Lần đầu tiên tôi gặp anh ta là trong một phòng giam ngầm dưới doanh trại của đội kỵ sĩ hoàng gia. Anh ta chỉ là một đống giẻ rách lấm lem máu và đất, bị xích lại, co ro trên nền đá lạnh lẽo. Tay chân thì dài ngoẵng một cách đáng sợ, đôi mắt đục ngầu vô hồn, và phía sau lưng mọc ra hai cái cánh xoắn vặn.
Anh ta là một kẻ mang dấu ấn quỷ, sinh ra là con người, nhưng lại mang đặc điểm của loài quỷ. Một nhóm kỵ sĩ trong cuộc săn quỷ đã tìm thấy anh ta và đưa về giam giữ. Cụ thể hơn, họ bắt gặp anh ta đang ăn xác quỷ. Thế là mọi việc được giao lại cho Giáo hội.
Dựa vào vết xiềng ở cổ chân và dấu nung sau gáy, rõ ràng anh ta là một nô lệ. Thông thường, kỵ sĩ sẽ phải trả anh ta về cho chủ. Nhưng theo lời anh ta, chủ của mình đã chết, bị chính lũ quỷ mà anh ta ăn thịt giết hại.
“Vậy là...anh đang trả thù cho ông ta?” tôi hỏi.
Lúc đó, tôi là một linh mục trẻ vừa rời khỏi học viện, được cử đến để cứu lấy người đàn ông này.
Như cái tên của họ đã nói lên tất cả, những người mang dấu ấn quỷ, chẳng mấy được lòng Giáo hội. Nhưng mấy năm gần đây, do các nước khác bắt đầu dùng họ làm lính đánh thuê, quan điểm trong Giáo hội cũng bắt đầu thay đổi. Đó là lý do tôi được giao nhiệm vụ điều tra những người như anh ta.
“Đừng lo. Tôi là người của Chúa. Tôi sẽ không làm hại anh.”
Lúc ấy tôi còn trẻ lắm, trẻ và tràn đầy niềm tin vào tương lai của loài người.
“Anh có thể cho tôi biết tên được không? Tôi tin rằng cuộc gặp gỡ này là ý Trời, và tôi muốn trân trọng nó.”
“Tôi...không có tên...Gọi tôi là Slaven, nếu anh muốn.”
Người đàn ông bị xích ấy đã đánh mất hết ý chí sống. Với anh ta, tương lai chỉ còn lại sự tuyệt vọng.
Theo những gì tôi tra được, anh ta mọc cánh từ khi còn nhỏ, và mẹ đã bán anh đi. Nếu lúc đó đưa anh cho Giáo hội, có lẽ chúng tôi đã có thể chữa trị, cắt bỏ cánh, và cho anh một cuộc đời mới như bao người bình thường. Nhưng thay vào đó, anh bị một gã diễn trò rong mua lại. Anh ta quá kỳ dị nên chẳng kiếm được bao nhiêu tiền, rồi lại bị bán cho kẻ buôn nô lệ. Từ đó về sau, cuộc đời anh chẳng khác gì súc vật. Người có ấn quỷ khỏe hơn người thường, nên họ thường bị đối xử như trâu bò biết nghe lời. Nhưng tôi tin họ mới chính là tiềm năng thật sự của loài người.
“Ổn rồi. Tôi hứa sẽ giải thoát anh khỏi những xiềng xích này.”
“Còn...anh tên gì...?”
“Rialias Salamanrius, tương lai là người đứng đầu Giáo hội,” tôi mỉm cười đáp.
Và đó là lần đầu tiên tôi gặp anh ta.
Kinh thành đang cháy.
Slaven đã bị kết án tử hình. Và đêm đó, tôi quyết định thả anh ta ra. Đó không phải là hành động bốc đồng hay vì xúc động. Tôi đã nhìn xa hơn, về tương lai của Giáo hội, và của cả nhân loại. Tôi còn bàn bạc với một học giả tốt nghiệp Học viện Hoàng gia, và cả hai chúng tôi đều tin đây là điều cần làm. Tôi tin chắc không chút nghi ngờ rằng Chúa đã an bài cuộc gặp này. Người đàn ông ấy phải là hy vọng của nhân loại, là tương lai của chúng ta...
Nhưng thực tại lại tàn nhẫn hơn nhiều.
Tường thành rực lửa. Dân chúng hoảng loạn chạy trốn. Tôi đứng giữa làn gió khô khốc, ngước nhìn lên bầu trời nơi một hình bóng đang bay lơ lửng, cười lớn trong điên dại khi nhấn chìm cả thế giới vào địa ngục.
Từng bị con người ruồng bỏ, sống kiếp nô lệ bị giày vò bởi chính đồng loại, giờ đây anh ta đã đánh thức bóng tối trong mình, không còn khác gì một con quỷ thật sự, trút cơn thịnh nộ lên thế giới này.
Tất cả là lỗi của tôi. Tôi đã lầm.
“Tôi sẽ ngăn anh lại, Slaven...”
Đó là điều ít ỏi nhất tôi có thể làm để chuộc lại tội lỗi. Tôi sẽ làm mọi thứ, lừa dối bất kỳ ai, kể cả là Chúa Trời.
Đó là lời thề ngây thơ tôi đã thốt ra, khi mình còn quá trẻ.