Cô bé không biết mình đã ở đó bao lâu, nhưng việc sống trong một nhà thờ cũ dường như đã trở thành điều hiển nhiên. Bên ngoài, cô đang luyện kiếm ở quảng trường; cánh cổng nhà thờ thật trang nghiêm, nối liền với một bức tường kiên cố, còn trật tự công cộng thì được duy trì bởi một đội quân địa phương có vũ trang.
Tình hình hiện tại của thế giới đã được nhồi nhét vào đầu cô thông qua " Giáo dục ". Tuy vậy, cô chẳng học được điều gì về thực tế cả. Có lẽ những kiến thức đó cũng có ích phần nào, nhưng cô chẳng thể nhớ nổi chút gì về địa lý mà mình từng học.
Tuy nhiên, cô lại có thể cảm nhận được những miền đất xa xăm mỗi khi ngước mắt nhìn lên mặt trời rực lửa trên bầu trời; chỉ khi ngắm nhìn vầng thái dương đỏ rực ấy, cô mới cảm nhận được sự bao la của tạo hóa. Từ đó, cô dần yêu thích bầu trời không gợn mây này. Cô hiểu rõ mặt trời và độ cao mà nó vươn tới – và nó đã trở thành sợi dây kết nối duy nhất của cô với thế giới bên ngoài. Cô luôn yêu ánh nắng ấm áp của nó, và hơn hết, tóc của cô và mặt trời có chung một màu sắc.
Vì yêu mặt trời, nên việc ghét trời âm u cũng là điều dễ hiểu. Tiếng mưa khiến cô cảm thấy như thể sự tồn tại của mình đang bị xóa nhòa. Những tia nắng từng sưởi ấm cô giờ bị mây mù che khuất, và vốn dĩ cô chẳng ưa nổi những ngày mưa lớn, nhưng điều tồi tệ hơn đó là khi màn đêm buông xuống.
"Số 8, số 13! Bước lên trước!"
"Vâng."
"Vâng."
Theo hiệu lệnh của giáo quan, cả hai cầm chặt thanh kiếm gỗ trong tay rồi bước ra đứng đối mặt nhau.
"Bắt đầu."
Theo hiệu lệnh vô cảm, cả hai bắt đầu thủ thế. Những đứa trẻ trong nhà thờ không có tên; chúng chọn bạn tập, và giáo quan thì gán cho mỗi người một con số. Vì danh dự của Bệ Hạ, các giáo quan sẽ đặt tên cho bọn trẻ khi chúng đủ tuổi trưởng thành. Có lần chúng từng hỏi liệu mình có thể tự đặt tên hay không, và câu trả lời là một cơn thịnh nộ dữ dội đến mức chẳng ai dám nhắc lại lần nữa. Tên gọi mang một ý nghĩa thiêng liêng, và nhờ giáo lý trong nhà thờ, chúng sớm hiểu được tầm quan trọng đó.
Kết quả trận đấu diễn ra đúng như hàng chục trận trước: cô gái tung ra một cú nghi binh nhẹ rồi vung kiếm thật mạnh. Cô liên tục tấn công, nhiều lần trúng đích và sượt qua đầu cậu số 8. Ngay lúc đó, cậu dùng lực đá cô ngã xuống rồi lập tức chĩa mũi kiếm vào cổ cô. Lệnh dừng vang lên ngay sau đó.
"Số 8, làm tốt lắm."
"Cảm ơn."
"Còn số 13, lại vô vọng thêm lần nữa. Trí nhớ của ngươi tệ hại, động tác thì chậm chạp. Ta nói vậy là vì muốn tốt cho ngươi. Thật là một kẻ thất bại."
"Xin lỗi."
"Ngươi quên rồi sao? Ngươi sống được đến giờ là nhờ lòng tốt của ta. Thực tế mà nói, đã quá muộn để ngươi cải tà quy chính."
"Em hiểu rồi."
Các giáo quan mặc áo choàng trắng khi dạy bọn trẻ – những người mà được rèn luyện trong khuôn khổ nghiêm khắc của nhà thờ. Cuộc sống của bọn trẻ thật khắc nghiệt, và đã có không ít đứa trẻ gặp tai nạn nghiêm trọng. Cô gái căm ghét giáo quan của mình, nhưng vì ông ta dạy quá nhiều học trò, nên đến cả việc nhớ mặt cô cũng là chuyện khó khăn. Với ông ta, tất cả bọn trẻ đều giống nhau – nhất là khi ông chẳng có lý do hay ý định gì để tìm hiểu chúng. Ẩn sâu trong ông ta là một con người tốt bụng, nhưng học trò thì chẳng bao giờ biết đến điều đó. Vì phải dạy bằng những nắm đấm, cú đá và những lời cay độc, nên ông không thể có sự gắn bó tình cảm nào với chúng. Phần nhàm chán nhất chính là những lời ca tụng lặp đi lặp lại hằng ngày sau giờ học hoặc luyện tập:
"Chúng ta gửi lời tôn kính cao nhất và lòng biết ơn chân thành nhất tới Bệ Hạ Befnam vĩ đại!"
"Chúng ta thề trung thành tuyệt đối với đế quốc!"
"Nguyện cho lá cờ mặt trời sẽ không bao giờ bị vấy bẩn!"
"Giết hết những kẻ dám chống lại Đế quốc Horshiedo! Vì lý tưởng đó, chúng ta là thanh kiếm và tấm khiên của ngài!"
Họ phải biết ơn điều gì chứ? Vì sao phải thề trung thành với đế quốc? Cô gái chẳng thể nghĩ ra điều gì khiến mình phải dâng cả cuộc đời cho lý tưởng đó. Hầu hết mọi người đều không có lý do hay mong muốn trở thành "thanh kiếm", và chuyện phải hi sinh làm "tấm khiên" thì lại càng khó chấp nhận hơn. Không thể tự lý giải, cô thành thật hỏi giáo quan của mình.
"Bệ Hạ Befnam, người thừa hưởng huyết thống của người cha lập quốc – Hoàng đế Bergis, là người đáng kính nhất thời đại chúng ta. Nhờ có Bệ Hạ mà chúng ta mới có thể sống trong hòa bình và yên ổn. Vì vậy, chúng ta phải thề trung thành bất diệt với ngài. Chúng ta mang một món ân huệ to lớn với Bệ Hạ, và phải cố gắng hết mình để trả ơn ngài."
Nếu cuộc sống cứ tiếp tục như thế, cô chắc chắn rằng bản thân sẽ không bao giờ tìm thấy hạnh phúc. Rốt cuộc, cô vẫn hoàn toàn không biết ông ta đang nói về điều gì.
"Hãy lắng nghe kỹ, số 13. Việc nghi ngờ Bệ Hạ, tức là nghi ngờ Đế quốc vĩ đại của chúng ta, là hành vi không thể chấp nhận. Ngươi, hỡi kẻ hỗn xược, phải kính trọng Bệ Hạ Befnam như thể ngươi tôn trọng cha mình, và Horshiedo, quê hương của chúng ta, như thể ngươi tôn trọng mẹ mình. Điều này ngươi tuyệt đối không được quên. Hãy khắc sâu chúng vào cái đầu rỗng của ngươi đi!"
Dù vẫn không hiểu, cô vẫn gật đầu ngoan ngoãn trước cơn thịnh nộ của ông ta. Đột nhiên, cô hỏi rằng liệu mình có thể gọi Bệ Hạ là "cha" được không. Một người cha thì phải có gia đình, và nếu cô thực sự là gia đình đó, thì việc gọi ông là 'cha' là điều hiển nhiên phải làm. Tuy nhiên, mặt giáo quan bừng đỏ vì giận dữ và ông ta lập tức nổi trận lôi đình, vừa la hét vừa đánh cô.
"Báng bổ!"
Ông ta vừa gào lên, vừa đá liên tục vào cô gái đang cuộn tròn trên sàn. Kể từ ngày đó, cô mang trong lòng mối hận sâu sắc với "Bệ Hạ". Trong mắt cô lúc này, mọi điều xấu xa đều bắt nguồn từ ngài. Cô không thể hiểu nổi lý do gì khiến mình phải tôn kính ông ta như một người cha.
Sau nhiều đêm suy nghĩ, cô cũng không thể hiểu nổi những kẻ chống lại ngọn cờ mặt trời. Lá cờ ấy đâu có giống một mặt trời thật sự. So với mặt trời thật, nó quá nhỏ, lại còn bị phủ đầy họa tiết phù phiếm. Nó hoàn toàn là một sản phẩm giả mạo – chẳng hề giống mặt trời chút nào.
Khi nhìn nó, cô nghĩ: So với ta, cờ của các ngươi thật là một thất bại.
Khi cô chia sẻ ý nghĩ đó với cậu bé số 8, cậu khuyên: "Cậu mà nói vậy, chỉ khiến ông ấy giận thêm thôi, tốt nhất là đừng nói ra."
Mặc dù cậu số 8 cũng có mái tóc đỏ như cô, nhưng cách nghĩ của cậu hoàn toàn khác. Cô từng hỏi cậu có thật sự nhìn thấy mặt trời trong lá cờ đó không.
"Có chứ, thật sự rất đẹp mà; cậu thấy những nét viền đó không, trông như tia nắng vậy. Nó thể hiện rất rõ bản chất của mặt trời mà," cậu đáp.
Mình đoán là mỗi người có một sở thích riêng - Cô nghĩ.
Những ngày đơn điệu trong nhà thờ cứ thế tiếp diễn. Với lũ trẻ cùng trang lứa, cái gọi là "giáo dục" và "huấn luyện" diễn ra ngày này qua ngày khác; dù trời nắng, trời mưa hay có tuyết rơi; sáng, trưa, chiều tối; cứ thế lặp đi lặp lại không dứt. Việc học đọc, viết là điều hiển nhiên, nhưng những từ ngữ quá khó hiểu cũng bị nhồi nhét vào đầu bọn trẻ để học thuộc lòng. Chúng còn được dạy cách chào, cách hành xử trước cấp trên, và cả cách dùng ngôn ngữ trang trọng. Các giáo quan trở thành những sĩ quan cấp cao, những người áp dụng hình phạt thân thể như một sự hướng dẫn đầy phước lành cho những người phạm lỗi.
Từ đầu đến cuối, bọn trẻ được dạy những chiến thuật chiến đấu tiêu chuẩn nhằm tiêu diệt lũ ngu ngốc dám chống lại Đế quốc của Bệ Hạ.
"Chúng ta chiến đấu vì điều gì?" – cô gái từng hỏi, và ngay lập tức bị đánh vì câu hỏi ấy.
"Khi đến tuổi trưởng thành, các ngươi sẽ phục vụ cho Bệ Hạ. Để đền đáp công ơn nuôi dưỡng, các ngươi phải làm việc hết mình... Mà, ta cũng không mong đợi bất kỳ ai trong số các ngươi vượt qua được cuộc thử nghiệm này"
Tôi thực sự không muốn nhắc đến chuyện này, nhưng bây giờ tôi phải rời khỏi đây – Đó là điều cô muốn nói, nhưng cuối cùng vẫn nuốt lại. Một lần nữa, cô ngồi thẫn thờ trong căn phòng của mình, cảm thấy kinh tởm chính sự phục tùng của bản thân. Trong căn phòng tối tăm không ánh sáng, cô lặp đi lặp lại câu nói ấy: "Tất cả vì Bệ Hạ." Ngày này qua ngày khác, đến mức phát điên. Giọng cô khàn đặc, cổ họng khô rát, cảm giác như mình sắp chết. Trong cái vòng lặp khổ đau không dứt ấy, cô dần dần căm ghét "Bệ Hạ" đến tận xương tủy. Cô nghĩ, thà giết ông ta còn hơn là tôn thờ.
Giữa những ngày tháng tối tăm đó, điều duy nhất mang lại chút niềm vui là giờ ăn. Dù những nụ cười hiền hòa của lũ trẻ cũng đã phai nhạt. Không còn tiếng cười, nhưng ít nhất cô vẫn có thể chia sẻ niềm vui khi được ăn cùng bọn trẻ. Tuy nhiên, đến một ngày nọ, cả bữa ăn cũng trở nên vô vị.
Bọn trẻ bị bắt uống một thứ chất lỏng đen ngòm. Đó là một loại thuốc dùng để cường hóa cơ thể – một loại thuốc với màu sắc đục ngầu chẳng khác gì nước bùn. Dù những đứa trẻ khác ngoan ngoãn uống hết, cô gái không thể chịu nổi. Không chỉ ngoại hình ghê tởm, mùi của nó còn tệ hơn bất cứ thứ gì cô từng ngửi qua. Vị thì chẳng khác gì sắt gỉ.
Cô từ chối uống tiếp, lắc đầu dữ dội – và lập tức bị đánh, rồi bị ép phải nuốt hết thứ chất lỏng đó. Hô hấp trở nên khó khăn, kèm theo là cơn buồn nôn dữ dội.
"Thời gian khá nhanh để cơ thể phản ứng như vậy. Pha loãng đúng nồng độ chưa?"
"Đã pha đúng liều lượng. Những đứa khác đều ổn cả."
"...Liều lượng còn tuỳ vào từng đứa, nên dù có tính toán chính xác thì cũng không thể tránh khỏi vài trường hợp bất thường."
"Tại sao lại là nó? Mà mất một đứa như vậy cũng chẳng đáng ngạc nhiên... Giờ không còn lý do gì để giúp nó nữa, dọn dẹp thôi chứ?"
"Chưa được. Cứ điều trị tạm thời đi. Dù nó không sống sót được tới kỳ sát hạch, nhưng đây sẽ là một dữ liệu tham khảo tốt cho 'Chiến dịch Bình minh'. Không được lãng phí "
"Rõ. Cách ly nó và tiếp tục theo dõi."
Cô gái giằng co giữa sống và chết suốt ba ngày, tưởng như bất cứ lúc nào cũng chực rơi xuống vực thẳm. Bằng một phép màu nào đó, cô đã sống sót. Từ ngày đó trở đi, việc uống thứ thuốc đen kia không còn khiến cô nôn ra máu nữa.
Thật không may, cô chẳng cảm nhận được lợi ích nào từ nó. Thay vào đó, cơ thể cô bị tổn hại và cô bị gắn mác "kẻ thất bại số một". Giờ đây, để nhận diện gương mặt người khác, cô phải cực kỳ tập trung mới phân biệt được. Ít ra thì, cậu bé số 8 luôn cố gắng giúp cô hết sức có thể.
Cô không biết mình đã ở trong nhà thờ tẻ nhạt ấy bao nhiêu năm. Những đứa trẻ dần biến mất, thay vào đó là người mới. Ban đầu có hơn một trăm người, rồi giảm đi một nửa, nhưng sau đó lại có thêm nhiều gương mặt mới hơn. Lúc cô nhận ra thì số lượng đã tăng lên đến hai trăm người.
Những đứa trẻ mới đến vốn đã có tên, nhưng trong nhà thờ, chúng bị cấm dùng. Những ai chống đối sẽ bị đưa vào căn phòng mà cô gái ghét nhất – và suốt một thời gian dài, vào mỗi tối, hành lang vang vọng tiếng khóc không ngừng. Âm thanh đó khiến cô vô cùng đau lòng; nhưng rồi, lũ trẻ mới dần thích nghi. Tiếng khóc đêm chuyển thành tiếng cười rúc rích kìm nén. Cô gái cũng tìm thấy chút niềm vui. Những đứa trẻ mới biết rất nhiều điều về thế giới bên ngoài. Câu chuyện của chúng luôn thú vị, và cô cố hết sức để ghi nhớ từng chi tiết trong đầu.
Cậu bé số 123 là người kể chuyện hay nhất trong số đó; với vốn hiểu biết phong phú, cậu luôn kể những câu chuyện đầy mê hoặc. Khi các giáo quan không để ý, cậu sẽ kể cho cô những câu chuyện hấp dẫn đến lạ kỳ. Qua lời kể của cậu, cô dần hình dung được về thế giới bên ngoài. Dù không nhìn rõ mặt cậu, cô vẫn nhận ra đó là một chàng trai khoẻ mạnh, với nụ cười rạng rỡ như mặt trời.
Chỉ sau nửa năm, số 123 đã lụi tàn rồi chết. Cho đến phút cuối, cậu chỉ còn biết rên rỉ trong đau đớn. Kể từ đó, chẳng còn ai kể cho cô những câu chuyện hay nữa. Cô thấy trống rỗng.
Người chuyển đến ở phòng cũ của số 123 là cô bé số 150 – người sau này trở thành bạn thân nhất của cô. Với giọng nói run rẩy và gương mặt lúc nào cũng như sắp khóc, thế nhưng chính trong khoảng thời gian ấy, cô bé đã dần nở nụ cười. Mỗi đêm trước khi ngủ, số 150 sẽ lén đọc cho cô một quyển truyện tranh mà cô bé lén mang theo.
Cuốn sách kể về một con mèo có cái tên lạ – Noel. Chuyện kể rằng, Noel rời khỏi nhà và chu du khắp thế giới. Vì không đọc được chữ trong sách, cô gái luôn háo hức đợi số 150 lẻn vào phòng mình mỗi tối để kể. Hai người chui vào chăn, đọc đến khi kiệt sức rồi ngủ thiếp đi.
Dù chỉ có một cuốn sách, câu chuyện mỗi lần lại khác nhau – điều này làm cô vô cùng thích thú. Có lúc Noel gặp những người và động vật khác nhau, có khi nơi chốn cũng thay đổi; thậm chí có một lần Noel đánh bại một con quỷ khủng khiếp. Cô từng cầm cuốn sách lên xem, nhưng nó không dày đến mức có thể chứa nhiều câu chuyện như vậy.
Dù là câu chuyện nào, điểm chung luôn là kết thúc có hậu. Nhờ vậy, cô luôn lắng nghe trong bình yên – bởi lẽ, những câu chuyện buồn thật mệt mỏi.
Chuyện khiến cô hứng thú nhất là khi con quạ bạn của Noel bay đến gần mặt trời. Khi nó gần như chạm đến mặt trời, nó bốc cháy và bị thiêu chết. Nhưng sau khi chết, con quạ biến thành một ngôi sao trên bầu trời. Trong lòng, cô thầm ghen tị với con quạ ấy – vì dù đã mất đi thân xác, nó vẫn có thể ở lại gần ánh sáng ấm áp của mặt trời. Cô tin rằng con quạ đó đã tìm thấy hạnh phúc. Khi nghe vậy, số 150 có vẻ bối rối – vì cách suy nghĩ đó không bình thường chút nào.
Một buổi tối, vì quá tò mò, cô hỏi:
"Tại sao chỉ có một quyển sách mà mỗi lần đọc lại có câu chuyện khác nhau?"
"...Đó là vì... đây là một cuốn sách kỳ diệu. Mỗi lần mình bắt đầu đọc, nó lại tạo ra một câu chuyện mới. Thật là một cuốn sách tuyệt vời," số 150 vừa mỉm cười vừa trả lời.
Cô gái định khen rằng cuốn sách ấy thật kỳ diệu, nhưng rồi khựng lại – vì cô nhận thấy nét buồn man mác trên gương mặt số 150. Cô muốn hỏi lý do, nhưng không thể – bởi cô chẳng nhìn rõ được khuôn mặt cô gái ấy.
Mỗi lần nghe kể truyện, cô lại nuôi lớn một giấc mơ: giống như chú mèo Noel, cô muốn tự mình đi tìm hạnh phúc. Cô hỏi số 150: "Làm sao để tìm thấy hạnh phúc?"
"Mình cũng không biết nữa. Nhưng nếu chúng ta sống đủ lâu để thoát khỏi nơi này, hãy cùng nhau đi tìm nó, được chứ?" – rồi cả hai ôm nhau thật chặt.
Cô gái gật đầu mạnh mẽ, thì thầm: "Hứa nhé." Số 150 đáp lại bằng một nụ cười yếu ớt.
Sáng hôm sau, số 150 qua đời. Khi cô cố đánh thức bạn mình dậy, cơ thể của số 150 đã lạnh ngắt. Dù có lắc bao nhiêu lần, đôi mắt ấy cũng không mở ra nữa. Khi cô chạy đi gọi các giáo quan, họ chỉ lạnh lùng nói rằng dạo gần đây số 150 không chịu ăn gì.
"Là lỗi của các người. Các người ép cô ấy uống thứ chất đen quái quỷ đó."
"...Không có thí nghiệm nào mà không thất bại. Đôi khi, phải có hy sinh cho đại nghĩa."
"... ... ... Giá mà người chết là các người..."
"..............."
Cô gái trừng mắt nhìn hắn với ánh nhìn như muốn giết chết. Cô đã nghĩ mình sẽ lại bị đánh như mọi khi, nhưng thầy giáo chỉ lặng lẽ rời đi mà không nói một lời.
Đêm hôm đó, khi đang đi vệ sinh, cô nghe thấy tiếng nói phát ra từ một căn phòng có ánh sáng rò rỉ từ khe cửa.
"Bệ hạ muốn có một báo cáo đầy đủ về thí nghiệm và một cuộc điều tra chính thức. Với tư cách là kiểm toán viên, tôi sẽ đưa ra báo cáo."
"Tôi sẽ nộp lại bản của mình, nên ông không cần lo về chuyện đó."
"Tôi muốn biết tại sao ông cứ can thiệp vào báo cáo của tôi. Đây rõ ràng là một hành vi lạm dụng quyền lực."
"Đừng nói vậy; mọi thứ vẫn đúng tiến độ nên tôi biết báo cáo sẽ thuận lợi."
"Đang tiến triển tốt à? Đừng làm tôi cười. Mấy tháng gần đây, số ca tử vong tăng vọt. À, nhưng mặt khác thì cũng có một số kết quả thật ...đáng xấu hổ!"
"Tôi e là chúng ta không cùng chung tiếng nói, kiểm toán viên à. Dự án Bình Minh của tôi vẫn đang tiến hành đúng kế hoạch. Kỳ vọng của Bệ hạ sẽ không bị phản bội. Nếu tận dụng tốt những gì ta có, mục tiêu tiếp theo sẽ dễ dàng đạt được."
"Xin lỗi, nhưng điều đó là bất khả thi. Tôi có thể không nhận ra một vài sự giả mạo trong lần kiểm tra ngắn hạn, nhưng một cấp dưới của ông đã cung cấp bằng chứng."
"... Xin lỗi, nhưng chúng tôi không cần ông ở đây nữa. Sự can thiệp tùy tiện của ông đến đây là chấm dứt."
"Ông đang phí phạm sinh mạng của những đứa trẻ này, và hơn nữa, việc lừa dối Bệ hạ phải chấm dứt. Ông sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cho việc này."
"Đừng tưởng các người có thể thoát khỏi chuyện này, đồ đạo đức giả. Các người cũng giống bọn ta thôi. Đã có bao nhiêu đứa trẻ bị cướp đi mạng sống ở đây? Các người sẽ kết thúc tất cả bằng cách khiến sự hy sinh của chúng trở nên vô nghĩa. Tôi không thể hiểu nổi logic của các người. Dù các người có làm gì, hỏi ai đi nữa, họ cũng sẽ nói rằng thí nghiệm phải được hoàn tất."
"Dù sao đi nữa, ông đang bị bắt giữ. Xin đừng chống cự, nếu không chúng tôi sẽ dùng đến biện pháp mạnh..."
"... Dự án Bình Minh của tôi, kế hoạch tuyệt vời của tôi, sẽ không bị gián đoạn vào thời điểm này!"
Mặc dù tiếng gào thét giận dữ của ông ta vang vọng từ khu giáo viên, nhưng không một ai đáp lại. Tiếng động ầm ầm tiếp nối, rồi âm thanh thứ gì đó vỡ vụn, và sau đó là những tiếng hét chói tai, cho đến khi cuối cùng, tất cả chìm vào im lặng.
...
Để không bao giờ quên số 150, cô bé giữ lại quyển sách tranh như một kỷ vật. Đó là một báu vật quan trọng mà cô quyết không bao giờ để mất. Chỉ cần có nó, số 150 sẽ luôn sống mãi trong ký ức của cô, không gì có thể xóa nhòa.
Tuy vậy, trong một thời gian sau đó, cô bé không còn tinh thần để làm bất cứ việc gì. Đó là biến cố đau đớn nhất trong đời cô. Cô không còn người bạn đọc truyện cho mỗi đêm, không còn người cùng cô chia sẻ tiếng cười. Tuy nhiên, cô không có ý định từ bỏ lời hứa với số 150 – lời hứa mà số 150 đã không thể thực hiện được. Nếu chú mèo Noel gặp rắc rối khi không thể giữ lời hứa, thì cô bé quyết tâm giữ vững lời hứa với số 150. Trước khi có thể tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài kia, cô phải rời khỏi nơi quen thuộc này trước đã.
Bất kỳ lúc nào có cơ hội, cô đều hỏi các giáo viên, binh lính đồn trú, và cả những đứa trẻ khác: "Làm sao để tìm được hạnh phúc?"
Những đứa trẻ khác thật sự không biết, và thường tỏ ra bối rối. Các giáo viên thì làm ra vẻ hiểu biết và nói rằng: "Nếu con cống hiến cho Bệ hạ, thì phước lành sẽ đến với con," và "Khi Chiến dịch Bình Minh hoàn thành, các con sẽ có thể bước đi với lòng tự hào."
Một lũ vô dụng, cô bé nghĩ, nhưng vẫn lễ phép gật đầu trước câu trả lời. Cô không có thời gian để ngẫm nghĩ trong phòng, vì đó là khoảng thời gian rất bận rộn.
Dù nghe được bao nhiêu câu chuyện thú vị, không ai trong số các đứa trẻ biết câu trả lời cho câu hỏi của cô. Nhưng điều cô phát hiện ra là rất nhiều đứa trẻ cũng khao khát điều đó như cô.
"Nếu tôi được ra ngoài, chắc chắn tôi cũng muốn đi tìm hạnh phúc. Nếu được, cậu có thể cho tôi đi cùng không?"
Khi cậu bé số 8 nói vậy, nhiều đứa trẻ khác cũng nối bước, tụ tập quanh cô gái – người luôn mỉm cười chào đón tất cả. Dù có bao nhiêu người đi chăng nữa, cô không hề phiền lòng. Cô đối đãi với tất cả bằng sự tích cực. Số lượng giảm dần chỉ còn 50 người, nhưng những đứa trẻ ở lại thực sự đã trở thành đồng đội. Từ tận đáy lòng, cô gái biết ơn điều đó.
Ngày cuối cùng cũng đến: ngày thí nghiệm khép lại, những đứa trẻ sống sót sẽ được nhận tên để tưởng nhớ Bệ Hạ. Cậu bé số 8, khao khát sống sót đến cùng, siết chặt tay cô. Dĩ nhiên cô gật đầu đồng ý. Nhìn quanh, bao bạn học cũng đang vỗ về, động viên nhau.
"Tất cả chú ý ! Cho đến hôm nay các ngươi đã kiên cường chịu đựng. Giai đoạn cuối của Chiến dịch Bình Minh sẽ được tiến hành. Ai sống sót sau thử thách cuối cùng này sẽ là số ít vượt lên trên nhân tính. Không ngoa khi gọi những kẻ đó là hiện thân của mặt trời," thầy giáo với khuôn mặt tiều tụy, bắt đầu bài diễn văn.
Cô không biết thầy đã kiệt sức từ khi nào. Ban đầu còn nhiều người, nbưng giờ chỉ còn mỗi ông. Khuôn mặt ông nhợt nhạt, mái tóc bù xù, đôi mắt sâu hoắm, cơ bắp teo tóp đến lộ xương da. Áo choàng trắng tinh giờ bị vấy vết đỏ loang lổ.
"Chiến dịch Bình Minh không hề thất bại. Đừng để hy sinh của anh chị em các ngươi trở nên vô ích; các ngươi phải sống sót. Kế hoạch... kế hoạch của ta không thất bại, và các ngươi chính là minh chứng cho điều đó. Bình Minh của ta đã đến!"
Thầy hưng phấn rót một ly chất lỏng đen ngòm. Nó đen thăm thẳm, đen đến mức cô, dù thị lực đã giảm, vẫn nhìn rõ được.
"Cuối cùng, ta xin nâng ly cùng các ngươi. Với tinh thần đồng lòng, ta xin dâng chén này cho 'huyết nhục mặt trời', và thật vinh dự khi được nếm thử."
Thầy nở nụ cười gượng, giơ ly lên; bọn trẻ cũng hô to, rồi tất cả đồng loạt uống.
"Chúc mừng thành công của Chiến dịch Bình Minh, và cầu nguyện vinh quang mãi thuộc về Đế quốc Horshiedo... Cạn ly!"
Thầy là người đầu tiên uống, mắt nhắm chặt; bọn trẻ theo sau. Cô thì lẩm bẩm "cheers" chậm trễ, miễn cưỡng nuốt chén thuốc, tự dặn sẽ là lần cuối cùng. Ngay trước ngưỡng cửa tự do, cô đã nhẫn nhịn.
"...ah..."
Lý do khiến cô ngần ngại uống thuốc liền lộ rõ: cô cảm thấy lửa cháy rực trong dạ dày, rồi ngọn lửa lan khắp người. Thầy ngã úp mặt, gào thét trong đau đớn; bọn trẻ ngã gục hàng loạt. Cô cố gắng hét lên một tiếng, nhưng đau đớn đến mức không phát ra được âm thanh. Cô ho ra thứ dịch đỏ tươi, chất lỏng kì lạ chảy ra từ mắt và mũi.
Cô nghe một tiếng nổ lớn, trước mặt bùng lên ngọn lửa đỏ. Nó không phải ánh nắng mặt trời, và trông thật ghê rợn.
Không ai hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng cô thấy rõ: đây là kết thúc. Cô cảm nhận cái chết vây lấy khi ý thức mờ dần. Trước khi bóng tối nuốt chửng, một thứ đỏ thẫm lóe lên như tia chớp, nhưng cô đã quá mệt mỏi để nhận ra.
Một cảm giác lạnh buốt chạm vào má cô, rồi cô mở mắt. Xung quanh tối om, cô không biết mình đang ở đâu. Tiếng vo ve chói tai và tiếng nước nhỏ giọt vang lên. Khi cố gắng di chuyển, có thứ gì đó mềm và thứ cứng vướng chân. Hết cách, cô đành lần theo chỗ ánh sáng yếu ớt, đẩy hết chướng ngại và bò ra ngoài. Một thứ dính vào tay tạo âm thanh ghê rợn. Như kiến chui ra khỏi tổ, cô bò được ra rồi thở dốc, ngã quỵ tại chỗ.
Trong cơn mưa nặng hạt, mặt đất đầy những hố bùn, đá nhọn cứa vào da thịt. Mưa lạnh buốt từ trên giội xuống, rút cạn hơi ấm cơ thể. Cô đứng dậy, nhìn quanh và phát hiện nơi mình vừa chui ra không chỉ là một cái hố — đó là một ngôi mộ, và không chỉ có một mà là hàng chục cái hố rải rác khắp nơi.
Lúc đầu cô không hiểu, nhưng nhìn kỹ trong mộ là xác người. Có vài gương mặt thân quen.
Phải chăng những đứa trẻ trong nhà thờ đã bị chôn ở đây?
Xác khô đã hóa thành xương, nhưng mấy thi thể mới chỉ vừa cứng đơ, vẫn còn hình dáng. Xác chất đống, đầy giòi trắng, tiếng vo ve là từ bầy ruồi.
"..."
Cô lùi lại, mắt đã mờ nhưng vẫn thấy chân vướng phải hố khác. Cảm giác dính nhớp nháp làm cô giật mình. Cô nhấc chân lên, và thấy mình vừa dẫm phải xác một cô bé. Khuôn mặt bị sụp một nửa, nhưng cô nhận ra... số 150.
Chỉ có gương mặt số 150 cô nhớ rõ vì đây là người cô thân thiết nhất. Khi cô nhấc chân lên, thịt từ cái xác tróc ra và dính vào chân cô. Miếng da nhầy nhớp, gợi cảm giác rùng mình, nhưng cô không nỡ gạt nó đi.
"Có lẽ chúng mình không thể cùng nhau rời đi," cô lầm bầm, gạt miếng da nhão nhoét đó ra; nó vỡ vụn ngay lập tức.
Nước mắt ấm nóng trào ra.
Mình sẽ đi tìm hạnh phúc mà cậu không thể .
Với suy nghĩ ấy khắc sâu ấy, cô quỳ xuống cạnh mộ bạn, khóc lóc, la hét trong mưa gió. Tiếng khóc vang vọng trong cơn mưa như xé gió.
Khóc đến cạn kiệt sức lực, cô dần lấy lại bình tĩnh. Lau nước mưa trên mặt, cô đứng dậy..
"Mình đã sống sót. Mình là người duy nhất sống sót."
Cô gái vừa khóc vừa cười, nụ cười vượt lên trên cả sợ hãi và đau thương — đó là niềm vui.
Mình sống sót để tìm con đường đến hạnh phúc; để giữ trọn lời hứa của mọi người. Giờ chỉ còn mình mình có thể.
"..............."
Cô rút cuốn sách tranh quan trọng nhất từ áo. Mưa và bùn đã làm nó rách nát. Cô nhìn xác số 150. Thay vì để lại sách ở đây, cô quyết định mang theo.
"... Tên. Vậy mình sẽ lấy tên gì?"
Thầy giáo được cho là sẽ đặt cho cô một cái tên khi cô sống sót, nhưng thầy ấy cũng có lẽ đã chết. Cô không buồn cho ông ta. Cô không thể dung thứ cho bất cứ ai bỏ bạn mình xuống mồ.
Người không giữ lời hứa là rác rưởi — lời nói của họ không còn giá trị. Ai mà lại đi phục vụ tên Hoàng đế chứ?
Cô hét lên từ tận đáy lòng.
Khóc thêm một lúc, cô đắp đất lên mộ các bạn. Cái xác phải được chôn lại, không thể để trơ trọi giữa cánh đồng nbư vậy. Trong lúc cô làm việc, mưa ngừng rơi, và mặt trời — hình tròn yêu dấu của Noel — lại bắt đầu ló rạng.
Noel mệt mỏi, trong hơi ấm của mặt trời, cô quyết định ngủ luôn tại chỗ.
"Những ngày trời quang thật là những ngày tớ thích nhất. Chúng sưởi ấm cả thân xác lẫn tâm hồn, vì vậy tớ chắc rằng mọi người đều thích nó."
Noel mỉm cười, khẽ nhắm mắt.
Mình sẽ đi tìm cách để trở nên hạnh phúc, và mang đến cho họ một trái tim yên bình Rồi mọi người sẽ được yên nghỉ. Hãy đợi mình thêm chút nữa nhé.
Cô lặp đi lặp lại câu đó vài lần nữa, và cuối cùng Noel cũng chìm vào giấc ngủ bình yên.