Nếu bắt buộc phải trả lời tại sao L cương quyết không hé lộ bản thân mình, chúng ta có thể lý giải điều đó một cách rất đơn giản: làm như vậy quá nguy hiểm. Cực kỳ nguy hiểm. Trong khi những nhà lãnh đạo trên thế giới luôn nỗ lực để đảm bảo sự an toàn cho những trí tuệ kiệt xuất, không chỉ riêng những thám tử, thì sự thật là hệ thống an ninh xã hội hiện nay chưa cho phép việc đó. Và L tin rằng anh ta không còn cách nào khác ngoài tự bảo vệ bản thân nhờ khả năng của chính mình. Bằng tính toán đơn giản, năng lực của L trong năm 2002 bằng với năm văn phòng điều tra thông thường, và bảy cơ quan tình báo (cho tới trước thời điểm anh ta tham gia truy bắt Kira, những con số này còn lớn hơn nữa). Các bạn có thể dễ dàng cho rằng đó là một lý do tuyệt vời để kính trọng và ngưỡng mộ ai đó, nhưng hãy cho phép tôi khẳng định điều này rõ ràng nhất có thể: khả năng như vậy trong một con người là cực kỳ nguy hiểm. Những kỹ thuật quản lý hiểm họa hiện đại hoạt động chủ yếu dựa trên việc khuếch tán sự rủi ro, nhưng sự tồn tại của L thì hoàn toàn ngược lại. Nói cách khác, nếu ai đó muốn gây tội ác, cơ hội thành công của hắn sẽ được tăng lên đáng kể nếu hắn có thể “khử” L trước khi bắt đầu. Đó là lý do tại sao L không bao giờ để lộ bản thân mình. Không phải vì anh ta nhút nhát, hay vì anh ta không bao giờ ra khỏi nhà. Điều đó chỉ để bảo đảm sự an toàn cho anh ta. Đối với một thám tử giỏi như L, tự bảo vệ bản thân và giữ gìn hoà bình thế giới là một, và như vậy nếu nói hành động của anh ta là hèn hạ hay tự coi mình là trung tâm thì hoàn toàn không chính xác. Tôi không thực sự thích thú với cái ý tưởng so sánh bọn họ, nhưng nếu Kira đã có khả năng giết bất kỳ ai bằng cách viết tên họ vào cuốn Tử ký thì hắn ta cũng không bao giờ công bố sự thật này cũng vì lý do như vậy. Những người thông minh nhất luôn che giấu việc họ thông minh. Những kẻ khôn ngoan sẽ không đeo bảng tên trên mình. Người khoe khoang về khả năng của mình bao nhiêu thực ra lại là kẻ liều lĩnh bấy nhiêu - hãy để những gì họ làm được tự nói lên điều đó.
Vì thế, bất cứ khi nào L hành động, anh ta sẽ có một ai đó đại diện cho anh ta trước công chúng - và trong vụ án này, điệp viên FBI Naomi Misora đang giữ vai trò đó. Ngay từ đầu Misora đã hiểu cái “quyền” này. Rằng cô là tấm lá chắn của L. Và cô cũng nhận thức được việc liên quan trực tiếp tới L sẽ đẩy cô tới mối đe dọa lớn đến mức nào... Misora đã cố gắng nhiều lần để tìm ra bản chất của Ryuuzaki, nhưng dù cô có nhìn nhận hoàn cảnh đó lạc quan bao nhiêu, cô cũng không thể nào nghĩ khác hơn rằng, “Anh ta có thể đã không nghe được nhiều trong cuộc điện đàm,” và không thể cảm thấy an tâm với phỏng đoán đó. Nếu Ryuuzaki đã nhận ra mối liên hệ giữa Misora và L, và anh ta hé lộ thông tin đó với đúng người, cô sẽ gặp nguy hiểm tệ hại trước khi bạn có thể nói gì... thậm chí trước khi bạn có thể nghĩ tới việc nói gì đó, và suy nghĩ đó khiến Misora bồn chồn. Thêm vào đó là khả năng suy luận của Ryuuzaki... Một ngày sau khi họ đã giải mã được thông điệp tên sát nhân để lại trong phòng ngủ của Believe Bridesmaid, Misora đã bắt đầu tự hỏi phải chăng suy luận của cô có được phần nhiều dựa trên sự dẫn dắt tài tình của Ryuuzaki. Vào thời điểm đó, cô có cảm giác tất cả là suy luận của cô. Nhưng nghĩ lại, những số trang, quay vòng cuốn sách, cô chỉ nhận ra nó vì Ryuuzaki đã hỗ trợ phần nền tảng. Liệu có lý do gì để cô tự xem những trang sách mà lần mò được những từ đó? Cô không thể gạt bỏ cái ý nghĩ rằng tất cả những điều này đã được diễn ra chỉ để Misora cảm thấy cô đã thực sự có tham gia vào việc giải đố, và rằng anh ta đã gần như để cô tự mình tìm ra bước ngoặt cuối cùng sau khi đã giải quyết tỷ mỷ mọi thứ khác giúp cô. Điều này hoàn toàn có thể chỉ là một sự hoang tưởng mà chính cái áp lực có L đứng sau cô đem lại... nhưng việc tìm ra danh tính của nạn nhân thứ hai trên kệ sách của Believe Bridesmaid đã là một dấu ấn quan trọng cho việc điều tra của cô. Cô đã kiểm tra lại, nạn nhân này là người duy nhất trên toàn Los Angeles mang cái tên Quarter Queen, nhưng điều này cũng không làm cô khuây khỏa hơn.
16 tháng Tám.
Naomi Misora đang ở trung tâm thành phố, tại Đại lộ Thứ Ba, tới thăm hiện trường vụ thứ hai, sau khi đã phải mò mẫm trên một tấm bản đồ. Khi không biết vụ thứ tư sẽ diễn ra khi nào, một phần trong cô đã muốn tới đây ngay từ nhà của Believe Bridesmaid, nhưng cô cần phải kiểm tra những điều khác nữa. Quá nhiều bằng chứng để sàng lọc trước, thêm vào đó là vấn đề đi lại đã khiến cô buộc phải đợi đến ngày hôm sau. Giờ đã là ba ngày kể từ án mạng thứ ba–chín ngày, bốn ngày, chín ngày, và nếu hung thủ có kế hoạch sẽ lại gây án sau bốn ngày, thì vụ tiếp theo sẽ xảy ra vào ngày hôm sau, nhưng cô cũng không còn lựa chọn nào khác. Chẳng có cách nào để ngăn chặn được điều đó diễn ra. Nên cô làm cái điều duy nhất mà cô có thể. Tìm kiếm những chứng cứ có thể giúp cô trong vụ án tiếp theo.
Theo điều tra của L, một thám tử có tên Rue Ryuuzaki thực sự đã được bố mẹ của Believe Bridesmaid thuê—và không chỉ có họ, mà cả thân nhân của nạn nhân thứ hai, Quarter Queen, và của nạn nhân thứ ba, Backyard Bottomslash, cũng đã yêu cầu Ryuuzaki điều tra. Thật quá khó để tin rằng thực tế lại có thể tuyệt vời như vậy, Misora nghĩ, nhưng khi L đã nói như vậy, cô buộc phải chấp nhận nó. Chẳng có cách nào nghi ngờ. Nhưng ngay cả khi L chưa thể tìm ra điều gì về Ryuuzaki, cô vẫn cần phải tiếp tục theo dõi, phải cộng tác với Ryuuzaki và giả đò như họ đang cùng nhau điều tra vụ án này.
Liệu có phải thực sự L chưa thể đưa ra kết luận nào về Ryuuzaki? Misora đã dành vài phút cân nhắc đến điều này. Có thể đơn giản là nói với cô về hắn sẽ trở nên quá nguy hiểm... Misora chưa từng nghĩ rằng L đã cho cô mọi thông tin mà anh ta có. Vấn đề Ryuuzaki có thể rơi vào trường hợp này—nhưng có lẽ đây cũng chỉ là sự hoang tưởng vô căn cứ. Ryuuzaki hiển nhiên là quá đáng ngờ, tuy vậy hắn ta cũng chưa gây nên một tội ác nào công khai.
Cái ý nghĩ sẽ lại thấy hắn ta bò trên hiện trường vụ án hôm nay thật kinh khủng không thể chối cãi (cô đã gặp ác mộng về nó. Thường thì Misora chẳng khi nào thức dậy dễ dàng, nhưng giấc mơ đặc biệt này gần như đã khiến cô bay ra khỏi giường). Và khi đó, ngày 16 tháng Tám, vào lúc mười giờ sáng...
Misora đã bị tấn công.
Cô đang đi tắt qua một con hẻm vắng vẻ và tối tăm khi ai đó đã đánh cô từ đằng sau bằng một chiếc dùi cui[1]. Hay chính xác hơn là, suýt đánh trúng cô—bởi cô đã cúi xuống kịp thời và tránh được. Dùi cui là một vũ khí khá nhẹ—một vật đơn giản, chẳng có gì bên trong ngoài một túi cát. Nhờ cấu tạo đơn giản mà nó dễ che giấu, và không thể chối cãi rằng đó là một vũ khí hiệu quả. Cô đã nghe thấy âm thanh không khí bị cắt làm đôi khi nó lướt qua mái tóc cô. Misora phải đối mặt với hiểm nguy kể từ giây phút cô chấp nhận làm cánh tay, đôi mắt và cả lá chắn của L, thế nên cô đã không quá hoảng hốt và phản ứng mau lẹ. Chuyện xảy ra đã nhanh chóng đẩy lùi những ý nghĩ về Ryuuzaki ra khỏi tâm trí cô, điều mà có lẽ cũng tốt cho Misora. Cô tiếp đất bằng cả hai bàn tay, nhấn xuống để dồn lực vào đôi chân khi lộn ngược trên hè, rồi tung một cú đá ngang cằm kẻ tấn công. Không trúng đích. Cũng không sao—mục đích chính của hành động này chỉ là để cô có thể quay lại nhìn hắn. Chỉ có một tên, và hắn mang mặt nạ. Cô thấy ngạc nhiên khi hắn có vẻ thiếu phòng bị như vậy, nhưng ngoài chiếc dùi cui, tay trái hắn còn cầm một cây gậy to và nặng khác, khiến cô lâm vào tình thế lép vế hoàn toàn. Đây rõ ràng không phải là một tên côn đồ tầm thường. Cũng như hôm trước, Misora không có súng. Và, hiển nhiên, không phù hiệu hay còng tay. Tháo chạy có lẽ là lựa chọn khôn ngoan nhất, nhưng Misora không phải là loại người như vậy. Biệt danh của cô ở FBI là Misora Massacre[2]—có một vẻ độc ác trong cái tên này, nhưng hoàn toàn không phải là vô cớ. Cô bật lên, tiếp đất bằng chân, giơ tay phải ra trước mặt và giữ trọng tâm thấp, đối mặt với kẻ tấn công trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Hắn ngập ngừng trong giây lát trước thế đứng này, rồi nhanh chóng ra đòn—không phải bằng chiếc dùi cui, mà là cây gậy. Cô xoay người né tránh—sau đó gần như lộn nhào qua chiều ngang của con hẻm hẹp, nhắm gót giày tới thái dương hắn. Hắn tránh được, nhưng cuộc đối đầu đã kết thúc. Misora không hề định chạy đi, nhưng đối thủ của cô có vẻ không đủ hung hăng như vậy. Khi Misora đặt chân xuống đất, hắn đã quay đầu bỏ chạy. Cô đã nghĩ ngay đến việc đuổi theo nhưng rồi đã gạt đi ý tưởng đó sau khi thực hiện vài bước. Cô khá chắc hắn là một gã đàn ông. Cô khá chắc cô có thể đánh nhau với hắn, nhưng không phải là chạy đua. Cô không phải là một vận động viên điền kinh giỏi. Cô không muốn phí sức.
Cô vuốt lại mái tóc rối rồi lấy điện thoại gọi cho L. Tín hiệu đổ chuông, nhưng không ai nghe máy. Vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ luôn bận rộn, và khó có thể liên lạc được ngoài những khung giờ đã định trước. Cũng may cô không bị thương, nên việc báo cáo có thể trì hoãn. Có lẽ tới hiện trường vụ án ngay bây giờ là một ý tưởng tốt hơn, khi vụ tấn công vừa qua càng gia tăng mối nghi ngờ về Ryuuzaki. Chẳng có cách nào để xác định tên đó có liên quan tới vụ án hoặc biết về mối quan hệ của cô và L hay không, nhưng dựa vào thời điểm của vụ tấn công, khả năng gã Ryuuzaki có nhúng tay vào không phải thấp. Có lẽ cô nên tự điều tra về hắn thay vì dựa vào L để bảo vệ chính bản thân mình. Cô đang xét đến việc gọi cho Raye để nhờ anh làm giúp cô việc này, nhưng trước hết Misora phải rời khỏi con hẻm.
Đúng như dự đoán, Naomi Misora đã không đuổi theo.
Hắn rời khỏi con hẻm rồi nhảy vào chiếc ô tô đang mở máy hắn đã đỗ trên đường. Hắn quẹo một vài lần và kiểm tra gương hậu, rồi đậu vào vị trí hắn đã chọn trước. Chiếc xe chỉ là đồ ăn cắp và không thể truy ra hắn, nên hắn đã có kế hoạch bỏ nó ở đây. Để ý những camera chống trộm, hắn đi khỏi bãi đậu xe khi đã để chiếc mặt nạ, dùi cui và cây gậy trên xe. Hắn nhét chúng dưới ghế ngồi. Không để lại một dấu tay nào.
Đúng ra, hắn không định làm gì Naomi Misora ngày hôm nay, càng không phải ở đó. Hắn chỉ bắt gặp cô ta và muốn kiểm tra khả năng của cô ta. Hắn tấn công từ phía sau, nhưng không định gây thương tích cho cô ta, và tất nhiên, không muốn giết cô ta.
Đó là lý do cô ta không thể chết.
Hắn đã biết cô sẽ né được.
Nhưng ngay cả vậy, ngay cả đã tính trước như thế, cô gái này thật ấn tượng. Tránh được cú tấn công mà không hề ngoái đầu lại, và nhanh chóng chiếm được thế chủ động—hắn có thể thấy tại sao L lại chọn con tốt này. Cô ta có đầu óc và can đảm khi cần.
Cô ta có chính kiến.
Cô ta xứng đáng làm đối thủ của hắn.
Hắn gập cổ.
Và với cái đầu treo trên cổ ở một góc kỳ cục, hắn bước trên phố.
Kẻ tấn công Misora...
Tên sát nhân đằng sau Những án mạng Los Angeles BB, Beyond Birthday, bước trên phố với một nụ cười man rợ.
“A, Misora. Cô đến muộn,” Ryuuzaki nói không buồn quay đầu lại, khi cô bước vào căn hộ 605 nơi Quarter Queen sống. “Hãy cố gắng đúng giờ. Thời gian là tiền bạc, và vì thế, là cuộc sống.”
Ôi...
Ryuuzaki không bò. Cô đến ngay khi anh ta đang nghiên cứu kệ trên cùng của chiếc tủ ngăn kéo. Nhưng khó có thể coi hành động này là căn giờ chuẩn. Ngăn tủ có vẻ toàn là đồ lót của cô bé mười ba tuổi. Ryuuzaki vì thế mà trông giống một tên yêu râu xanh đang mân mê quần chíp hơn là một thám tử đang điều tra hiện trường. Không phải là cách hay nhất để bắt đầu một ngày mới. Cô đang tính che giấu sự khiếp hãi sau vụ tấn công bằng một thái độ hung hăng đối với Ryuuzaki, nhưng anh ta đã làm cô cụt hứng biết bao. Nếu đó thực sự là chủ tâm của anh ta, cô sẽ rất ngạc nhiên, nhưng khó có vẻ như vậy. Có lẽ Ryuuzaki thực sự thích thú với đồ lót của trẻ em.
Misora lại thở dài, nhìn quanh căn phòng—cả căn hộ này còn nhỏ hơn phòng ngủ của Believe Bridesmaid. Mức sống chênh lệch đến nỗi càng khó có thể nhận ra mối liên hệ giữa hai nạn nhân.
“Có vẻ là một bà mẹ độc thân ở đây, phải không?”
“Phải. Những căn hộ này được xây cho sinh viên hoặc những người độc thân, vì thế một cô bé và mẹ cô ta sống ở đây khá gây chú ý. Sáng nay tôi đã hỏi xung quanh một chút, và nghe được nhiều chuyện thú vị. Nhưng chúng hầu hết nằm trong báo cáo của cảnh sát cô đã cho tôi xem hôm qua. Người mẹ đã rời khỏi thành phố khi án mạng xảy ra, và thi thể đã được một nữ sinh hàng xóm phát hiện. Bà ta chỉ được thấy con gái trong nhà xác.”
Trong khi nghe Ryuuzaki nói, Misora kiểm tra những bức tường để xem xét những cái lỗ đóng đinh những hình nhân. Trong bốn bức tường, chỉ bên có cửa ra vào không có lỗ. Giống như trong phòng ngủ của Believe Bridesmaid, những cái lỗ này chỉ ra vị trí của đám Wara Ningyou.
“Cô băn khoăn gì à, Misora?”
“Ờ... hôm qua, chúng ta...” Misora nói, nhấn mạnh vào đại từ số nhiều ấy, “... chúng ta đã giải mã được thông điệp tên sát nhân để lại hiện trường vụ thứ nhất, nhưng... những hình nhân và căn phòng khóa kín vẫn là điều bí ẩn.”
“Đúng,” Ryuuzaki nói. Anh ta đóng cửa lại và bắt đầu bò trên tứ chi.
Nhưng không giống hiện trường thứ nhất, hai người sống trong phòng này, và có khá nhiều đồ đạc—khá bừa bộn. Bò quanh đây có vẻ không dễ dàng gì. Tuy thế, Ryuuzaki vẫn nhất định giữ tư thế đó khi di chuyển trong căn phòng. Misora đã thầm ước anh ta sẽ thôi đi.
“Nhưng Misora, tôi không nghĩ cần phải phí thời gian vào vấn đề hiện trường bị khóa kín. Đây không phải tiểu thuyết trinh thám—thực tế mà nói, hắn có thể đơn giản sử dụng chìa khóa sơ cua. Chẳng có chìa khóa nào không thể làm giống hệt.”
“Cũng đúng. Nhưng anh có thực sự tin rằng hắn lại làm một điều tầm thường như thế không? Ngay từ đầu đã không có lý do gì để dựng nên hiện trường bị khóa kín như vậy. Thế mà hắn lại làm điều đó. Tức là nó có thể là một dạng câu đố...”
“Câu đố?”
“Hoặc là trò chơi gì đó.”
“Đúng... phải, có khả năng...”
Misora quay lại nhìn cánh cửa cô vừa đi qua. Thiết kế có khác so với hiện trường vụ thứ nhất (sự khác nhau giữa cửa chính của một căn hộ với một cánh cửa nội thất trong một ngôi nhà), nhưng cơ cấu và kích thước cơ bản giống nhau. Vẻ ngoài chung chung, đơn giản—rất dễ đột nhập khi vắng người bằng cách khoan và vặn chốt cửa từ phía trong (được gọi là khóa vặn) nhưng rõ ràng, ở cả ba vụ chẳng có cái lỗ nào trên cửa cả.
“Anh sẽ làm gì, Ryuuzaki? Nếu anh muốn khóa cửa từ bên ngoài?”
“Dùng một chìa khóa.”
“Không, không phải thế... nếu anh bị mất chìa khóa.”
“Dùng một chìa khóa sơ cua.”
“Không, không phải thế... anh cũng không có chìa khóa sơ cua.”
“Thế thì tôi sẽ không khóa nữa.”
“...”
Điều anh ta nói không phải là sai.
Misora ra ngoài và sập cửa lại.
“Nếu đây là tiểu thuyết trinh thám... những căn phòng bị khóa trái thường được tạo ra bằng một thủ thuật, ví dụ bằng một cây kim và sợi chỉ, hoặc là... Ý tôi là, chúng ta gọi nó là căn phòng bị khóa trái, nhưng thực ra chúng chỉ là những căn phòng thông thường, nên không an toàn đến thế. Không giống như giá sách của Bridesmaid—chúng có khá nhiều kẽ hở quanh khung cửa. Sợi dây có thể lọt qua dễ dàng... để một đoạn dây dưới cửa, buộc vào đầu của thanh chốt, và kéo...”
“Không thể nào. Khe hở không lớn đến thế, và góc quá nhỏ sẽ triệt tiêu lực tác động. Cô có thể thử, nhưng phần lớn sợi dây sẽ gây áp lực lên cánh cửa. Trước khi cô có thể vặn chốt được một chút nào, toàn bộ lực kéo của cô sẽ trở thành lực kéo cạnh cửa. Kéo cánh cửa về phía cô.”
“Phải... nhưng cái khóa đơn giản thế này không có chỗ cho thủ thuật. Những cánh cửa trong truyện trinh thám thường sử dụng những loại khóa phức tạp hơn nhiều.”
“Có rất nhiều cách để khóa trái căn phòng. Và chúng ta cũng không thể loại bỏ khả năng hắn có chìa khóa. Quan trọng hơn, Misora, là tại sao tên sát nhân lại làm thế. Hắn không cần thiết làm vậy, nhưng hắn lại làm. Nếu là để tạo ra một câu đố, thì tại sao?”
“Như một trò chơi. Cho vui.”
“Tại sao?”
Bạn có thể hỏi như thế đối với bất kỳ tình tiết nào.
Tại sao gửi đến LAPD ô chữ đó, tại sao để lại thông điệp trên kệ sách... và trên tất cả, tại sao giết ba người bọn họ? Nếu tên sát nhân có một động cơ rõ ràng, thì đó là gì? Ngay cả nếu việc giết người chỉ là ngẫu nhiên, vẫn có lý do đằng sau nó... L đã nói như thế. Nhưng họ vẫn không biết điều gì kết nối các nạn nhân.
Misora dựa vào tường và lấy ra một vài bức ảnh từ túi của cô.
Những bức ảnh chụp nạn nhân thứ hai bị giết trong căn phòng này—một cô bé tóc vàng, đeo kính, nằm úp mặt xuống. Đầu cô bé hằn rõ vết lõm theo hình dạng của hung khí, và cả hai mắt đều bị móc ra. Điều này được thực hiện sau khi nạn nhân đã chết—giống như những vết cắt trên ngực Believe Bridesmaid, đây cũng là một hành động gây thương tích cho tử thi mà không liên quan đến nguyên nhân dẫn đến cái chết. Cô không biết tên sát nhân đã làm thế nào để hủy hoại đôi mắt, nhưng Misora cảm thấy muốn bệnh khi cố tưởng tượng hình ảnh một người có thể móc đôi mắt của một cô bé dễ thương nhỏ tuổi. Misora là một điệp viên FBI, cô không hoàn toàn là đại diện của chính nghĩa—nhưng rõ ràng có những việc không thể tha thứ được. Hành động của hung thủ đối với nạn nhân thứ hai này nên được xếp vào loại đó.
“Giết hại một đứa bé... xấu xa làm sao.”
“Giết hại một người lớn cũng xấu xa, Misora. Giết hại trẻ con và người lớn—xấu xa như nhau,” Ryuuzaki kết luận, với một thái độ hoàn toàn dửng dưng.
“Ryuuzaki...”
“Tôi đã kiểm tra mọi nơi,” Ryuuzaki nói và đứng lên. Anh ta xoa xoa tay vào chiếc quần jeans. Có lẽ ít nhất anh ta cũng nhận thức được rằng bò trên sàn nhà như vậy sẽ làm bẩn tay.
“Nhưng tôi không tìm thấy đồng nào.”
“Anh đã tìm tiền?” Như là kẻ trộm.
Một tên trộm không buồn giấu giếm mưu đồ của mình.
“Không, tùy hoàn cảnh thôi. Có một khả năng hung thủ hành động vì tiền, nhưng nếu thế, cô bé này hiển nhiên là nghèo khó hơn hai nạn nhân kia. Cũng có thể họ không phô trương những thứ có giá trị, nhưng có vẻ không phải. Chúng ta nghỉ giải lao thôi. Cô có muốn một tách cà phê không, Misora?”
“Ồ... có chứ.”
“Đợi một lát,” Ryuuzaki nói rồi tiến đến khu bếp. Misora tự hỏi có phải anh ta lại để mứt ở tủ lạnh không, nhưng rồi cô quyết định không quan tâm nữa. Cô bỏ lửng luồng suy nghĩ đó và ngồi xuống bàn. Cô đã gần như không tìm được thời điểm nào để nói với Ryuuzaki về vụ tấn công. Ôi thôi được. Cô cũng có thể tránh đề cập đến chuyện đó, và xem anh ta phản ứng thế nào. Cô không có bằng chứng gì về việc kẻ tấn công có liên quan gì với Ryuuzaki, nhưng bằng cách làm lơ việc này có lẽ cô sẽ khiến anh ta chủ quan hơn.
“Của cô đây.”
Ryuuzaki trở lại từ phía bếp, bê một cái khay với hai tách cà phê ở trên. Anh ta đặt một tách trước mặt Misora và tách còn lại ở phía đối diện, rồi kéo ghế và ngồi lại trên tư thế kỳ cục của anh ta hôm trước, với ngực tựa vào đầu gối. Không kể đến thói bất lịch sự, có vẻ ngồi như thế cũng không dễ dàng gì—đúng không nhỉ? Misora tự hỏi, rồi nhấp một ngụm cà phê.
“A!” cô la lên rồi phun ra. “Khụ khụ...”
“Chuyện gì vậy, Misora?” Ryuuzaki hỏi, ngây thơ uống tách cà phê của anh ta. “Khi có gì đã vào miệng, cô không bao giờ nên nhổ ra như thế. Và tiếng rên đó cũng không tốt cho hình ảnh của cô. Cô trông khá xinh đẹp, nên cô cũng nên thể hiện bản thân mình như thế.”
“Ng-ngọt một cách kinh khủng... như chất độc!”
“Không có chất độc nào cả. Đường thôi.”
“...”
Vậy anh là kẻ giết người?
Misora nhìn xuống cái thứ trong tách của mình... giống keo hơn là chất lỏng. Giống cà phê thấm ướt đường hơn là đường hòa tan trong cà phê—một thứ hỗn hợp sền sệt, lấp lánh trong tách. Khi chú ý của cô bị điệu bộ của Ryuuzaki làm sao lãng, cô đã để thứ vật chất ấy chạm vào môi mình...
“Tôi cảm giác như mình vừa uống bùn đất.”
“Nhưng bùn đất không ngọt như vậy.”
“Bùn đất ngọt...”
Nghe như thể một câu chuyện về những kẻ tiên phong bất chấp khốn khó, lạc quan vì một mục đích cao đẹp hơn. Cái cảm giác lạo xạo khó chịu như nhai sạn đọng lại rất lâu trong miệng cô. Phía đối diện, Ryuuzaki vẫn rất vui vẻ nhấp từng ngụm, thậm chí nốc ừng ực. Dường như anh ta không hề cố tình chơi xấu cô khi pha tách cà phê ấy, mà đối với anh ta, đó là lượng đường tuyệt đối vừa phải.
“À... cà phê luôn giúp tôi tỉnh táo,” Ryuuzaki nói, dốc nốt tách cà phê với ít nhất là hai trăm gram đường tinh luyện. “Giờ thì, quay lại với công việc nào.”
Thực lòng, Misora rất muốn đứng lên súc miệng sạch lượng đường cô “uống” phải, nhưng cô cố gắng kiềm chế mình lại. “Bắt đầu đi,” cô nói.
“Về chuyện mắt xích khuyết.”
“Anh tìm ra gì rồi à?”
“Có lẽ thủ phạm không hành động vì tiền... nhưng tối qua, sau khi tôi rời công ty, tôi đã để ý thấy một điều thú vị. Một điểm chung giữa các nạn nhân mà hình như chưa ai từng nhắc tới.”
“Gì vậy?”
“Tên viết tắt của họ, Misora. Cả ba nạn nhân đều có cái tên viết tắt khá độc đáo. Believe Bridesmaid, Quarter Queen, Backyard Bottomslash. B.B., Q.Q., B.B. Cả tên và họ đều bắt đầu bởi một chữ cái... gì vậy, Misora?”
“Không có gì...”
Chỉ thế thôi à? Vẻ thất vọng đã lộ rõ trên gương mặt cô làm gián đoạn dòng suy nghĩ của Ryuuzaki, nhưng cô không buồn che giấu điều đó. Thật là phí thời giờ. Misora đã thấy điều này ngay khi cô mới đọc được danh tính các nạn nhân lần đầu tiên. Chẳng có gì đáng để đưa ra bàn luận như thế này.
“Ryuuzaki... anh có biết có bao nhiêu người có tên lặp âm đầu như vậy trên thế giới không? Hoặc ở Los Angeles? Chỉ có hai mươi sáu chữ cái trong bảng chữ latin, tức là nếu tạm coi các chữ cái có vai trò như nhau, thì tính ngay được cứ hai mươi sáu người thì có một người có tên như thế. Chẳng có gì đáng để gọi là một mối liên quan.”
“Ồ? Thế mà tôi đã tưởng tôi sẽ nghĩ ra gì đó,” Ryuuzaki nói, vẻ thất vọng. Thật khó để biết bao nhiêu phần trong phản ứng của anh ta là thật.
Anh ta tỏ ra hờn dỗi, một điệu bộ mà rõ ràng là, với anh ta, chẳng có gì dễ thương hết.
Một cách tệ hại để thể hiện mình.
“Ý tôi là, chính anh cũng có tên Rue Ryuuzaki—R.R.”
“Ừ nhỉ! Tôi cũng không nghĩ tới cái đó.”
“Thật vô ích.”
Lẽ ra cô không bao giờ nên kỳ vọng vào anh ta. Tất cả những thứ ngớ ngẩn về cái việc anh ta đã giúp cô suy luận ngày hôm qua chỉ là một mớ hoang tưởng không hơn không kém.
R.R.?
“Misora.”
“Ừ? Gì thế?”
“Suy luận của tôi đã trở thành vớ vẩn, thế cô có ý tưởng gì chưa?”
“Chưa có gì. Tôi cũng như anh... chưa nghĩ ra được hướng đi nào ngoại trừ tìm kiếm một thông điệp khác như chúng ta đã làm ngày hôm qua. Tôi cảm giác như mình đang chờ khiêu vũ với tên sát nhân, ý nghĩ ấy làm tôi phát ớn, nhưng...”
“Thế thì chúng ta sẽ cùng khiêu vũ. Chơi đùa với kẻ thù của cô cho đến khi hắn buông lỏng bản thân và để lộ ra điều gì đó là một chiến lược hay ho. Vậy, Misora, nếu có một thông điệp ở đây thì... nó nằm ở đâu?”
“Ừm, chúng ta có thể thử đoán trước nội dung của thông điệp. Có thể là tên của nạn nhân thứ ba, Backyard Bottomslash, hoặc địa chỉ của cô ta. Câu đố ô chữ dẫn tới vụ thứ nhất, các trang sách dẫn tới vụ thứ hai, vậy thì...”
“Tôi đồng ý.”
“Nhưng thông điệp đó ẩn chứa ở đâu thì tôi không biết. Nếu chúng ta có thể tìm ra được quy luật nào đó, chúng ta có thể bắt được anh ta...”
Một thứ đáng lẽ phải ở đây, nhưng trên thực tế đã không còn.
Ryuuzaki đã miêu tả như thế.
Để nói về nạn nhân và những cuốn sách.
Có cái gì như thế ở đây không? Một thứ đáng lẽ phải ở đây nhưng giờ đã không còn? ‘Một thứ đáng lẽ phải ở đây nhưng giờ đã không ở đây’ bắt đầu nghe như một cách diễn đạt bằng ngôn ngữ của dải băng Mobius[3].
“Vậy,” Ryuuzaki cất lời, “nếu bất cứ cái gì chúng ta tìm ra đều chỉ dẫn ta đến án mạng thứ ba, thì có lẽ sẽ hiệu quả hơn nếu chúng ta bỏ qua hiện trường này và đến thẳng địa điểm thứ ba. Dù sao thì trên tất cả, mục tiêu của chúng ta là ngăn chặn vụ thứ tư cũng như phá được vụ án.”
“Phải.”
Chính cô là người đã chỉ ra khả năng xảy ra một án mạng nữa... nhưng phản ứng của Ryuuzaki cho thấy anh ta cũng nhận thức rất rõ điều này. Ý nghĩ đó khiến cô cảm thấy ấp úng.
“Vụ thứ ba đã xảy ra rồi, và chúng ta không thể làm gì nữa, nhưng vẫn còn hy vọng chúng ta sẽ ngăn chặn được vụ thứ tư. Còn hơn là phung phí thời gian tìm kiếm một thông điệp mà chúng ta đã biết ý nghĩa rồi. Tìm kiếm thông điệp dẫn tới vụ thứ tư sẽ có ích hơn nhiều.”
“Nhưng làm vậy cứ có cảm giác phục tùng thế nào ấy... như là chúng ta làm theo chỉ dẫn của hắn. Ý tôi là, biết đâu chúng ta sẽ bỏ lỡ một manh mối quan trọng về danh tính tên sát nhân nếu chúng ta bỏ qua căn phòng này. Kể cả nếu không có bằng cớ gì rõ ràng, chúng ta vẫn có thể tìm thấy linh cảm gì đó mà sau này giúp ích được chúng ta. Tôi hiểu rằng việc ngăn chặn vụ thứ tư cũng rất quan trọng, nhưng nếu chúng ta quá chú tâm vào nó, chúng ta sẽ mất đi thế chủ động.”
“Đừng lo. Tôi là một tên trùm sỏ.”
“Trùm sỏ?”
“Luôn nắm thế chủ động,” Ryuuzaki giải thích. “Tôi chưa bao giờ tuân lệnh ai. Một trong số ít thứ tôi có thể tự hào. Chưa bao giờ tuân lệnh ngay cả tín hiệu đèn giao thông.”
“Anh nên thế.”
“Không bao giờ.”
Thật cứng đầu cứng cổ.
“Ngăn chặn vụ thứ tư sẽ có thể dẫn ta đến việc tìm ra và bắt được tên sát nhân. Đó là điều thân chủ của tôi mong muốn, trên tất cả mọi thứ. Nhưng tôi cũng hiểu ý cô, Misora. Tôi đã kiểm tra căn phòng rồi, vậy trong lúc cô làm điều đó, tôi muốn nghiên cứu trước về vụ thứ ba. Cô có phiền không nếu tôi muốn nhìn lại tập tài liệu cô cho xem hôm qua một lần nữa?”
“Chúng ta sẽ điều tra theo các hướng khác nhau? Được thôi...”
Dù cô chưa bao giờ có ý định hợp tác với anh ta.
Cô lấy cặp tài liệu trong túi ra, tìm tập báo cáo về vụ thứ ba rồi đưa cho Ryuuzaki qua chiếc bàn.
“Còn đây là những bức ảnh hiện trường...”
“Cảm ơn.”
“Nhưng như tôi đã nói, không có gì mới đâu. Vẫn y như hôm qua thôi.”
“Phải, tôi biết. Có một vài điểm tôi muốn kiểm tra lại... mà tấm ảnh này kinh dị quá phải không?” Ryuuzaki nói, đặt một bức ảnh xuống bàn để Misora có thể trông thấy. Đó là một tấm chụp thi thể của Backyard Bottomslash. Trong sự nghiệp của mình ở FBI, Misora đã chứng kiến rất nhiều điều khủng khiếp, nhưng quả là tấm hình này tệ đến mức làm cô sởn gai ốc. So với thứ này, những vết cắt ở ngực hay mống mắt bị móc ra chẳng là gì cả.
Thi hài nằm ngửa, tay trái và chân phải đã bị chặt đứt sát tận gốc.
Máu tung tóe khắp nơi trên toàn hiện trường gây án.
“Người ta thấy cẳng chân phải trong phòng tắm, nhưng không tìm ra cánh tay trái ở đâu đâu. Có lẽ tên sát nhân đã mang nó đi. Nhưng tại sao?”
“Vẫn câu hỏi đó à, Ryuuzaki? Nhưng chẳng phải đó là một ví dụ khác về thứ đáng lẽ phải ở đó, nhưng đã không còn sao? Trong trường hợp này, đó là cánh tay trái.”
“Hung thủ mang theo cánh tay trái nhưng lại không lấy cẳng chân phải. Y chỉ quẳng nó vào phòng tắm. Thế có nghĩa là gì?”
“Dù là gì chúng ta cũng sẽ đến đó chiều nay. Tôi chỉ muốn ở đây một lúc đã.”
“Vậy cũng được. Ồ, đằng kia có quyển album ảnh của nạn nhân trong cái tủ kìa, Misora. Có thể xem qua để biết thêm về tính cách của cô bé hay bạn bè cô ta...”
“Được, để tôi xem.”
Ryuuzaki quay trở về với tập tài liệu trên tay, còn Misora quyết định đứng lên và đi thẳng tới bồn rửa mặt. Cô không thể chịu được cảm giác nhộn nhạo trong miệng thêm nữa. Cô súc miệng nhanh, nhưng không chỉ một mà thêm hai, ba lần nữa.
Cô đang tính liên lạc với L một lần nữa. Lần trước không có ai nghe máy. Không, hôm qua là cả một ngôi nhà, nhưng lần này trong một căn hộ nhỏ như thế không có cách nào tránh xa Ryuuzaki. Ngay cả khi cô gọi điện trong phòng tắm, anh ta cũng chẳng cần phải đến gần cửa mới nghe thấy. Cô phải kể cho L về vụ tấn công... hay đó không phải là thứ mà L cần quan tâm?
Misora ngẩng lên và nhìn thấy chính cô trong gương.
Naomi Misora.
Đấy là cô.
Vậy là rõ.
Mọi người đều biết cái cảm giác nhìn vào một từ thật lâu cho đến khi bắt đầu tự hỏi liệu có viết sai chính tả hay không. Theo cách đó, một người có thể nghi ngờ chính mình, có thể không hiểu nổi người đó sẽ là chính mình trong bao lâu. Vậy, Misora vẫn còn là cô chứ?
Đó là lý do tại sao điều này thật quan trọng.
Lý do tại sao cô nhìn đăm đăm vào hình ảnh của chính mình để xác nhận lại điều này một lần nữa.
“Nhưng liệu L có làm như vậy không?”—Bỗng dưng cô băn khoăn. Vị thám tử vĩ đại nhất thế kỷ, người chưa bao giờ xuất hiện trước công chúng, với danh tính bí ẩn. Có bao nhiêu người có thể chắc chắn L là L? Có bất kỳ ai có thể không? Naomi Misora không thể trả lời, nhưng cô đang nghĩ, liệu có khi nào, L nhìn vào một tấm gương rồi tự hỏi ai đang nhìn lại anh ta.
“Một tấm gương... gương?”
Hmm.
Dường như cô đã thấy gì đó.
Một tấm gương... phải và trái bị đảo lộn trong hình ảnh phản chiếu... phản chiếu ánh sáng... ánh sáng bị phản xạ khi gặp bề mặt nhẵn... kính tráng bạc nitrat... bạc? Không, chất liệu không phải là vấn đề, mà là chất lượng... sự phản xạ ánh sáng... không, sự đảo ngược giữa bên trái và bên phải... sự đối lập?
“Đối lập... đảo ngược!”
Misora vội vàng ra khỏi nhà tắm, trở về vị trí chiếc bàn. Ryuuzaki ngước lên ngạc nhiên, đôi mắt thâm quầng của anh ta mở to.
“Chuyện gì vậy?” anh ta hỏi.
“Bức ảnh!”
“Gì cơ?”
“Tấm ảnh chụp ấy!”
“Ồ, ý cô là tấm ảnh chụp hiện trường vụ thứ ba?” Ryuuzaki hỏi, đặt tấm ảnh xuống bàn một lần nữa. Thi thể mất đi cánh tay trái và cẳng chân phải. Misora rút hai bức ảnh khác từ trong túi ra và đặt chúng bên cạnh. Ảnh chụp tử thi vụ thứ nhất và vụ thứ hai. Những bức ảnh chụp tất cả các nạn nhân, cho thấy tình trạng họ được tìm thấy.
“Thấy gì không, Ryuuzaki?”
“Gì cơ?”
“Bất kỳ điều gì trong những tấm ảnh khiến anh thấy thiếu tự nhiên?”
“Họ đều chết rồi?”
“Chết không phải là trái với tự nhiên.”
“Thật triết lý.”
“Nghiêm túc đi. Nhìn xem—tử thi ở những tư thế khác nhau. Believe Bridesmaid nằm ngửa, Quarter Queen nằm sấp, và Backyard Bottomslash nằm ngửa. Ngửa, sấp, ngửa.”
“Vậy cô cho đó là một quy luật? Liên quan tới chín ngày, bốn ngày, chín ngày? Nghĩa là ngày mai nạn nhân thứ tư sẽ được tìm thấy nằm sấp?”
“Không, chẳng liên quan. Ý tôi là, có thể là thế, nhưng tôi đang nghĩ đến khả năng khác. Nói cách khác, cái việc thi thể của Quarter Queen bị đặt nằm sấp đã là thiếu tự nhiên rồi.”
Phản ứng của Ryuuzaki không được vừa ý lắm—ít nhất là có vẻ như thế. Có lẽ điều Misora đang cố bày tỏ chưa chạm được vào suy nghĩ của anh ta. Cô mới bật ra ý tưởng này và nói ngay bằng tất cả hào hứng, mà chưa suy nghĩ kỹ để khiến nó trở nên dễ hiểu. “Để tôi nghĩ một chút,” Misora nói, ngồi xuống chiếc ghế đối diện với anh ta.
“Misora, khi suy nghĩ, tôi đề xuất cô tư thế này.”
“‘Tư thế này’?”
Tựa ngực vào đầu gối như thế? Anh ta đang đề xuất tư thế đó?
“Nghiêm túc đấy. Nó giúp tăng thêm 40% khả năng suy luận. Cô phải thử.”
“Không, tôi... ừm... thôi được.”
Không phải anh ta muốn cô bò, và điều này cũng không tổn hại gì. Có thể nó còn giúp cô bình tĩnh lại một chút khỏi hứng thú quá mức. Cô thử đưa chân lên ghế.
“...”
Và lấy làm rất tiếc về điều đó.
Buồn hơn nữa là khi suy đoán của cô đáng lẽ đã đúng.
“Sao, Misora? Cô nói rằng Quarter Queen nằm sấp là một thông điệp từ tên sát nhân? Ám chỉ đến nạn nhân thứ ba...”
“Không, không phải một thông điệp—đây là mắt xích khuyết, Ryuuzaki. Phần mở rộng của giả thuyết về những cái tên viết tắt...”
Misora lo ngại việc hai con người ngồi trong tư thế kỳ cục để lý giải về những điều kỳ cục thật kỳ cục quá mức. Tuy nhiên, cô chỉ ra từng bức ảnh, cảm thấy cô đã bỏ qua cơ hội để chân xuống đất. Và thực ra giữ nguyên tư thế này dễ hơn nhiều so với cô nghĩ trước đây.
“Tên viết tắt của các nạn nhân—B.B., Q.Q., B.B. Có chữ cái đầu tên giống nhau chưa đủ để được coi là một mối liên hệ, nhưng... cả nạn nhân thứ nhất và thứ ba đều có cùng tên viết tắt—B.B. Nếu nạn nhân thứ hai cũng là B.B. thay vì Q.Q. thì đó hẳn là một manh mối, phải không?”
Bằng tính toán đơn giản, hai mươi sáu nhân hai mươi sáu bằng 676 người. Tỷ lệ người có tên viết tắt bằng một chữ cái cụ thể duy nhất, so với tên có chữ cái đầu giống nhau, giảm đi đáng kể... và khi có khá ít cái tên bắt đầu bằng B, con số thực tế còn nhỏ hơn nữa.
“Thú vị đấy. Nhưng Misora, tên của nạn nhân thứ hai là Quarter Queen, viết tắt là Q.Q. Có phải cô muốn ám chỉ rằng cô bé bị giết nhầm? Rằng tên sát nhân đã nhắm tới ai đó tên là B.B. nhưng lại không may giết phải một người tên Q.Q.?”
“Anh nói cái gì đấy? Thông điệp ở hiện trường thứ nhất nói rõ là Quarter Queen. Không có gì là nhầm lẫn ở đây.”
“Ồ, phải. Tôi quên mất.”
Có phải anh ta quên thật không? Câu nói nghe thật giả tạo... nhưng nếu cô cố giải thích từng phản ứng của Ryuuzaki, họ sẽ chẳng đi đến đâu cả.
“Chín ngày, bốn ngày, chín ngày. B.B., Q.Q., B.B. Ngửa, sấp, ngửa. Rõ là có thể thấy quy luật xen kẽ ở đây, như anh đã nói, và tôi đã nghĩ kỹ về giả thiết này, nhưng... cách tiếp cận vấn đề của tên sát nhân khiến cho điều đó dường như không hợp lý. Không hợp với tính cách của hắn. Những người như vậy thường hành động nhất quán hơn...”
“Nhưng phương thức giết người—siết cổ, đánh đập hay đâm dao... chúng không cho thấy một chút nhất quán nào.”
“Ngoại trừ việc chúng luôn thay đổi một cách nhất quán. Hắn ta luôn cẩn thận thử nghiệm những điều mới mẻ trong mỗi lần gây án. Nhưng xen kẽ thì không phải là đa dạng. Đó là lý do tại sao, Ryuuzaki, khi tôi nhìn vào gương lúc nãy, tôi đã chợt nhận ra—B và Q có hình dạng giống nhau.”
“B và Q? Hoàn toàn khác nhau!”
“Đó là khi chúng được viết hoa. Nhưng khi viết thường thì sao?” Vừa nói, Misora vừa viết những chữ cái lên bàn bằng đầu ngón tay. b và q. b và q. b và q.
“Anh thấy không? Chính xác là giống hệt nhau! Chỉ ngược lại mà thôi!”
“Vậy đấy là lý do mà nạn nhân này nằm sấp?”
“Đúng thế,” Misora gật đầu. “Tạm ước tính cứ 676 người có một người tên là B.B., vậy nếu ta coi đó là mối liên hệ, thì tên sát nhân hẳn phải gặp khó khăn rất lớn để tìm nạn nhân. Một thì đơn giản, nhưng hai, ba, thậm chí bốn... hoặc hơn nữa. Hắn ta buộc phải chọn Q.Q. thay vào đó.”
“Tôi đồng ý với mọi điều cô nói, ngoại trừ câu cuối cùng. Tôi không tin là tìm một nạn nhân tên Q.Q. thì dễ hơn tìm một người tên B.B. Mà nếu có đúng là như thế, tôi nghĩ rằng việc thay thế đó là một phần của lời thách đố cho phía điều tra thì hợp lý hơn. Nếu tất cả các nạn nhân đều tên là B.B., mối liên hệ sẽ trở nên quá rõ ràng. Nhưng đây cũng chỉ là suy diễn. Khả năng đúng không quá ba mươi phần trăm.”
“Ba mươi phần trăm...”
Thấp một cách đáng ghét.
Nếu đây là một kỳ thi thì cô đã trượt.
“Tại sao?”
“Theo ý cô, kết luận của cô chỉ ra lý do vì sao Quarter Queen bị đặt nằm sấp. Việc nằm sấp dẫn cô tới suy diễn ngược với b và q... nhưng quá trình này không logic, Misora.”
“Tại sao không?”
“Tên viết tắt luôn luôn được viết hoa,” Ryuuzaki chỉ ra.
“Ồ...”
Chính xác.
Tên viết tắt không bao giờ viết thường. Bao giờ cũng phải viết hoa. Quarter Queen phải là Q.Q., không thể nào là q.q. Cũng như B.B. thì không bao giờ viết là b.b.
“Vậy mà tôi đã nghĩ mình đi đúng hướng,” Misora nói, gục đầu giữa hai chân.
Rất gần... nhưng ngay cả việc khẳng định một tên sát nhân không bao giờ thay đổi không đơn thuần chỉ là suy diễn. Mà ngay cả thế, mối liên hệ giữa b và q dường như thật có ý nghĩa...
“Bình tĩnh, Misora. Đừng thất vọng quá.”
Thở dài...
“Thành thật mà nói, tôi mừng là giả thuyết của cô đã sai. Nếu Quarter Queen đã bị giết như một vật thay thế... thật là một lý do kinh khủng cho một đứa trẻ tuổi teen phải chết.”
“Đúng... nếu anh nghĩ theo khía cạnh đó...”
Mmm? Misora đột nhiên cau mày. Vừa mấy phút trước, Ryuuzaki đã khăng khăng rằng giết trẻ con hay người lớn thì không có gì khác nhau, nhưng nay động cơ cho hành động đó thì anh ta lại quan tâm? Một lý do như thế... có liên quan với bất kỳ điều gì không? Một đứa trẻ tuổi teen...
Một đứa trẻ? Đứa trẻ?
“... Không, Ryuuzaki.”
“Trong trường hợp này—chữ viết thường là hoàn hảo,” Misora nói, giọng run run.
Run run vì giận dữ.
“Đó là lý do tại sao hắn chọn một đứa trẻ.”
Một đứa bé mười ba tuổi.
Tên viết tắt của cô bé.
Viết hoa, viết thường.
“Bởi vì đó là một đứa bé—chữ viết thường. Và lý do cô bé bị đặt nằm sấp đó là viết ngược lại.”
Phải mất một thời gian sau này để Naomi Misora nhận ra rằng chính Ryuuzaki là người đã nhiệt tình chỉ ra những chữ viết tắt giống nhau, rằng nạn nhân là một đứa bé, và cũng là người đã cho cô một cốc đường tẩm cà phê để khiến cô phải vào phòng tắm, nơi mà tấm gương đã cho cô lời gợi ý cho mọi suy luận sau đó.
Dù sao thì, quay lại Những án mạng Los Angeles BB.
Mắt xích khuyết đã được tìm ra, một chi tiết quan trọng mà sau này đã trở thành tên riêng cho chuỗi kỳ án.
Ghi chú
↑ blackjack: gậy dùi cui của cảnh sát—ND
↑ Massacre: tàn sát—ND
↑ Dải băng Mobius: “Mobius strip” hay “Mobius band” là một khái niệm trong hình học topo cơ bản, về một mặt chỉ có một phía và một biên. Mặc dù dải băng khép kín nhưng khi dùng bút vạch một đường trên dải băng theo một trong hai hướng, nét bút sẽ không bao giờ quay lại điểm xuất phát. Nói cách khác, ta không thể xác định được mặt phải-mặt trái hay mặt trong-mặt ngoài của dải băng.—ND