Ngay trước khi kỳ nghỉ hè bắt đầu, vào một ngày nọ Hasegawa và tôi phải nói chuyện với nhau sau lớp Tiếng Anh. Cô ấy từng nhắc đến quê cô ở Mukaishima và ông bà cô ấy sống tại một căn nhà ở Onomichi. Câu chuyện của cô khiến tôi cảm thấy kỳ thú: cái cách Onomichi trông như một hòn đảo huyền bí ngay từ khi đứng từ bên cảng tại Mukaishima, lẫn thị trấn nhỏ tại Onomichi loằng ngoằng như mê cung,... Tôi quyết định nghỉ chân tại Onomichi trên đường từ Kyushu trở về Tokyo. Hasegawa cũng từng nói với tôi là cô ấy sẽ về nhà tại Obon.
"Nếu cậu rảnh, sao chúng ta không ra ngoài làm chén trà nhỉ?" Tôi gợi ý.
"Chắc chắn rồi!" Cô hân hoan đồng tình.
Tôi gọi cho Hasegawa vào buổi sáng tôi rời khỏi Kyushu, trước đó chúng tôi đã hẹn nhau tại một nhà hàng trong công viên Senkoji. Nhưng sau khi tôi đến Onomichi và có mặt tại nhà hàng, Hasegawa không có mặt. Tôi gọi lại cho cô, nhưng không một ai nhấc máy. Sau đó tôi mới chợt nhớ là cô ấy để quên điện thoại ở nhà. Lúc cô ấy chợt nhớ ra là nhỡ hẹn với tôi là khi cô ấy đang giúp việc ở nhà ông bà. Cẩu thả như vậy, thật không giống cô ấy chút nào.
Cô ấy đã rối rít xin lỗi bởi cô ấy trễ hẹn ba mươi phút. Cô đã chạy một mạch tới đây dưới ánh nắng chói chang, mồ hôi đầm đìa như vừa làm đồng. Lúc cô chán chường lấy khăn lau mồ hồi, tôi đã tự nhủ với bản thân, rằng cô gái này trông rất khác so với Hasegawa mà tôi từng gặp vào lớp học tối Thứ Sáu.
"Tôi xin lỗi." Cô gái vẫn tiếp tục xin lỗi. Dù không hiểu nguyên do, nhưng sự khác thường của mọi thứ lại khiến tôi phấn chấn.
"Không sao, đừng bận tâm. Hôm nay tôi cũng chẳng có gì để làm mà"
"Tôi thật sự ngu ngốc!"
"Có lẽ do cậu đang được thoải mái khi được về nhà. Bình thường mà."
"Tôi chân thành hối lỗi. Tôi thề chuyện này sẽ không tái diễn!" Cô rối rít như một đứa trẻ.
Chúng tôi hàn huyên một lúc tại nhà hàng trước khi dạo quanh một vòng Senkoji. Từ trên đền nhìn xuống, chúng tôi có thể quan sát bao quát thanh phố, và ngắm những toa xe lửa chất ních người di chuyển ngược xuôi bằng dây cáp treo. Dưới chân chúng tôi, những con ve sầu giấu mình trong tán lá xanh mướt của mùa hè.
Hasegawa ngồi phịch xuống một băng ghế dài cạnh tháp chuông, nói. "Kiểu nó khiến cậu trong có vẻ nhỏ bé đi ấy, nhỉ?" Có chút giận dữ trong giọng nói của cô. Dưới ánh nắng gắt như đổ lửa của quê nhà, Hasegawa dường như ảo não hơn so với lần chúng tôi gặp nhau tại Tokyo.
"Có phải cậu sống tại Mukaishima không?"
Cô giơ cánh tay mảnh khảnh, chỉ vào hòn đảo trước mắt để trả lời.
"Ở đằng kia. Cậu có thể qua đó bằng phà."
"Nó trông thế nào?"
"Như bất kỳ vùng ngoại ô lâu đời nào."
Sau khi ngồi trên ghế dài một lúc lâu và chiêm ngưỡng vẻ mỹ miều của biển cả, chúng tôi chậm rãi bước xuống con dóc từ Senkoji. Hasegawa tiễn tôi đến cổng ga Onomichi.
"Hẹn gặp lại vào tháng Chín!" cô nói. Hình ảnh cô ấy đứng ở phía bên kia cánh cổng cứ lặp đi lặp lại trong tâm trí tôi cho đến khi tôi quay về Kyoto.
Đó là hai tháng trước khi cô ấy biến mất.
Tôi đã cảm thấy khó khăn khi cô ấy biến mất, và điều khiến tôi còn khó chịu hơn là tôi không biết bấ cứ điều gì vào đêm xảy ra chuyện đó tại Kurama. Nỗi đau đó giằng xé tâm can tôi đến mức tôi có thể làm bất kỳ điều gì để có thể quên tất cả mọi thứ dính dáng đến cô, bao gồm cả chuyến đi đến Kurama và cuộc hẹn gặp trước đó tại Onomichi.
Năm năm sau trôi qua, tôi quay lại Onomichi. Nỗi nhớ về Hasegawa khiến tôi bị xuống dốc tinh thần. Hasegawa và vợ tôi vẫn luôn luôn giống nhau. Nó trên đời xuất hiện một cái hố nuốt chửng Hasegawa, thì hẳn nó cũng nuốt chửng vợ tôi theo...
Đừng ngu ngốc như thế! Tôi rối rắm gạt phăng suy nghĩ đó ra khỏi đầu.
Sau khi thanh toán hóa đơn và rời khỏi nhà hàng, tôi rời khói cổng chính của Senkoji và xuống dưới đồi. Đó là con đường mà tôi và Hasegawa từng sánh bước Các biểu ngữ màu đỏ và xanh dương bay phấp phới dọc theo lan can, mỗi biểu ngữ mang một lời cầu xin đến Phật Bà nghìn tay. Ở thành phố dưới chân tôi. từng mầm xanh hé nở, ló ra giữa những mái nhà và đền thờ. Biển nội địa Seto lấp lánh ánh bạc dưới ánh nắng gay gắt, phảng phất hình bóng của những hòn đảo xa mờ ảo.
Tựa một khung cảnh trong giấc mơ.
*******
Tôi bắt chuyến tàu xuống ngọn núi, sau đó đi bộ qua khu mua sắm dài, hướng về khách sạn của tôi. Tôi quyết định sẽ không bỏ cuộc cho đến khi tôi nói chuyện với vợ mình.
Khách sạn nằm theo khu trung tâm được xây dựng dọc theo Tuyến Sanyo, trong một ngách nhỏ được bao quanh bởi các quán bar và thực khách. Đường ray xe lửa chạy ngay phía sau các khách sạn tư nhân tồi tàn, và những chuyến tàu chở hàng chạy ầm ầm liên hồi.
Sảnh khách sạn thì vắng tanh, còn quầy tiếp tân thì chẳng có một mống. Trước bàn là một chiếc xe đẩy chất đầy đặc sản địa phương như kamaboko và thực phẩm khô, cũng như đủ loại hàng hóa thủ công. Những tấm mác mờ mờ cùng ghi, “Công ty Gió Biển”.
Tôi gọi liên hồi nhưng không có một concierge nào xuất hiện. Tôi bỏ cuộc và ngồi sụp xuống sô pha.
Bên cạnh chiếc ghế sofa là một chậu cây, nhưng hầu như lá của nó đều héo và rũ xuống, khiến sự hiện diện của nó chỉ khiến tiền sảnh càng thêm u ám. Sự u ám càng nâng thêm tầm cao mới bởi những bức tranh phong cảnh u ám, sầu não treo trên tường. Trong số đó, có một bức giống như một lỗ đen trên tường.
Tôi bật dạy khỏi sô pha và tiến về phía nó.
Nó dường như là một bản khắc bằng đồng. Bên dưới nó là một tấm bảng trắng với tiêu đề và tên họa sĩ được viết bằng bút đánh dấu ma thuật: Chuyến tàu đêm - Onomichi, họa bởi Kishida Michio. Bức tranh là tổ hợp màu trắng được khắc nổi đến kinh ngạc giữa nền đen nhung. Ở nửa con đường, một chiếc đèn lồng được đốt, và dưới ánh sáng của nó là một người phụ nữ không mặt, đang vẫy tay phải như thể đang gọi tôi. Tôi như bị hút vào nó khi ngắm, và không hiểu vì lý do gì, tôi vừa cảm thấy sợ hãi xen lẫn thân thuộc.
"Anh thích nó không?" một giọng nói sau lưng tôi.
Đó là concierge. Mặc đồng phục giống một tâm thảm đỏ mốc, anh ấy chăm chú nhìn vào mặt tôi với đôi mắt mở to. Mặt anh lấm tấm mồ hôi. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng, không ai khác, đó chính là người đàn ông tôi đã tình cờ gặp trước đó trên đồi.
“Đó là một tác phẩm rất nổi bật. Tôi cũng bị hấp dẫn bởi nó kể từ khi nó được treo ở sảnh này." Rồi anh ấy dường như quay về thực tại. “Tôi xin lỗi vì khiến anh phải đợi. Mời đi lối này."
Lúc anh kiểm tra tôi, anh ta hay lén nhìn mặt tôi.
"Anh có thường xuyên đến Onomichi không?"
"Không, đây là lần đầu tiên." Tôi nói dối.
"Mong anh thứ lỗi." Anh ta nói, ánh mắt hướng xuống dưới. "Tôi cảm giác như đã gặp anh ở đâu đó thì phải."
"Có lẽ là lúc chúng ta lướt qua nhau. Tôi thấy anh chạy xuống từ ngọn đồi."
Vị concierge khẽ gật đầu. "Tôi hiểu rồi. Thì ra chuyện là như vậy."
Tôi chỉ tay về phía chiếc xe đẩy. "Những món đồ thủ công đó, chúng có phải từ một cửa hàng địa phương trên đồi không?"
"Đúng vậy. Vợ tôi điều hành một cửa hàng, theo sở thích.”
Vậy hóa ra người phụ nữ đó có thật. Tôi đột nhiên xấu hổ bởi chạy ra khỏi căn nhà đó như thể bị thấy ma. Nhưng tôi vẫn không thể tin nổi thật sự có người sống trong ngôi nhà trên đồi đó.
"Lúc trước tôi vừa ghé qua đó."
"Ồ, anh đến sao?"
"Tôi lo là tôi đã thô lỗ với cô ấy, tôi vừa rời đi mà không chào hỏi một câu..."
Nghe lời xin lỗi của tôi, vị concierge nhíu mày. "Vợ tôi?"
"Phải, tôi gặp cô ấy tại nhà."
"...Không có ai ở ngôi nhà đó."
"Này, thôi nào. Ban nãy cô vừa cho tôi xem hết những món đồ thủ công của cô ấy."
Vị concierge trân mắt nhìn tôi, đôi mắt mở to tròn xoe. Trông thật sự đáng kinh ngạc, như thể tôi vừa rơi vào một hang động sâu thẳm.
"Không có ai sống tại căn nhà đó." anh ta lặp lại buộc phải nói ra từng từ. Có vẻ anh ta đang lo lắng gì đó. Ánh sáng phản chiếu lên làn da đầm đìa mồ hôi óng ánh khiến anh ta như ướt đẫm, và cái mùi khó chịu của anh ấy xộc thẳng vào mũi tôi. “Vợ tôi đã ra đi. Tôi là người duy nhất sống trong ngôi nhà đó."
Giọng đệu của anh ta khiến tôi bất an. "....Là lỗi của tôi."
"Vâng, chắc là vậy. Tôi khá chắc về điều đó." anh ta nhanh chóng đáp lại, ánh mắt như dán chặt vào khuôn mặt xanh xao của tôi.
*******
Bên trong khách sạn chật hẹp, bầu không khí nóng nực và chung đụng. Giấy dán tường thì phai màu, đồ đạc trong nhà đều đã lỗi thời.
Tôi đi tắm để gột sạch mồ hôi rồi ngồi trên giường, thân thể cạn kiệt sức lực như thể vừa đi bộ đường dài trên núi. Rồi một lần nữa, tôi cứ đi xuống rồi lại lên những ngọn đồi của thị trấn này dưới ánh nắng đầu hè.
Tôi lấy chiếc trâm từ trong túi ra và nhìn chằm chằm vào nó. Nó nằm bên trong một chiếc túi nhỏ trong suốt, trên mác ghi “Công ty Gió Biển”. Tôi mua nó từ một người phụ nữ ngụ tại căn nhà trên đồi nọ, và vì vậy nó trở thành vật chứng không thể chối cãi về những gì đã xảy ra khi đó.
Dẫu thế, nó vẫn chẳng mang ý nghĩa gì kể từ khi tôi đặt chân xuống Onomichi. Một người phụ nữ sống ại một căn nhà đổ nát trên đồi, lại còn giống vợ tôi như đúc. Còn ông chồng khăng khăng một mực khẳng định chỉ có anh ta sống tại đó. Cuối cùng là vợ tôi, người xoay quanh mối dây mơ rễ má này, giờ bị mất liên lạc và không rõ đang ở chốn nào.
Tôi gọi vợ tôi thêm lần nữa, nhưng điện thoại vẫn cúp máy.
Nằm xuống giường, tôi nhìn một hồi lâu vào trần nhà lem luốc, và cố nhớ lại xem vợ tôi đã như thế nào ở Tokyo.
Nhưng vô ích: chẳng hiểu sao tôi lại nhớ đến khuôn mặt của người phụ nữ kia, rồi từng cách cô ấy đi đứng và cư xử.
"Có lẽ cô ấy là vợ tôi thật." Tôi tự nhủ.
Trong suốt hai tuần vợ tôi vẫn sống tại căn nhà đó. Vậy tại sao tên concierge đó lại nói dối không chớp mắt như thể không ai sống tại nhà? Liệu anh ta tính tung hỏa mù để lừa bịp chăng? Anh ta hẳn phải che giấu điều gì đó. Tương tự như vậy với vợ tôi. Chỉ có một cách khiến mọi thứ bước ra ánh sáng
Một khi ý nghĩ đó chạy vụt qua tâm trí tôi, tôi nghĩ tôi không thể kìm nén nổi nữa.
Tôi đứng dậy và mở tung tấm rèm cửa nặng nề, nhìn xuống đường ray Sanyo chạy ngay phía sau khách sạn. Lúc nhìn xuống đường ray xe lửa, tôi nhớ lại lần vợ chồng tôi đi tàu đêm. Đó là vào đầu tháng Tư năm ấy, trên đường từ Kyushu về Tokyo, hẳn chúng tôi đã đi dọc con đường ray phía dưới cửa sổ phòng tôi, phóng nhanh giữa đêm đen.
Chúng tôi quay trở về sau khi tham gia buổi tưởng niệm Phật Giáo tại Kyushu. Đó là khoảng thời gian vui vẻ, và vợ tôi cũng dễ chịu như cô ấy vẫn từng. "Em muốn có cảm giác như chúng ta đang đi du lịch thật sự!" cô cầu xin tôi, và thế là chúng tôi đi tàu vào ban đêm.
Đêm đó, chúng tôi tắt đèn, và phóng mắt nhìn ra bầu trời đêm qua khung cửa sổ. Bóng hình ngọn núi đen và ngôi làng đìu hiu lướt qua. Mỗi lần chúng tôi đi qua từng trạm, khuôn mặt của cô như được tắm trong thứ ánh sáng dịu nhẹ của những nhà ga xạ lạ khác nhau đó. Khi chúng tôi lắng nghe tiếng lạch cạch của các bánh xe qua các khớp nối ray, giống như chúng tôi đang đi qua ruột của màn đêm.
Nhìn những con phố vắng tanh dần vụt qua, cô nói. "Giống như bình minh sẽ không bao giờ đến vậy."
Bây giờ những lời nói đó dường như là một điềm báo cho những điều sẽ xảy đến.
*******
Chuyện xảy ra khoảng một tuần sau khi chúng tôi trở về trên chuyến tàu đêm từ Kyushu.
Vào một đêm, tôi về muộn thì đã thấy vợ tôi đi ngủ trước. Tôi tắm rửa, cố gắng tạo ít tiếng động nhất có thể, rôi lặng lẽ nằm cạnh cô ấy.
Lúc tôi dần chìm vào giấc ngủ say, tôi đột nhiên làm tỉnh giấc, bởi cảm giác mặt tôi bị nhấn vào một chậu nước đầy. Tôi bị khó thở, cố gắng cựa quậy chống chọi mọi thứ và dần ngồi thẳng lên nệm futon, rồi thở hổn hển trong ánh sáng của căn phòng.
Tôi liếc sang người vợ bên cạnh. Cô ấy vẫn say giấc nồng như một con búp bê, và đôi mắt cô ấy nhắm nghiền, nhưng tôi có thể nghe thấy một âm thanh lạ phát ra giữa môi cô ấy. Lưỡi cô dường như đang động đậy trong miệng, tạo ra âm thanh như tiếng nước nhỏ giọt. Hẳn nó là nguyên nhân gây ra cơn ác mộng của tôi.
Lắng nghe kỹ hơn, tôi nhận thấy rằng giữa tiếng tặc lưỡi của cô ấy, tôi có thể nghe thấy những thanh âm như lời nói. Cô ấy dường như đang nói chuyện với ai đó trong giấc mơ của mình. Những lời nói to dần lên, gần giống như cô ấy đang chửi rủa ai đó, và linh cảm có một gánh nặng vô hình đang chực chờ bao rùm căn phòng.
"Em ổn không?" Tôi nói, tay đặt lên vai cô.
Ngay lập tức, cô gào lên như một con thú và dựng phắt dậy, vươn tay ra tóm lấy tôi. Con mắt của cô như thuộc về một kẻ xa lạ. Thở hổn hển, cô ấy định thần lại và lùi người ra sau vì kinh ngạc, nhìn chằm chằm vào mặt tôi không chớp mắt. Chúng tôi đã ngồi đó một lúc, nắm chặt tay nhau trong sự hoang mang. Cuối cùng vợ tôi thở dài và lấy hai tay che mặt.
"Em đã có một giấc mơ kinh khủng!"
Giấc mơ như thế này.
Vợ tôi đang ngồi trong một căn phòng sáu tấm chiếu tatami, được thắp sáng bởi một bóng đèn nhỏ. Căn phòng trơ trọi như một phòng giam, chỉ chứa một bàn giấy nhỏ và một cái bồn rửa lớn.
Cô ấy cảm thấy như cần phải chạy ra khỏi căn phòng đó, càng nhanh càng tốt. Nhưng cho dù cô ấy thiếu kiên nhẫn thế nào, cô nhận ra cô không thể nhấc nổi một bước.
Cô ấy đang ngồi trên chiếu tatami, mắt dán vào tấm màn trượt đang mở một nửa. Ở đằng xa, cô có thể phát hiện một cầu thang dẫn xuống, điều đó có nghĩa là cô đang ở trên tầng hai của một ngôi nhà. Để ra ngoài, cô cần đi xuống những bậc thang đó, nhưng có điều gì đó đáng sợ khi nhìn vào cầu thang, và cô không thể đứng dậy được.
Một lát sau, cô ấy nghe thấy tiếng lê bước kỳ dị của bốn bàn chân lên những bậc thang. Đó là một âm thanh khủng khiếp và kéo dài, âm thanh như của ai đó đang đánh và lột da từng người một theo từng bước chân, từng bước một, từng bước một. Cô ấy biết không có ích gì khi tìm cách bỏ trốn. Vợ tôi vất vả lê cơ thể nặng nề của cô ấy đến chỗ bàn giấy. Sau đó, âm thanh khủng khiếp đột ngột dừng lại, và sự im lặng của màn đêm bóp nghẹt căn phòng.
Không một ai đến.
Vợ tôi thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng sau đó, cô nhận ra ai đó đang theo dõi cô khuất sau bóng tối của cầu thang.
Ánh mắt người đó găm vào cô ấy, chỉ có đầu của anh ta là được nhìn thấy ở đầu cầu thang. Khuôn mặt trong bóng bẩy và lóe sáng, trông như đang nhỏ nước. Vợ tôi hét lên kinh hoàng, nhưng nét mặt của người đó không thay đổi. Anh ta chỉ nghiêng đầu sang một bên rồi tiếp tục nhìn chằm chằm.
"Khuôn mặt đó.. nó y hệt anh!" vợ tôi nói, trước khi im lặng.
Sau sự cô đó, vợ tôi thường xuyên mơ những cơn ác mộng. Nhiều lần tôi bị đánh thức bởi tiếng cô ấy rên rỉ trong cơn mơ. Nhưng cô ấy không bao giờ nói về những gì cô ấy đã thấy trong những giấc mơ đó nữa. Tôi cố gợi ra bằng cách nói rằng, những vấn đề mà cô ấy từ chối chia sẻ có khi sẽ tạo ra những cơn ác mộng đó. Nhưng quan điểm của cô trái ngược hoàn toàn với tôi. Cô ấy đổ cho tôi, chính vì tôi luôn nói về điều vô nghĩa này mà cô ấy đã gặp ác mộng.