậu bé ban đầu nói tiếng Anh khá lắp bắp, nhưng nhìn vào cách thằng bé xuất hiện và lắng nghe cuộc trò chuyện giữa tôi và Karin, sẽ rất nguy hiểm nếu thằng bé ít nhiều hiểu thứ ngôn ngữ của chúng tôi. Giả sử cậu bé này là một Servant được triệu hồi hợp pháp thì sẽ được Chén Thánh ban cho phục trang dựa trên tri thức phổ thông của thời hiện đại, chưa kể kỹ năng ngôn ngữ là thứ cần thiết để phô bày bản thân đối với mọi người thật bình thường. Tuy vậy, tôi vẫn đang cố xác định xem tên thật của thằng bé là gì, và nó đang cản trở việc tìm kiếm của tôi.
Nhân lúc hỏi, tôi vác ra cây kéo và cẩn thận cắt một đoạn 5mm từ sau tà áo dài của thằng bé, rồi cất vào trong một túi đựng mẫu khóa zip.
“Cho chị lấy thêm tóc được không?”
Có vẻ thằng bé đã cho phép rồi. Thằng bé làm như tôi bảo mà không hề kháng cự, và hỏi tôi một câu.
“Chị Eri cũng đến từ nơi xa xôi như em sao?”
“Đừng gọi chị bằng kiểu đó. Em học từ Karin à? Thôi được rồi, nghe kỹ đây. Chị đây không phải “Eri”, hay “Ông già Eri”, và cũng không phải “Bánh-Eri”. Là Erice. Utsumi Erice.
“Hmmm.”
Thằng bé vẫn nhìn chằm chằm vào tôi, không cho tôi biết liệu nó đã hiểu hay chưa. Tuy có một chút chống đối nhưng tôi vẫn nói tiếp. Nếu cứ tiếp tục trò chuyện, nhiều khi sẽ thu lại được gì đó.
“Thực ra thì không xa lắm đâu. Chị sinh ra tại Shinjuku. Và chị đang 14 tuổi nên em có thể gọi chị là học sinh trung học, mặc dù không thường xuyên đến trường lắm”
“Trường là gì ạ?”
“Trường là… nơi ta học tập. Là một tòa nhà lớn có nhiều trẻ em cùng sánh bước. Hay chí ít, đó là những gì chị được nghe kể trước khi chiến tranh nổ ra. Họ đã thay đổi rất nhiều kể từ đó.”
“Chị không đến trường sao, Eri?”
“Đã bảo gọi chị là Erice mà. Chị không cần phải đi. Vì chị đã qua đánh giá năng lực rồi, và đang cố nhận tín chỉ cần thiết từ các khóa học bên ngoài. Đồng thời kiểm tra sức khỏe và vẩn vơ nhiều thứ.”
“Chị không muốn đến trường, phải không?”
Tôi nghiến răng. Thằng bé chọc đúng chỗ đau rồi. Tên nhóc này khó chịu thật.
“Không… không quan trọng chị có muốn đến hay không. Chị… chị có việc quan trọng hơn cần phải làm.”
“Chị cũng cô đơn.” Cậu bé ngoảnh đầu rồi nở một điệu cười khác. “Giống như em vậy.”
Tôi lặng lẽ nén lại cơn tức giận trong lúc gõ máy tính bảng. Tôi thử tra biểu tượng được khâu trên ngực thằng bé nhưng không trả lại kết quả. Để cho chắc, tôi thử truy cập vào mạng lưới thành phố, nhưng chả ai đưa yêu cầu tìm kiếm Servant mất tích cả - dù sao đây cũng không phải chuyện thường gặp. Tôi có thể dò hỏi sư phụ thông tin tối mật, nhưng tôi nào dám nói vậy trước mặt cô. Không phải là sau khi nói rằng bản thân tôi đã bất tuân mệnh lệnh và thả cho Kundry đi.
Dù vậy, có một giả thuyết về thằng bé mà tôi có thể nghĩ đến. Như được điều đó thúc đẩy, tôi quyết định vượt qua lằn ranh.
“Thế, em là Servant nào?”
“...?”
Thằng bé nghiêng đầu trong hoang mang. Nó tính giả ngốc à? Dù gì thì chả giống như đang diễn chút nào. Dường như bằng một cách nào đó, tên nhóc này thực sự không hiểu khái niệm Servant. Chuyện này có thể xảy ra sao?
“Chị đang hỏi tên thật của em đấy. Kể cả biệt danh luôn, thà biết còn hơn.”
Servant sẽ không dễ dàng tiết lộ tên thật đơn giản như thế, nhưng đó là trước chiến tranh. Trong thế giới hiện đại, vấn đề về quyền riêng tư đã nhiều hơn trước. Không ít Servant sở hữu gốc gác có thể bị làm phiền nếu chẳng may bị người khác biết đến trong thành phố Mosaic này, chưa kể mức độ thận trọng còn phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ giữa họ với Master.
Cậu bé này hẳn sẽ không khai ra tên thật của mình nếu vị Master bí ẩn của thằng bé không muốn. Và sẽ còn tệ hơn nếu thằng bé không có cái tên nào.
“Tên của em đấy, chị nói rồi mà. Khai ra tên thật cho chị.”
“... Tên?”
“Phải. Tên của em đấy.”
“Không biết thật à?”
“... Huh? Có phải… ý chị là tên của em?”
Tôi lẽ ra mới là người phải đặt câu hỏi ở đây chứ. Tôi bắt đầu có cảm giác như nếu cứ đợi cho đến khi đứa trẻ với cặp mắt to tròn này bắt kịp tốc độ của mình, thì kẻ bị thăm dò mới là tôi vậy.
Thằng bé đột ngột mở miệng, và nói tiếp.
“Em đã đánh mất thứ gì đó rồi.”
“Đánh mất thứ gì cơ? Em đã đánh mất thứ gì vậy?”
“Em không biết.”
Tôi thở dài ngao ngán. Cùng thời điểm đó, mùi hôi thối lại một lần nữa xộc thẳng vào mũi tôi.
“Nghe như em đang bị dằn vặt do bị mất trí nhớ nhỉ. Chị nghĩ những chuyện kiểu như này thường xảy ra sau khi được triệu hồi…? Chà, dù sao, ta đâu thể làm gì được. Chị đây cũng bế tắc rồi nên giờ phải rửa ráy đây. Chị sẽ để cho em xài nhà tắm luôn nên cứ vào đi.”
“Rửa ráy?”
“Rửa ráy. Tức là đi tắm ấy.”
“... Đi tắm?”
“Chờ chút, em không biết thật đấy à? Đừng nói với chị là em không biết tắm là gì luôn đấy nhé? Khoan, em đã từng tắm rửa bao giờ chưa?”
Thằng bé lắc đầu. Rõ ràng cậu bé này chưa một lần đi tắm. Dù là chưa đi nữa, thì nó cũng không thuộc tri thức phổ thông.
Làm việc đi nào, Chén Thánh.
=========================
Suốt thời gian sống ở đây, phòng tắm của tôi đã trở nên xa hoa. Mang trên mình nội thất kiểu Pháp, và đủ rộng để dễ dàng chứa đến hai người. Ngôi sao của chương trình không đâu khác chính là bồn tắm sứ nông nước được lôi từ bộ phim viễn tây ra. Tình cờ thay khi phòng ngủ được tân trang theo phong cách đầy mê hoặc, và nó cũng là lý do lớn nhất tôi chọn cái chung cư này.
Cửa hàng tiện lợi và tiệm cafe sở hữu thiết kế xa hoa đến phát lạ. Dù chủ sở hữu có một khẩu vị độc đáo… hay là ban đầu, công trình này được xây nên với mục đích ít lành mạnh. Thì rõ ràng sau này. Cũng chả liên quan đến tôi; tôi không gì hơn là biết ơn vì đã được thụ hưởng những điều này. Nhưng lại thêm một cái cớ nữa để Karin châm chọc tôi.
Tôi nghiến răng và kéo tay cậu bé vào phòng tắm. Thằng bé làm tốn thời gian quá, nó còn đang bơ vơ thế kia. Tôi lột đồ thằng bé và bắt nó đợi trong phòng thay đồ. Sau đó, tôi đổ đầy nước vào bồn tắm, cởi quần áo bẩn bịu đi. Nó chỉ là một đứa trẻ thôi. Cần gì phải xấu hổ chứ? Đương nhiên là không! Đúng vậy, không có gì cả.
Vẫn có khả năng bên trong tâm trí của thằng bé là một người đàn ông trung niên, nhưng tôi không cần phải lo nghĩ khi chuyện đó xảy ra.
“Chắc mình nên ngâm bộ đồ bơi… á đau!”
Cơn đau ập tới khi tôi vặn người sai hướng. Tôi đã điều trị vết thương ở bụng và phủ lên chỗ đó bằng một miếng dán chống nước. Vết thương vẫn đang trong quá trình phục hồi tức thì, và khi sờ vào thì sẽ rất ấm. Vết thương nghiêm trọng đến độ, với các phương pháp điều trị trong quá khứ thì rất khó tránh khỏi việc bị sốc do thiếu máu và viêm cấp tính. Nhưng thế giới này đã tự đả bại cái chết, phương pháp điều trị chấn thương và tai nạn đã không bị bỏ lỡ. Vô số công nghệ đã được phát minh trong suốt cuộc chiến, và giờ tôi đã gặt hái được những lợi ích từ nó.
“Trông có vẻ là đau lắm.”
“Chỉ một chút thôi.”
Mắt thằng bé dòm vết sẹo trên tai tôi, và mặt tỏ vẻ nhăn nhó.
“Không phải tuyệt sao? Mỗi vết châm vào da đều tạo một cái lỗ.”
“... Chị đã nói.”
Không lẽ tên nhóc này sợ mình sẽ để lại sẹo sao? Nếu vậy quả thật thằng bé rất nam nhi đây.
“Không sao cả. Kouyou đã vá chỗ đó lại cho chị rồi, nên nó sẽ dần hồi phục theo thời gian thôi.”
Về phần mình, tôi cẩn thận săm soi cơ thể trần trụi của cậu bé từ trên xuống dưới một lần nữa. Đây là bước cần thiết cho việc điều tra, vậy nên nó là một hành động đúng đắn và hợp pháp.
Tên nhóc này… là con trai, hẳn rồi.
—
Sau khi cẩn thận khử sạch nguồn gốc của thứ mùi hôi thối kia, cuối cùng tôi cũng đặt chân được vào bồn tắm - cùng với cậu bé đang lăm lăm cơ hội để trốn thoát này.
“Nóng quá.”
“Không phải tốt sao. Các Servant bình thường thích tắm lắm. Họ thích được bước vào trong bồn. Một số người tắm chung với Bảo Khí. Còn có người hiệu triệu nhà tắm khổng lồ, gọi là Terme di Caracalla…”
“Em muốn ra ngoài.”
Thằng bé thể hiện sự ủ rũ của mình nhưng ít ra vẫn đang ngoan ngoãn.
Tôi không thấy vết sẹo nào trên người thằng bé cả. Cơ bắp và cân nặng không khác gì một đứa trẻ bình thường. Tôi khó lòng mà tin được thằng bé này lại là một hiệp sĩ được triệu hồi thời còn trẻ. Khi thằng bé nói mình không biết tắm là gì, thứ đầu tiên tôi nghi ngờ chính là nạn ngược đãi trẻ em; Anh Linh xuất thân có quá khứ bất hạnh là nhiều không đếm xuể. Tuy vậy, thằng bé lại chả có chút dấu hiệu nào cho thấy như đã được đối đãi trịch thượng, hoặc ít nhất là không thể hiện ra bên ngoài.
Niềm tin của tôi vào giả thuyết ngày càng lớn, và tôi đã quyết định vào làm thử.
—
Tôi duỗi người trong bồn tắm. Với đám hơi nước đọng lại trên gương làm bức tranh sơn dầu, tôi dùng đầu ngón tay vẽ hình cái mũ. Bản phác thảo thô sơ về chiếc mũ rộng vành kiểu cũ của nam giới có phần đỉnh thụt nhẹ xuống dưới khi nhìn từ góc bên.
“Này. Cho chị biết cái này là gì đi?” tôi ngập ngừng hỏi cậu bé, ngực tôi đập thình thịch. Tôi chỉ kịp lướt qua bức tranh trước khi thằng bé trả lời.
“Là… con rắn.”
Vừa lúc định đáp. Tôi đã không biết nói sao trong một hồi.
“Nhìn như nó đang ăn một thứ gì đó lớn lắm.”
Thằng bé trả lời câu hỏi của tôi thật hoàn hảo.
“Nó làm em có chút sợ.”
Thẳng bé run rợn người và quay mặt sang chỗ khác, những hạt nước trên cơ thể văng xuống tứ tung. Tôi không dám nghĩ thằng bé sẽ đưa ra phản ứng dữ dội như thế. Ngay lập tức, tôi xóa đi cái bức tranh trên gương và thấy mình đang xoa nhẹ đầu thằng bé để trấn an. Tôi cảm nhận được mái bóng bóng bẩy và hơi ấm cơ thể trải khắp lòng bàn tay mình.
“Thế còn về “B-612”? Hoặc em có thể gọi là “Besixdouze”?”
“Có.” Thằng bé không ngần ngại gật đầu trả lời.
“Em biết sao?”
“Là một hành tinh, đúng chứ? Nhưng không có ai ở đó.”
Tôi đã trầm ngâm một hồi. Đúng vậy. Là một hành tinh. Dĩ nhiên rồi.
“Chị hiểu rồi… không có ai ở đó cả. Nhưng chị nghĩ… mình đã biết tên của em rồi.”
B-162 là tên của một tiểu hành tinh xoay quanh hệ mặt trời. Dù gì cũng không đáng chú ý lắm, chỉ khác là nó được phát hiện bởi một công dân Nhật Bản. Thứ này khó có thể được đưa vào tri thức phổ thông mà Chén Thánh đã ban cho các Servant. Tuy nhiên tiểu hành tinh đó cũng là tên của một cuốn tiểu thuyết ngắn nước ngoài có tiêu đề là “Hoàng Tử Bé”.
[Tên gọi của tiểu hành tinh 2578 Saint-Exupéry (được phát hiện vào năm 1975) được đặt theo tên tác giả của Hoàng Tử Bé.]
Trong một thoáng bất chợt, tôi ôm chầm lấy cậu bé. Tôi vòng tay hai cánh tay quanh bờ vai thằng bé từ đằng sau và ôm thật chặt. Tôi không muốn em suy sụp hay tổn thương.
“Nếu như… nếu như em có thể làm Servant của chị…”
Cậu nhóc không có dấu hiệu gì là sẽ trả lời tôi.
Trước khi đặt chân vào phòng tắm, tôi đã rửa sạch thân thể, kiểm tra từng chân tơ kẽ tóc. Tôi đã tuyệt vọng mò mẫm Lệnh Chú ở khắp nơi trên người mình, là minh chứng cho mối liên kết với Servant. Tôi đã căng mắt nhìn vào gương, soi kỹ sau lưng, dưới miếng dán y tế phai màu, và kể cả lòng bàn chân. Nhưng không thấy đâu cả.
Tôi không là Master nào cả. Tôi không thể khởi tạo mối liên kết với cậu bé thông qua Chén Thánh. Tôi là Tử Thần, vốn dĩ là như vậy.
========================
Nếu vậy, cái khung cảnh đó báo hiệu cho điều gì?
Điều gì lại khiến lồng ngực tôi run sợ tới vậy? Có phải khung cảnh đó sẽ thay đổi cuộc đời tôi vĩnh viễn?
Cuối cùng, tất cả chỉ là ảo tưởng của mình tôi.
—
Sau khi tắm xong, chúng tôi đã nghỉ xả hơi trong phòng khách kiêm phòng ăn, nơi đã luôn có chiếc bàn gỗ gụ khi còn là quán cafe. Cậu nhóc ngồi trên chiếc ghế, ăn món lasagne mà tôi đã hầm bằng lò vi sóng. Bản thân tôi thì đang ghi chép lại sự kiện trong ngày, máy tính bảng cầm trên tay và khăn lau nằm trên trán, chưa kể tôi đang đỏ mặt hệt như nước sốt thịt bò hầm thằng bé đang ăn. Xấu hổ quá đi. Thằng bé này còn chưa đến tuổi, mà tôi đã đột nhiên ôm, thì thầm như thể là tỏ tình vậy, và sau cùng lại khóc nữa chứ. Trong khi người gần như không mặc gì.
Phản ứng của thằng bé sau một hồi, là nhíu mày và phàn nàn “Nóng quá”.
“Vị như thế nào?”, tôi hỏi cậu bé.
“Ngon lắm.”
“Thật không? Nghe được đấy.”
Mẫu thử mà tôi đã lấy ra từ trước đang được đặt trên bàn. Cả hai mẫu nằm trong túi zip đều đã biến mất, đúng như tôi dự đoán. Bị tách khỏi bản thể, tóc và sợi chỉ trên tà áo dài của thằng bé đã không còn tồn tại ở dạng vật chất giả nữa, mà đã trở lại thành một phần mana của thằng bé. Nói cách khác, cơ thể và trang phục thằng bé đang mặc được dệt từ nhiều thứ khác nhau. Minh chứng mạnh mẽ rằng thằng bé là một Servant - nhưng không cần phải làm thế, vì có cách dễ hơn để phô ra sự thật này trước mắt. Đó là trang phục tôi để lại trên sàn của phòng thay đồ đã trở về sạch sẽ, khô ráo.
Chiếc khăn quàng quấn quanh cổ thằng bé trôi lờ lững, nằm ngoài các nguyên tắc vật lý. Kể cả khi đang ăn, nó vẫn nhẹ nhàng rung rinh và phấp phới trong gió. Khỏi phải nói, không có cơn gió nào bên trong chung cư cả.
Thằng bé này có khi nào là Simoun…? Ngọn gió độc không?
—
Đêm đã về khuya, tôi đang vật lộn với cơn buồn ngủ và sức cùng lực tận dồn dập khi nhìn vào máy tính bảng. Nhớ lại những gì đã trao đổi với thuyền trưởng Van der Decken của tàu Flying Dutchman. Những lời cảnh báo của ông khiến ngực tôi thắt lại.
Cho đến khi biết chắc kẻ thù của chúng tôi là nữ hoàng điên loạn, thì ông đã giữ trung lập tuyệt đối, và duy chỉ có ông là ý kiến về cách làm của tôi. Ông đã bị một ác quỷ đại dương nguyền rủa. Điều này không quá xa lạ - bởi tôi cũng bị nguyền rủa, và trở thành vật sở hữu của ác linh. Sống một cuộc đời nằm ngoài tầm nhìn của Chén Thánh, có lẽ tôi cũng đã trở thành một món hàng trần trụi. Nhưng cũng vì thế nên tôi vẫn sẽ còn sống, chừng nào tôi chưa bỏ cái nghề này.
Tôi đã bất cẩn. Tôi cứ ngỡ rằng thuyền trưởng Van der Decken và tôi có thể cùng nhau tìm ra lời giải với tư cách là người cùng chung số phận. Nhưng ông đã nhìn thấu những kỳ vọng ngây thơ của tôi, và gần như bác bỏ hết.
“Cô đã trưởng thành để tận hưởng việc giết chóc các Servant, lấy cớ là thi hành thẩm quyền của thành phố. Cô nghĩ mình là chủ nhân của những bóng ma, nhưng không thực chất chúng đang lợi dụng cô đấy.”
Ông ta bóng gió bảo rằng lý tưởng chính nghĩa đã che mờ mắt tôi. Và điều mà tôi từng tự hào hóa ra lại là sự tự phụ.
“Một ngày nào đó, Erice, cô sẽ gọi lên cái ác. Và khi thời điểm đó tới, những người cô trân quý sẽ phải trừ khử cô.”
Không thể chấp nhận những gì ông ta nói và cảm thấy tự ái, tôi đã phản pháo lại bằng những lý lẽ phù phiếm - dù cho bây giờ tôi phải thừa nhận rằng đó chỉ là những gì tôi bịa ra để xoa dịu bản thân. Khi ấy tôi nghĩ ông ta chỉ đang cố đặt tôi vào góc nhìn cá nhân của bản thân, nhưng giờ nghĩ kỹ lại thì, lời nói đó cũng mang tính trách móc bản thân ông nhiều như họ dành cho tôi vậy. Quan hệ của ông với đối tác, Aheseurus - là bình đẳng dẫu cho cả hai người là Master và Servant - và ông cũng nói ra sự chân thành của mình một cách hùng hồn hơn bao giờ hết.
========================
“Em có chú ý không, Erice?”
Tôi đã thoát khỏi mộng tưởng nhờ lời nhắc nhở tế nhị của sư phụ.
“Trông em có vẻ mệt. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu dành vài phút nghỉ ngơi trong phòng giải lao đấy? Ta có thể chuẩn bị tài liệu tiết giảng cho em xem sau, nếu muốn.”
Tôi khẽ rên lên. Xấu hổ quá đi. Nỗi nhục nhã thứ hai của sáng hôm nay rồi. Tôi kiên quyết lắc đầu từ chối. Sư phụ của tôi gật đầu và bắt đầu lại tiết giảng với một tông giọng đầy trầm ấm.
––
Tên của cô ấy là Caren Fujimura. Cô là giảng viên chịu trách nhiệm cho lớp học, đồng thời là sư phụ của tôi. Tôi đã quen cô từ khi mới chập chững vài bước.
Vẻ ngoài của cô trông như thể mới độ đôi mươi. Đôi mắt màu hổ phách, mái tóc gợn sóng màu xám nhạt xõa dọc sống lưng. Cơ thể cô kết hợp giữa vóc dáng mảnh mai cùng với những đường cong gợi cảm của người Tây Ban Nha. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý nhất chính là gu thời trang hoàn hảo của cô. Khó ai có thể táo bạo như vậy. Hôm nay cũng thế, cô sắc bén tựa như con dao.
Hoặc chí ít chỉ mình tôi nghĩ thế, việc hoạt náo trong môn học này dường như chỉ mang đến cho tôi nụ cười khổ của Karin và những người khác. Dẫu sao cũng không phải là tôi không quan tâm. Nếu tôi là đứa duy nhất hiểu được sự tráng lệ của cô ấy, thì tốt nhất cứ để như vậy.
“...?”
Cậu bé, người đã yên vị bên cạnh tôi nãy giờ bỗng chuyển hướng về phía sư phụ ngay khi cô nhắc nhở tôi. Giờ thằng bé đang nhìn chiếc váy đồng phục của tôi, kế đến là quần dài của mình, và ngẩng đầu lên. Thằng bé quay đầu thêm lần nữa, săm soi kỹ từng li, và nói bằng giọng chắc nịch.
“Cô kia đang không mặc gì bên dưới cả.”
“Không phải vậy đâu.”
Sư phụ của tôi thật phi thường.
Lý do tôi gọi Caren Fujimura là sư phụ không phải do chức vụ giảng viên. Hay là vì cô là hình mẫu thời trang của tôi. Mà là do cô không phải con người, dù có nói thế nào, và cô cũng không phải là tân nhân loại thời hậu chiến. Cô là một trí tuệ nhân tạo - một AI.
Nói đúng hơn cô là AI quản trị viên khu tự quản, được giao nhiệm vụ quản lý quận Akihabara. Một giao diện con người cho phép Chén Thánh giao tiếp trực tiếp với người dân thành phố. Một trí tuệ hỗn hợp - độc nhất vô nhị - sinh ra bởi sự dung hợp giữa ma thuật triệu hồi, mô phỏng Anh Linh, và kỹ thuật công nghệ tiên tiến. Đó là bản chất thật của Caren Fujimura.
—
Tiết “Lịch sử Nhân Loại Thời Tiền Chiến” của cô Fujimura lại được tiếp tục. Chủ đề hôm nay là về lịch sử và tìm hiểu những người tiên phong vĩ đại. Những nhà thám hiểm dũng cảm đã căng buồm tây trên con tàu gỗ thô kệch, với sứ mệnh phát kiến những vùng đất mới. Những nhà thám hiểm tài ba đã khám phá - hoặc tái khám phá - thế giới xa xăm, và đảm bảo cho các tuyến đường hàng hóa sẽ trở thành huyết mạch của nền văn minh quốc tế.
—
Cô kể về Eric đỏ, người đã băng qua Châu Âu tới Greenland và định cư tại đó. Con trai của ông, Lief Ericsson đã đổ bộ vào phía đông bắc Mĩ và đặt tên là “Vinland”. Tổ tiên của người Polynesian đã nhân giống cây trồng khắp vùng đảo phía Nam Thái Bình Dương bằng xuồng thay cho bè, và thi thoảng tự mình đi ngược dòng chảy cho hành trình hàng nghìn ki-lô-mét.
Christopher Columbus, một kẻ chinh phục chưa bao giờ đánh rơi giấc mơ của chính mình; đã chèo lái đến những vùng biển xa xôi nhất trên chiếc tàu Santa Maria huyền thoại, và đã tái khai quật thế giới. Vasco de Gama, người đã băng qua Mũi Hảo Vọng và tiên phong cho tuyến đường thương mại của người Ấn Độ. Mũi đất - nằm ở cực Nam lục địa Châu Phi là một trong những đại họa thời kỳ khai phá, nơi galleon của thuyền trưởng người Hà Lan Van der Decken đã có cuộc gặp gỡ định mệnh bên trên những tảng đá.
Kế đến là Ferdinand Magellan, người đầu tiên đi vòng quanh trái đất. Dù cho ông đã qua đời trước khi hoàn thành hải trình, thành tựu mà ông để lại đã tuyên bố cho cả thế giới biết rằng trái đất không hề phẳng, mà là hình tròn. Nhờ ông mà người người mới biết rằng hành tinh họ đang sống chẳng qua chỉ là một trong những thiên thể giống Mặt Trăng hay Sao Hỏa, và từ đó trở đi họ đã âm thầm chế tạo những thứ có thể băng qua chân không của hư vô.
Còn thêm một vị thuyền trưởng nữa đã đi vòng quanh thế giới đó là: Francis Drake, một cướp biểnn! Ah, và đây là Golden Hind! Tôi đã bị cuốn vào bài giảng, tuy vậy sự phấn khích đã đạt đến cực hạn, tâm trí tôi bây giờ chỉ tràn ngập những ước vọng về biển cả.
Tôi đã được các Servant sống chung thời đại kể lại rằng, vị đô đốc đã đánh bại hàng sau của hạm đội Tây Ban Nha bất khả chiến bại khi ấy, thực chất lại là một người phụ nữ với khí chất hào hiệp hơn bất kỳ người đàn ông nào khác. “Người đàn ông đánh bại cả mặt trời” đáng lẽ phải mang danh “người phụ nữ đốn hạ vầng thái dương" mới đúng. Cá nhân tôi không thể tin vào điều này, và những Servant cướp biển khác cũng lên tiếng phản đối. Những chuyện kể như vậy thường gây vô vọng. Tôi sống đủ lâu để thừa biết, Drake là đàn ông.
Đây là câu chuyện phổ biến khi nói đến các Servant. Một số thời đại không đặt nặng việc phân biệt giới tính. Nhưng ngược lại, một số phụ nữ lại bị chèn ép đến mức họ chỉ có thể thực hiện những hành động anh hùng khi cải trang trong trang phục nam giới. Chính sự lẫn lộn đó đã khiến lịch sử trở nên mập mờ.
Cho dù Drake có là phụ nữ, thì không gì có thể làm phai đi vinh quang về huyền thoại của cô.
—
Thời gian của tiết học cải thiện bản thân đã gần kết thúc, mặc dù cho tôi phải căng óc tập trung vào nội dung tiết giảng.
“Cô sẽ tóm lược cho ai tìm ra. Một người đàn ông người Mỹ, một bước đi ngắn của một người, một bước nhảy vọt của nhân loại.”
Màn hình chuyển cảnh, đồng bộ với dẫn giải của cô Fujimura. Giờ nó đang hiển thị một thế giới đầy tương phản: một biển lớp đất mặt màu xám xịt, và chân không tối tăm của không gian. Dưới cái bóng của tàu đổ bộ mặt trăng, một bóng người mặc bộ đồ không gian bước xuống cầu thang đặt chân lên bề mặt mặt trăng..
“Đây là người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng. Ông cũng là một trong những người tiên phong của nhân loại.”
“...Eh…?
Một giọng nói rộ lên, không phải do thắc mắc mà là do kinh ngạc.
“Con người, đặt chân lên mặt trăng…? Một người sống á?”
Nguồn gốc của tiếng kêu không ai khác chính là cô gái trẻ ngồi ở hàng trước.
“Thành thật mà nói. Ngày này 56 năm trước. Ba phi hành gia đã thám hiểm mặt trăng, và hai trong số họ đã đặt chân xuống bề mặt của nó.”
“Hơn nửa thế kỷ trước á? Thời đó còn không hề có đơn vị điều khiển nào sở hữu khả năng tính toán quỹ đạo-”
“Có đấy.”
Một video khác được chiếu lên màn hình. Lần này xuất hiện một chiếc hộp đồng cồng kềnh nặng khoảng vài chục ký cùng một bàn phím nhỏ. Lời dẫn giải chỉ ra rằng đây là máy tính dẫn đường của tàu Apollo.
“Lõi đơn, 8 bit. Một máy tính lộng lẫy được gắn vào tàu đổ bộ mặt trăng. Nó gần như chỉ có hiệu suất bằng một phần một nghìn của chiếc điện thoại ngày nay. Và nhiêu đó là đủ để điều hướng con tàu đổ bộ bằng chế độ lái tự động, mặc dù hạn chế là yêu cầu con người phải tái khởi động lại trước khi hạ cánh.”
Cô Fujimura có vẻ đang đắc thắng. Biểu hiện của cô có chút kỳ lạ, dẫu cho rất mong manh nhưng tôi đoán ai cũng có thể nhận ra. Bởi lẽ, đối với AI, đó là một điều đáng tự hào khi có thể nói về những đóng góp quan trọng của máy tính đã làm nên một trong những thành tựu lịch sử vĩ đại nhất của loài người.
Không, hình như không phải…
Cô ấy đang thích thú với cú sốc mà học sinh đang được trải nghiệm khi lần đầu tiếp xúc với kiến thức này. Cô đang coi con bé ấy làm thú tiêu khiển. Con bé lấy lại chính mình và ngồi về chỗ cũ, mặt đỏ bừng đến bốc khói.
“Thật vô trách nhiệm. Nó quá liều lĩnh.”
“Đúng thế. Nó đã trở thành một trong những cuộc thám hiểm liều lĩnh nhất lịch sử nhân loại, và nhiều mạng sống đã mất đi.”
“Vậy nên nó hoàn toàn không thể xảy ra.”
Như thể đang chế giễu chúng tôi xuyên thời đại, người vũ trụ với vóc dáng đẫy đà trên màn hình bắt đầu moonwalk, lao nhao nhảy khắp bề mặt mặt trăng. Vui vẻ tự kêu tiếng vo ve như mấy tên du côn vô liêm sỉ.
“Rất vô tư, phải không? Không ai nghĩ anh ta có thể được ngăn cách với chân không và nhiệt độ 110 độ chả khác gì địa ngục nhờ bộ đồ không gian.”
Sư phụ của tôi cười nhạt và thể hiện sự khâm phục với người đàn ông bên trong video. Ngay cả khi họ lái chiếc xe thăm dò mặt trăng chạy qua đồng bằng, thì vẫn thật thô bạo và bất cẩn cứ như đang lái chiếc go-kart ở công viên ấy. Cô bé ở đằng trước nhìn lại video, một sự ngạc nhiên biểu lộ trên khuôn mặt.
“Ah…ahaha…!” Tôi không thể không phá lên cười.
Đôi vai cô bé khẽ run. Tôi căn thời điểm tệ quá.
—
Lời kết của phần “Những người tiên phong vĩ đại” nêu rằng, dù cho nhân loại đã không ngừng tìm kiếm những vùng đất mới - đầu tiên là thế giới bên kia biển cả, sau đó là bầu trời đầy xa xăm, và cuối cùng là không gian hư vô - hạ cánh cho mấy tên du côn vô tư lên bề mặt mặt trăng đã đánh dấu hồi kết cho chuyến đi của họ. Chưa có ai đặt ra một tầm nhìn xa hơn. Cho đến tận ngày nay giấc mơ của thế hệ Apollo về một cuộc chinh phục các vì sao vĩ đại vẫn là mong ước của biết bao người. Sao Hỏa, Sao Kim và không gian bên ngoài hệ mặt trời vẫn chưa được đánh dấu bởi bước chân loài người.
Tôi tự hỏi liệu trong cái hành trình đằng đẵng ấy, họ đã đánh mất điều gì đó quan trọng mỗi khi chúng ta băng qua nơi nào không.
Tôi tự hỏi liệu một ngày nào đó, ở rìa biên giới xa nhất, một người xứng đáng được gọi là anh hùng. Người sẽ dẫn dắt nhân loại tiến tới thế giới mới, sẽ lại xuất hiện chứ.
—
“Ey, bà đây rồi, Bánh-Eri! Muốn mua đồ ăn không?”
Karin tức tốc phi vào trong lớp ngay khi tiết giảng chỉ vừa mới kết thúc. Cô hẳn đã đoán được tôi ở đâu. Tôi cứ ngỡ là cô đã về nhà cho sự kiện đêm qua rồi, nhưng cô vẫn lởn vởn tại Akihabara này.
“Ra là cậu à Karin. Tớ giờ có việc rồi. Vẫn còn việc tớ chưa làm.”
“Ể? Lớp học chẳng phải kết thúc rồi mà?”
“Đúng vậy, nhưng tớ không nói đến lớp học.”
“Ồ, con tôm đó cũng đi theo à? Tốt, tốt. Chắc bà đã đặt bữa sáng thích hợp cho nó rồi nhể? Tên nhóc đó đang ăn gì thé?”
“Ngũ cốc. Và chút nước.”
“Òo, Ây da. Bà biết đó là lạm dụng trẻ em không? Có nên gọi công tác xã hội ngay bây giờ không ta?”
“Cho tớ nghỉ đi trời…”
Tôi đã không quay về căn hộ được vài ngày rồi, thức ăn dự trữ đều đã hết hạn vậy nên chỉ còn chút ít đồ ăn. Ban đầu tôi không có ý định ép thằng bé ăn ngũ cốc hay uống nước, nhưng cho đến khi nhận ra sự quan tâm của thằng bé đối với thức ăn, tôi mới chia và múc cho thằng bé một ít.
Các Servant không yêu cầu những bữa ăn thông thường, tuy vậy họ đã quá thân thuộc với thế giới của cuộc chiến trước, cho nên việc cải thiện chất lượng cuộc sống của họ cũng được quan tâm. Một số nhóm công dân khẳng định rằng họ có quyền bình đẳng như con người. Từ góc nhìn của tôi, về cơ bản các Servant là những tồn tại phi nhân loại, và việc cố rập khuôn tiêu chuẩn của loài người, lên những gì nằm ngoài vòng tạo hóa, đơn thuần chỉ là thói tự cao đến từ các Master – dẫu có thể tôi chỉ đang thành kiến, trên lập trường kẻ dị biệt không hơn.
“Chàoooooo! Buổi sáng tốt lành, Caren!”
“Chào buổi sáng, Karin.”
Cô Fujimura tiến lại gần chúng tôi.
“Karin… và Caren…?”
Cậu nhóc lúng túng khi nhìn vào cả hai.
“Hiểu rồi chứ. Có thất vọng không? Caren của Akihabara nở nang, gợi cảm. Còn ở nhà chị thì, uh… wha-chaa!”
“”Wha-chaa!” Cái méo gì? Và phải gọi bằng cô Fujimura nghe chưa.” Karin co gối lên định làm tư thế kung-fu. Tôi cho cổ một cú.
“Karin sống ở quận Shibuya. Còn ta làm thu ngân cho một cửa hàng Trung Hoa.” Sư phụ của tôi cười nhẹ. Không biết cảm giác thế nào khi biết rằng có nhiều phiên bản khác của mình đang hoạt động khắp thành phố nhỉ.
Một số học sinh lớn tuổi vẫn đang luẩn quẩn trong lớp, và trò chuyện cùng nhau. Sư phụ tiễn chúng tôi ra khỏi phòng, tiến về phía sân thượng nhô ra nằm giữa tòa nhà. Chỗ này là khuôn viên giải trí cung cấp cho ta một tầm nhìn bao quát Akihabara. Cách đây vài giờ, gió biển nhẹ và nắng không quá gắt. Vừa đủ mát để những nơi khuất bóng còn vương chút giá lạnh.
Đoàn tàu nhẹ nhàng bắc qua cầu cạn với tiếng xình xịch có thể nghe được ở phía xa kia, lao về nơi chúng tôi với tiếng kéo còi ở đầu tàu. Bên ngoài tầm nhìn nơi tôi đứng là khu vực tuyến đường sắt ngắt đoạn, đặt tại Shinjuku và Shibuya.
“Có phải đây là đứa trẻ Servant với Master không xác định?”
“Dạ vâng.”
Trước đó, tôi đã báo cáo cho cô biết về hoàn cảnh hiện tại, nhưng tôi cũng nhân cơ hội này để giới thiệu cậu bé rồi cho cả hai gặp mặt luôn.
“Thật lòng thì em nghĩ mình đã tìm ra danh tính thật sự rồi. Mặc dù đa phần thằng bé không phản ứng với những gì em nói. Và có vẻ như thằng bé chưa ở đây lâu.”
Tôi đã đề nghị và kể hết cho cô nghe về những gì tôi đã khám phá ra đêm qua – hy vọng ở đâu đó trong thâm tâm tôi sẽ bù đắp được cho việc giữ im lặng về chuyện để Kundry trốn thoát và những sự kiện theo sau nữa.
"Antoine de Saint-Exupéry…? Theo những gì ta nhớ được, ông là một tác giả người Pháp và một trong những người nổi tiếng nhất. Ông cũng từng là phi công và đã phục vụ trong Chiến Tranh Thế Giới thứ hai. Em tin rằng danh tính của cậu nhóc này là Saint-Exupéry sao?”
Đối tượng bị chúng tôi dòm ngó kỹ lưỡng nãy giờ, đứa trẻ của vấn đề, không có phản ứng nào với cái tên này. Thằng bé hớp một ly nước cam vắt mà Karin đã mua từ quầy bán nước trái cây, và nhăn mặt lại. Đầy chua chát.
“Sự tồn tại của thằng bé gây tranh cãi quá, chưa kể là sự chênh lệch tuổi tác.” Tôi có thể thấy sư phụ đang kiểm tra hồ sơ, và tham khảo chéo đứa trẻ ở trước mặt. Tôi nêu ra giải thuyết tiếp theo của mình.
“Em thì nghĩ cậu nhóc này là Hoàng Tử Bé. Cô không thấy rất giống minh họa của Saint-Exupéry sao?”
Hoàng Tử Bé là câu chuyện ngụ ngôn ngắn. Được hoàn thành bởi Saint Exupéry và là tác phẩm cuối cùng của ông trước khi qua đời lúc còn trẻ. Dẫu có tìm trên mạng hay ngoài tiệm sách giấy, nó vẫn luôn yên vị trên mục cho trẻ em, dẫu hoàn toàn khác biệt với những cuốn cổ tích bao vây xung quanh mình. Tuy nhiên, nó cũng chẳng phải là Kinh Thánh, được con người tôn sùng và trích dẫn từng câu. Tác phẩm như một sự vỗ về, như người bạn thân thiết ở cạnh bên, lúc nào cũng sẵn túi một câu đùa hóm hỉnh, hoặc có khi là giai thoại nghiêm túc. Nói chung là, tôi cảm thấy vậy thôi.
“Eh? Thế chú em là hoàng tử hở? Hmm? Giờ để ý kỹ, nhìn tên nhóc này trông mới giống quốc vương làm sao. Thử nghĩ xem tên nhóc này có hợp với Momi không chứ? Con bé cũng là công chúa đấy. Chú em nghĩ saoooooo?”
Karin thọc nhẹ vào má, và cười tinh quái, cậu bé bực bội trở mặt sang chỗ khác. Tôi quyết định để thằng bé lại cho họ xử, không quên kể cho sư phụ nghe về chuyện cậu bé đã trả lời câu đố của tôi, đi kèm từ ngữ mà chỉ Hoàng Tử Bé mới biết.
“Ta hiểu rồi…” Cô phô ra một tư thế chiêm ngưỡng khi tôi nói tiếp.
“Em nhận thấy thằng bé không quá giống Saint-Exupéry. Cho nên mới thắc mắc liệu thằng bé có phải là Servant của tác giả được lấy hình dạng từ một nhân vật trong tác phẩm của họ hay không. Em dám chắc có rất nhiều ví dụ điển hình.”
“Có chứ không phải không. Nhiều tác phẩm đã để lại những cảm xúc sâu sắc trong lòng độc giả trên thế giới hơn cả chính người tác giả ấy. Nhiều tác giả lấy khuôn mẫu từ chính ý muốn của bản thân. Tuy nhiên nếu em để ta nói ra chính kiến thì - “
Cô ngưng một nhịp, đẩy cái kính lên.
“- Ta đoán không chỉ Hoàng Tử Bé đã đặt mình vào tác phẩm của Saint-Exupéry mà còn là viên phi công đã kể lại câu chuyện. Sau tất cả, toàn bộ trải nghiệm của việc hạ cánh thất bại trên sa mạc Sahara đã tạo cảm hứng cho cuốn sách.”
“Ah… đúng thật.. Em cũng nghĩ vậy…”
Cô ấy nói đúng. Dựa trên nội dung của cuốn sách thì đây là một lời phán đoán đậm tính logic. Cô đang muốn nói rằng, thằng bé nhiều khả năng đã khác từ trong trứng, so với những Servant mang tiền kiếp nhà văn, vốn giàu lòng thấu cảm, và rất hay ngang ngạnh trong suy nghĩ.
Trong lúc tôi không để ý, đối tượng của cuộc trò chuyện ngoài lề đã bắt đầu nhấm nháp ly nước chanh-mật ong. Thằng bé chắc hẳn đã tráo đổi nước cam với Karin. Rõ ràng là hợp hơn với khẩu vị của thằng bé; và đang nhoẻn miệng cười.
“Ta vừa mới trao đổi cùng với các Caren, nhưng xem chừng bọn ta không quản lý bất cứ Servant nào như thằng bé cả. Về phân cấp thằng bé, ta chỉ có thể dừng ở suy đoán không hơn.” Một AI như cô có khả năng âm thầm giao tiếp với những đơn vị khác trong khi nói chuyện với tôi.
Hóa ra cậu bé này không phải một Servant phất phơ đến từ các quận khác. Giờ chúng tôi đều đã biết rằng không có ghi chép nào cho thấy Saint-Exupéry đã được nhập cảnh với tư cách là Servant ở bất cứ đâu trong thành phố Mosaic này.
“Đừng từ bỏ, Erice. Ta không có ý phủ nhận ý kiến của em; vẫn còn đó khả năng. Và với việc bảo vệ cậu bé đó thôi, thì em đã hoàn thành xuất sắc công việc rồi.”
“Chắc, là vậy ạ…”
“Cậu bé có vẻ ổn định, gạt chuyện ký ức qua một bên, nên ta sẽ gán cho một thẻ phân loại. Chừng nào còn cư trú trong thị trấn, ta sẽ gọi cậu bé này là “Hoàng Tử Bé (Không Xác Định)”“.
“... ‘Dấu ngoặc… Không Xác Định’... ?”
“Nên chứ. Thật thất vọng nếu không có nổi một danh xưng, đúng không? Dấu ngoặc, Không Xác Định.” Karin kháu khỉnh xoa đầu Hoàng Tử Bé (Không Xác Định).
“Ừm… về vụ việc tối qua…” Tôi đứng thẳng lưng mình, định chuyển chủ đề sang những chuyện tối hôm bữa – thì sư phụ đột nhiên bật dậy khỏi ghế ngồi, rồi nhìn tôi với vẻ đầy tiếc nuối.
“Thành thật xin lỗi em, Erice. Đã có một vấn đề nảy sinh đòi hỏi sự chú ý cấp bách của ta. Em hãy gửi một bản báo cáo tài liệu ngắn gọn được chứ?”
“Eh…? Dạ… được ạ.”
Tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm, nhưng lại càng thêm lo âu. Vấn đề cấp bách là gì, lần đầu tiên tôi nghe về nó, và sư phụ cũng chẳng phải hình mẫu đột nhiên đổi lịch trình thế này.
“Cô nghĩ em nên làm gì với thằng bé?”
“Ta cũng đang định bàn về vụ này. Xin lỗi vì đã hỏi nhưng em không phiền nếu chăm sóc cho cậu bé này từ bây giờ chứ? Nếu danh tính của thằng bé trong thời gian đó càng được làm rõ thì càng tốt.”
“Eh-?”
Đôi mắt của sư phụ tôi nheo lại thành hình nụ cười còn miệng tôi mím chặt. Một trường hợp vốn đã không bình thường nay lại chuyển cho một kẻ xa lạ như tôi.
“Không, không không đời nào. Chẳng phải thế sẽ gây rắc rối sao? Công việc của em và bôn ba thứ khác?”
“Ngoài em ra, không một cá nhân nào tại Akihabara lại có thể ứng phó với trường hợp đặc biệt đến như vậy. Gọi em là chuyên gia chăm sóc cho Servant cũng không phải cường điệu hay gì đâu.”
Sẽ rất rắc rối. Cực kỳ rắc rối. Chuyên môn của tôi không phải xử lý các Servant - mà là giết họ. Hạn chế những Servant lạc lối và giam giữ họ dưới sự giám sát nghiêm ngặt là việc tôi có thể làm. Tôi gần như không đủ năng lực để đáp ứng nhu cầu của một cậu bé chả khác gì một đứa nhóc bình thường, chưa kể còn không biết tên thật thì phải tính sao.
Karin chen vào. “Cho chú em ngủ ở nhà tui được khum? Dù sao thêm một hay hai đứa em trai cũng đựt?”
“Ta nghĩ, là hơi nhiều đấy…”
Lời đề nghị của Karin thiếu trách nhiệm lạ thường, nhưng sư phụ của tôi chỉ nghiêng đầu. “Cảm ơn em vì lòng hiếu khách Karin, nhưng ta sợ mình vẫn chưa thể nói ra hiểm họa mà cậu bé này có thể mang lại. Ta không thể cho phép cậu bé này sống chung với những công dân bình thường khác.”
“Em đã nói rồi, nó điềm tĩnh lắm. Không phải em có Momi sao? Sẽ ổn cả thôi.”
Karin nài nỉ, nhưng sư phụ tôi đáp lại bằng một lời nói từ chối lịch thiệp song kiên quyết. Thật lòng mà nói, tôi cảm thấy nhẹ người - dù vậy tôi không muốn nói rằng ý định nhận lấy trách nhiệm của Karin một phần trong công việc thường gây không ít phiền hà cho mình.
=========================
Vừa đúng lúc tôi nhận ra vấn đề đáng lo ngại này, một kẻ không mời đã nhanh chóng tiếp cận khuôn viên giải trí nơi chúng tôi đang bàn bạc.
“Caren Fujimura? Nếu cô không bận thì em muốn hỏi vài thứ.”
Là con bé - cô gái đội mũ ngồi ở hàng trước đây mà. Con bé đã chạy phi ra khỏi lớp học trước khi tiết giảng kịp kết thúc, và trò chuyện với ai đó qua chiếc điện thoại. Con bé hẳn đã quay trở lại ngay khi cuộc trò chuyện kết thúc.
“Rất vui khi gặp em, Haruko. Em có câu nào muốn hỏi cô về tiết giảng không?”
“Dạ có. Em muốn hỏi về vai trò của chiêm tinh thuật trong thời đại khai phá-” Một cơn gió mạnh đột ngột thổi qua sân thượng, con bé nắm chặt chiếc mũ của mình, kéo chặt nó xuống vành tai. Tôi chớp lấy cơ hội và ngay lập tức chen vào cuộc trò chuyện – Dù sự thật là, con bé mới là người chen vô trước.
“C-Chờ chút đã. Chị đang nói dở với cô Fujimura…”
Con bé lặng lẽ nhìn tôi. Cặp mắt rực rỡ màu bạc hà của con bé ánh lên từ phía sau làn tóc mái. “Nhờ sự gián đoạn của cô và tên Servant gây ra nên tôi mới không thể lấy cớ để đặt câu hỏi trong suốt tiết giảng đấy.”
“À thì… xin lỗi nhé. Nhưng thằng bé, thực ra, không phải Servant của chị…”
“Thế á? Vậy cho xin lỗi. Tuy nhiên với tư cách người giám sát, cô nên có ý thức hơn về trách nhiệm của mình để tên nhóc ấy không gây rắc rối ở nơi công cộng.”
Chuyển động - dáng đi, và cả cách mà con bé níu cầm chiếc mũ - đều rất lanh lẹ và tỉ mỉ. Con bé chỉ cao hơn đứa trẻ ngây thơ đang nhâm nhi nước trái cây đứng bên cạnh tôi đây một chút, nhưng dường như bằng cách nào đó, con bé lớn tuổi hơn thì phải. Bên dưới chiếc áo choàng trắng tinh mà tôi đã nhìn đến phát ngấy trong tiết giảng, là một chiếc áo blouse cổ điển màu vàng tươi.
Tôi rõ ràng… đã nhìn thấy trang phục này ở đâu đó rồi… Ở đâu thế nhỉ?
“Um… em có nhắc đến chiêm tinh, phải không? Nếu tò mò về mối liên hệ của ma thuật trong lịch sử nhân loại đến vậy, thì sao không tìm đến thư viện nhỉ? Em có thể nghiên cứu nhiều như mình muốn.”
Tôi đã có ý muốn chân thành và khuyên nhủ một cách tôn trọng… nhưng con bé chỉ hắt một hơi, thái độ con bé trở nên dễ sợ hơn. Mọi chuyện đang đi theo chiều hướng khó xử.
“Cô đang bảo tôi đến thư viện ư? Vậy sao hiệu quả bằng hỏi trực tiếp quản trị viên AI – ý tôi là, cô Fujimura chứ. Tôi cứ tưởng, rằng con người chịu khó dự giảng được như cô, phải nhận biết sự khác biệt rành rành, giữa kiến thức bập bõm trong tài liệu đọc thêm, với lý giải mạch lạc và nhất quán, đến từ việc trao đổi với các chuyên gia trong lĩnh vực. Nếu cô không hiểu nổi được điều đấy, thì tôi phải hỏi rằng, sao cô cứ phải quấy rầy người ta, bằng cái sự biếng nhác của mình đấy.”
“Y-ý em là sao, ‘biếng nhác’ á…?”
“Chà. Đúng là trẻ mới nhú…”
Mọi thứ đang đi theo chiều hướng xấu - Karin giờ đã lên cơn. Nếu tôi cứ để yên như vậy, chẳng mấy chốc mọi thứ sẽ mau vượt khỏi tầm kiểm soát và trở thành một cuộc hỗn chiến. Giờ cô ấy đang muốn đập nhau lắm rồi, nhưng tôi muốn tránh xa bất kỳ mối rủi ro nào liên quan đến quan hệ của tôi với những học sinh khác và kết cục là bị cấm dự tiết giảng.
“Nào, Karin. Dừng thôi. Tớ không bực mình hay gì đâu.”
“... Hm? Chờ đã, chẳng phải vừa rồi…” Karin nhìn tôi đúng lúc vừa nhận ra điều gì đó. Cô bé vội vã kéo chiếc mũ xuống dưới đầu. Có phải sư phụ đã gọi con bé là Haruko không?
“Chị cũng có chuyện quan trọng cần làm. Và rất gấp.”
“Ra… ra là vậy. Xin lỗi vì mọi chuyện.” Con bé đã cất công lên sân thượng để tìm sư phụ của tôi, thế nên tôi muốn thể hiện sự thừa nhận đối với cống hiến của con bé. Ở khía cạnh này chúng tôi có sự đồng điệu mà. “Nếu không nhầm thì em không thường xuyên đến tiết giảng lắm? Nếu không phiền thì chị có thể cho em mượn cuốn sổ cũ…”
“Nếu như cô đang định móc mỉa tôi thì hãy chuẩn bị cho sự trừng phạt đi.”
“Eh? Chị… chị đã nói gì sai sao?”
Con bé này nóng tính thế? Tôi nhìn Karin cầu cứu nhưng cô chỉ lắc đầu, như muốn rằng nói chả thể làm gì hơn. Và rồi, khoảnh khắc đó -
“Nhiêu đó là đủ rồi, Erice.”
Một kẻ không mời nữa lại đến - một người phụ nữ không dự giảng - rảo bước về phía chúng tôi, cất tiếng gọi thân thương đến độ phát khiếp. Bước chân kêu lách cách khi cô tiến lại gần.
“Chào mừng. Cô đến sớm hơn tôi nghĩ đấy.” Cô Fujimura đã giữ vị trí trung lập khi cả hai chúng tôi cãi vã, và chào mời cô ta bằng một giọng gượng gạo đến kỳ lạ.
“Nhờ ơn cô đấy chứ, Caren. Chính cô bảo tôi phải đến thật sớm, kẻo lỡ dịp chứng kiến chuyện vui mà.” Cô diện một bộ đồng phục thủy thủ cổ điển màu đen và mái tóc màu bạc thong dong xõa xuống. Tôi biết người phụ nữ này – người không hợp chút nào với Akihabara, người luôn phủ lên mình một tấm vải liệm tao nhã qua từng ngày.
“Chitose… Cô…cô làm gì ở đây vậy… ?”
Giờ mọi thứ đã sáng tỏ. Vấn đề cấp bách của Caren hẳn là cô ta.
Cô bé đội mũ chắc đã nghe lời thì thầm của tôi. “Chitose…? Một dân thường làm sao có thể nói chuyện trực tiếp với AI quản trị viên khu tự quản mà không có cuộc hẹn trước nào…?”
Tôi nghe thấy tiếng thở gấp gáp, con bé mau quay mình về phía sau nhìn lại người phụ nữ. Giờ cả hai đang đứng mặt - đối - mặt, vì thân hình nhỏ nhắn của nên con bé phải ngước cổ lên nhìn.
“Cô là…Manazuru Chitose, có phải là…? Dấu Thánh?”
“...Đúng vậy. Đã lâu lắm rồi mới có người gọi ta bằng cái tên đó.”
Cô bé phát ra tiếng rên rỉ. “Làm sao có thể…”
Nhìn mặt con bé bặm trợn chưa kìa, cứ mảy may tưởng là cả hai sẽ phang nhau luôn chứ. Trái ngược hoàn toàn với vẻ mơ màng, con bé giờ đang nhẹ nhàng lấy lại sự lịch thiệp. Thoạt lùi lại ba bước, và cúi gằm mặt xuống. Đôi tai ửng đỏ, thoáng nhìn thôi cũng có thể thấy đôi má ửng hồng qua làn tóc mái.
Con bé lấy ngón tay chạm vào vành mũ. Với tiếng kêu rột roạt, chiếc mũ tự gấp lại và thu lại thành chiếc băng buộc đầu. Khuôn mặt con bé đã biểu lộ hết tất cả, con bé cúi đầu thêm lần nữa.
“Từ tận đáy lòng, tôi xin lỗi vì sự xấc xược của mình, thưa Dấu Thánh.”
Chitose chỉ nhẹ nhàng gật đầu.
“Cô bé có việc gì với Caren không? Ta không phiền nếu đợi thêm chút nữa đâu.”
“K-không có gì đâu! Chắc chắn không có ai trừng phạt ai, ở đâu đây cả.” Con bé giờ đang cứng đờ và lo lắng, phong thái kiêu kỳ không quá hai phút vừa rồi xem chừng đã trở thành một ký ức xa vời. Thực sự thì điều này có chút dễ thương - mặc dù nói chung, mọi người thường có khuynh hướng nhún nhường trước Chitose hơn là thỏa hiệp.
Về phần mình, Chitose tử tế đáp lại, tuy vậy không nên nhầm lẫn với sự nhiệt tình hay lòng trắc ẩn. Cô hướng ánh nhìn về cậu bé ngồi ở bàn chúng tôi, và trong chốc lát, mắt cô như thể con rắn vừa săn tìm được con mồi.
“Phải, là cậu bé đó đấy.” cô nói, như thể đang tự nói chính mình. “Tôi còn không biết linh cơ của cậu bé này thuộc class nào. Thế giới này đầy rẫy những điều bất ngờ nhỉ.”
Tôi thú nhận - là mình đã không thể kiềm chế, và để ham muốn lấn át. Thằng bé sẽ cảm thấy những gì, khi thấy ánh nhìn ấy đang hướng vào bản thân? Khiếp hãi? Hay hận thù? Liệu thằng bé có hoàn toàn làm ngơ, phủ nhận chính sự tồn tại của mình.
Nhưng thay vào đó - tên nhóc đó đã cười. Một nụ cười rạng rỡ, sáng loáng tựa như vì sao.
Sự im lặng bao trùm trong một vài giây, sau đó Chitose cũng đáp lại nụ cười với thằng bé. Kế bên mình, tôi thấy cô bé đội mũ đang nao núng. Và rồi khuôn mặt cô ta nở một nụ cười ranh mãnh, đứng trước mặt, và đặt đầu ngón tay trắng nhợt trên vai tôi.
“Ta yêu cầu con phải chịu trách nhiệm với cậu bé này, Erice.”
“Cháu hiểu rồi”, tôi lẩm bẩm. Cô ta khẽ nhún vai trước câu trả lời đầy bất mãn của tôi.
Có vẻ như cuộc trò chuyện đã kết thúc. Một khi Chitose đã đặt ra yêu cầu, sư phụ của tôi chắc chắn sẽ phải tuân theo. Tôi đứng bật dậy khỏi chỗ ngồi, cúi đầu trước sư phụ và dẫn thằng bé đi từ sân thượng ra như đã được hướng dẫn từ trước.
“Người đó là ai vậy?”, Karin hớn hở hỏi khi chúng tôi đứng ở hành lang.
“Khiếp đảm lắm.” Chỉ lần này, tôi thực sự biết ơn vì phong thái vô lo của cô.
“Với lại bà bị sao vậy? Không phải là bà định hỏi Caren điều gì à? Có sao không nếu cứ bỏ đi như vậy?”
“Không sao cả. Cứ đi tiếp thôi.”
Tham gia Hako Discord tại
Ủng hộ bản dịch tại
Louis XVII (27 tháng 3 năm 1785 - 8 tháng 6 năm 1795), tên thật là Louis Charles, là người giữ tước hiệu Vua Pháp từ 21 tháng 1 năm 1793 tới 8 tháng 6 năm 1795. - Bị xử chém khi chỉ mới 10 tuổi. Nhà tắm Caracalla (tiếng Ý: Terme di Caracalla) tại Roma nước Ý là nhà tắm công cộng (tiếng Latinh: thermae) nổi tiếng nhất cả về mặt tiện nghi lẫn về quy mô đồ sộ đứng hàng thứ hai của Đế quốc La Mã được xây dựng ở kinh thành Roma từ năm 212 đến 217, dưới thời trị vì của các Hoàng đế Septimius Severus và Caracalla. Là câu nói của Neil Amstrong khi hoàn thành sứ mệnh Apollo 8. Simoom (tiếng Ả Rập: سموم samūm ; từ gốc س م م [smm سم "to tox") là một cơn gió mạnh, khô, bụi. Từ này thường được sử dụng để mô tả một cơn gió địa phương thổi ở Sahara, Israel, Jordan, Syria và các sa mạc của Bán đảo Ả Rập. Nhiệt độ của nó có thể vượt quá 54 ° C (129 ° F) và độ ẩm có thể giảm xuống dưới 10%.