All you need is kill

Chương kế tiếp:

Truyện tương tự

Đường lên đỉnh Streamer của cô nàng Oni!

(Đang ra)

Đường lên đỉnh Streamer của cô nàng Oni!

Hakoiri Hebineko

Futayado Nanaka, một cô gái 21 tuổi, tự nhận bản thân là chiến thần làm bán thời gian. Tuy nhiên, xui rủi sao mà những nơi cô đang làm đều bị phá sản.

38 3535

Tôi có một cuộc gặp mặt với vợ trong game và một cô bé tiểu học xuất hiện. Liệu tôi có phải ra tòa không...?

(Đang ra)

Tôi có một cuộc gặp mặt với vợ trong game và một cô bé tiểu học xuất hiện. Liệu tôi có phải ra tòa không...?

深山鈴

Khi đến địa điểm đã hẹn với kỳ vọng đó, cậu ấy biết được cô gái đó thực ra lại là một học sinh tiểu học. Cô ấy là vợ trong game của Naoto và có một cảm xúc lãng mạn dành cho Naoto ngoài đời thực.

36 1323

Mắc kẹt nơi thiên đường

(Đang ra)

Mắc kẹt nơi thiên đường

悲殇的秋千

Thế giới hentai là một nơi nguy hiểm, nhất là khi thằng bạn thân là nhân vật chính còn Ning Chu lại đang dần biến thành con gái.

5 313

Tập 1 - Chương 2: Trung sĩ Ferrell

1

“Nếu một con mèo có thể bắt chuột,” một Hoàng đế Trung Hoa từng nói, “đó là một con mèo giỏi.”

Rita Vrataski là một con mèo rất giỏi. Cô ta giết đủ phần của mình và được thưởng công xứng đáng. Ngược lại, tôi, một con mèo hoang ghẻ lở đờ đẫn lạc vào chiến trường, đã sẵn sàng để bị lột da, moi ruột và biến thành một cái vợt tennis. Thượng cấp luôn đảm bảo Rita được chải chuốt chỉnh tề, nhưng đừng hòng họ để một nửa con mắt tới chúng tôi.

Buổi tập thể hình đã kéo dài ba giờ đồng hồ rồi, và tất nhiên là nó có kèm theo bài tập chống đẩy tổng hợp như cứt rồi. Tôi quá tập trung để nghĩ xem mình phải làm gì tiếp theo nên chẳng có thời gian mà để ý tới bất kỳ cái gì lúc này. Sau nửa tiếng, Lực lượng Đặc chủng Hoa Kỳ từ bỏ việc chiêm ngưỡng màn khổ hình của chúng tôi và quay trở lại doanh trại. Tôi cố gắng không nhìn Rita, và cô ta bỏ đi cùng với những người khác, bỏ mặc tôi trên chuyến hành trình dài. Cứ như một đoạn mã lập trình vòng lặp nếu/thì vậy:

Nếu Rita tham gia tập thể hình =đúng, thì kết thúc.

Nếu không tiếp tục vòng lặp: Chống đẩy tổng hợp chết tiệt

(Vòng lặp if/then trong lập trình Pascal)

Có lẽ đây là bằng chứng cho việc tôi có thể thay đổi tương lai. Nếu tôi nhìn chằm chằm vào Rita, cô ta sẽ tham gia tập thể hình, và bài tập sẽ kết thúc sau một tiếng. Thượng cấp có thể đùng một phát phát động đợt tập thể hình này; họ cũng có thể kết thúc nó theo cách tương tự.

Nếu tôi đoán đúng, tình huống của tôi vẫn chưa tới mức hoàn toàn tuyệt vọng. Một cánh cửa hy vọng có thể xuất hiện trong trận chiến ngày mai. Xác suất khiến nó xuất hiện hẳn là 0.1 %, hoặc thậm chí 0.01%, nhưng nếu tôi có thể tăng cường các kĩ năng chiến đấu dù chỉ một chút ­­–– nếu cánh cửa kia hé ra dù chỉ một tí ti –– tôi sẽ tìm cách ép cho nó mở toang ra. Nếu tôi có thể luyện tập để nhảy qua mọi vật cản trên đường đua mà tử thần thiết đặt, có lẽ một ngày nào đó tôi có thể thức giấc tại một thế giới có ngày mai.

Lần tới tôi chắc chắn sẽ nhìn Rita trong buổi thể hình. Tôi có hơi mặc cảm tội lỗi khi kéo cô ta vào chuyện này, cô ta chỉ đơn giản là một người qua đường trong show truyền hình solo không có điểm dừng này. Nhưng tôi cũng chả có nhiều lựa chọn. Tôi không có cả mớ thời gian để tăng cường cơ bắp, thứ chẳng thể đưa tới vòng lặp tiếp theo. Thời gian đó tốt nhất là nên dùng để lập trình bộ não của tôi cho trận chiến.

Khi buổi luyện tập cuối cùng cũng kết thúc, những người đàn ông trên chiến trường chạy như bay về doanh trại để tránh cái nóng mặt trời, lèm bèm chửi rủa cùng thở dốc. Tôi đi tới chỗ Trung sĩ Ferrell, anh ta lúc này đang cúi xuống buộc lại dây giày. Anh ta đã trụ lại trên chiến trường lâu hơn bất cứ ai, nên tôi quyết định anh ta sẽ là điểm xuất phát tốt nhất để hỗ trợ cho phần mềm luyện tập chiến đấu của tôi. Không chỉ đơn giản là người sống sót lâu nhất trong tiểu đội, tôi cảm thấy hai mươi phần trăm trung sĩ huấn luyện mà anh ta có chắc là sẽ hữu dụng.

Bức xạ nhiệt tỏa ra trên mái đầu đinh cắt bằng của anh ta. Dù là sau ba tiếng tập thể hình, anh ta vẫn trông đầy năng lượng cứ như thể có thể tiếp tục chạy marathon và đứng vị trí đầu mà chẳng thèm đổ một giọt mồ hôi. Anh ta có một vết sẹo kì dị trên cái cổ dày, một dấu tích từ thời họ còn đang sửa lỗi cho những chiếc Chiến giáp và phải gắn chíp vào để tăng cường thời gian phản ứng của người lính. Cái thời họ phải nhờ cậy tới biện pháp thô thiển đó cũng qua lâu rồi. Vết sẹo đó là một huân chương vinh dự –– hai mươi năm phục vụ tận tụy và vẫn còn hăng hái.

“Hôm nay lại bị phồng rộp chỗ nào à?” Ferrell vẫn không rời mắt khỏi đôi giày của anh ta. Anh ta lớn tiếng nói với cái điệu uốn lưỡi đúng chuẩn dân Brazil.

“Không.”

“Thế không dám ra trận à?”

“Sẽ là dối lòng nếu em nói em không sợ, nhưng em không định chạy trốn, nếu ý anh là vậy.”

“Với một tay lính mới chỉ vừa mới huấn luyện cơ bản xong thì chú mày cũng được đấy.”

“Anh vẫn định tiếp tục luyện tập phải không, trung sĩ?”

“Ờ.”

“Anh có phiền không nếu để em tập chung với?”

“Chú đang đùa đấy à, Binh nhất?”

“Không có gì buồn cười ở đây hết, thưa ngài.”

“Chà, cái đầu chú quả thật quá là buồn cười nếu chú mày muốn chui đầu vào trong mấy cái Chiến giáp chết tiệt kia ngay trước ngày chúng ta đi tự sát tập thể. Chú mày muốn đổ mồ hôi thì đi mà tìm gái mà luyện tập.” Đôi mắt Ferrell vẫn nhìn trên dây giày. “Từ chối.”

“Trung sĩ? Với tất cả lòng tôn trọng, em chưa thấy anh theo đuổi cô nàng nào.”

Cuối cùng Ferrell cũng ngẩng đầu dậy. Đôi mắt ẩn dưới hai hàng lông mày trên khuôn mặt dày và ngăm ngăm của anh ta như hai nòng súng trường 20mm bắn ra những viên đạn trái phá vào người tôi. Tôi như bị nướng chín dưới sự âu yếm của ông mặt trời.

“Ý chú mày bảo là mày nghĩ anh là một thằng đần thích rúc đầu vào Chiến giáp nhầy nhụa mồ hôi hơn là rúc vào háng phụ nữ à? Ý chú là thế đúng không?”

“Ý-ý em không phải là thế, thưa ngài!”

“Được rồi, vậy thì ngồi đi.” Anh ta vươn tay vuốt tóc rồi chỉ xuống đất.

Tôi ngồi xuống. Cơn gió từ biển khơi thổi qua hai người chúng tôi.

“Anh đã từng ở Ishigaki, chú mày biết đấy,” Ferrell bắt đầu. “Bèo cũng phải chục năm trước. Chiến giáp lúc đó rẻ như bèo. Hồi đó cái chỗ gần xương chậu –– ngay chỗ này này –– nơi đó giáp vẫn còn chưa khớp với nhau. Chúng cọ vào da của chú mày. Và cái nơi bị đóng vảy trong luyện tập kia sẽ lại cọ xát khi chú mày ra chiến trường. Đau tới mức vài gã còn không muốn bò trên nền đất. Họ đều đứng thẳng và chạy một mạch vào giữa chiến trường. Chú mày có thể nói với họ rằng họ chỉ đâm đầu vào chỗ chết, nhưng luôn có vài gã sống sót đi ra. Y như việc có cái bia nhắm sơn trước ngực họ rồi chạy loăng quăng ấy.” Ferrell rít lên cứ như một vỏ đạn rơi. “Whap! Cả đống thằng chết theo cách đấy.”

Ferrell mang trong mình dòng máu lai giữa Nhật Bản và Brazil, nhưng anh ta lại tới từ Bắc Mỹ. Một nửa đại lục đó đã bị Mimic tàn phá. Ở đây, tại Nhật Bản, nơi đồ công nghệ cao còn rẻ hơn cả thức ăn, những chiếc Chiến giáp của chúng tôi chỉ đơn giản là những cỗ máy. Dù vậy, vẫn có nhiều quốc gia mà tất cả những gì họ có thể làm là đưa lính ra chiến trường với một cái mặt nạ chống khí độc, một khẩu súng phóng lựu lỗi thời loại tốt, và một bài kinh cầu nguyện. Quên chuyện pháo binh hay không quân đi. Mọi chiến thắng họ gặt hái được đều chẳng kéo dài được lâu. Những con nanobot chui ra từ trong xác Mimic sẽ gặm nhấm phổi của bất kỳ người lính nào còn sống sót. Và vì vậy, từng chút một, những hoang mạc hoang vu cứ xâm thực lấy những vùng đất nơi từng được gọi là nhà.

Ferrell đến từ một gia đình nông dân. Khi mùa màng của họ bắt đầu thất bát, họ chọn cách từ bỏ đất của mình và đi tới một trong những hòn đảo tại phương Đông, nơi được bảo vệ an toàn bởi những kỳ quan của công nghệ. Những gia đình có người phục vụ trong UDF được cấp phép nhập cư, đó là lý do Ferrell tham gia Lực lượng Nhật Bản.

Những “Người lính Nhập cư” đó thường thấy tại Lực lượng Bộ Binh Vũ trang.

“Chú mày đã từng nghe tới kiri-oboeru chưa?”

“Cái gì vậy?” Tôi hỏi, giật cả mình khi nghe thấy tiếng Nhật.

“Đó là một câu nói của Samurai từ thời xưa, nghĩa là ‘Hạ gục kẻ thù, rồi học hỏi.’ “

Tôi lắc đầu. “Nghe lạ tai quá.”

“Tsukahara, Bokuden, Itou, Miyamoto Musashi –– họ đều là những samurai nổi tiếng vào thời của họ. Chúng ta đang kể về chuyện năm trăm năm trước đấy.”

“Em nghĩ em đã từng đọc truyện tranh về Musashi một lần rồi.”

“Bọn trẻ chết tiệt. Chúng sẽ không bao giờ biết tới Bokuden từ Batman.” Ferrell thở dài đầy bực dọc. Ngồi đây là tôi, mang trong mình dòng máu Nhật Bản thuần chủng, và anh ta còn biết nhiều về lịch sử quê hương tôi còn hơn cả tôi. “Samurai là những chiến binh kiếm sống bằng cách chiến đấu, cũng như chú mày và anh ấy. Chú mày nghĩ những samurai anh vừa kể tên đã giết bao nhiêu người trong đời?”

“Em không biết. Nếu tên của họ vẫn còn được biết tới sau năm trăm năm, vậy hẳn là... mười hoặc hai mươi?”

“Trật cả dặm. Ghi chép từ thời đó còn rất đơn sơ, nhưng số lượng thì chắc khoảng từ ba tới năm trăm. Mỗi người. Họ còn chẳng có súng. Họ cũng không có bom. Mỗi người đàn ông họ giết đều là trong những trận chiến vũ-khí-lạnh-chết-tiệt. Anh nghĩ thế là quá đủ để trao một hai cái huy chương gì đó.”

“Sao mà họ làm được?”

“Mỗi tuần đưa một người tới thế giới bên kia, liên tục như vậy trong mười năm, chú mày sẽ có năm trăm. Đó chính là lý do họ được biết dưới cái danh bậc thầy kiếm thuật. Họ không chỉ giết một người và rồi ngừng lại. Họ tiếp tục. Và họ trở nên mạnh hơn.

“Nghe như trò chơi điện tử ấy. Anh càng giết nhiều, anh càng mạnh hơn –– kiểu kiểu thế đúng không? Cứt thật, em phải nỗ lực nhiều để bù đắp chênh lệch kinh nghiệm đây.”

“Giống như vậy đấy, ngoại trừ việc đối thủ của họ không phải là những tay mơ không được huấn luyện hay những con quái vật ảo ngoài hành tinh. Những người bị họ xẻ đôi là những con người sống, với máu và thịt. Những người đàn ông đánh nhau vì mạng sống của họ, cũng như những người khác. Nếu họ muốn sống, họ phải phải khiến kẻ thù chủ quan, đặt bẫy, và thỉnh thoảng phải vắt chân lên cổ mà chạy.”

Không phải là hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong đầu bạn mỗi khi bạn nghĩ tới những bậc thầy kiếm thuật đâu.

“Học được những điều khiến chú mày chết nhảm và cách để khiến kẻ thù chết nhảm –– cách duy nhất để biết được những điều đó là tự tay làm nó. Mấy thằng nít ranh học vung kiếm trong võ đường thì đừng hòng mà trụ được trước một gã được tôi luyện trong các trận chiến. Họ biết được, và họ cứ tiếp tục làm. Đó là cách họ xếp được một núi xác chết. Mỗi lần một cú vung kiếm.”

Kiri-oboeru.”

“Đúng vậy.”

“Vậy sao họ còn phải bỏ công ra luyện tập cho bọn em?”

“Ồ, vào ngay trọng tâm vấn đề luôn. Với đầu óc như vầy thì chú mày quá thông minh để làm một người lính đấy.”

“Nói tiếp đi, Trung sĩ.”

“Nếu chú mày thực sự muốn chiến đấu với Mimic, chú mày cần tới trực thăng hoặc xe tăng. Nhưng trực thăng thì đắt, và cũng tốn cả ối tiền để huấn luyện phi công. Và xe tăng thì một tí ti tác dụng cũng không có trên cái địa hình này –– quá nhiều núi non sông suối. Nhưng Nhật Bản thì đông lúc nhúc những người là người. Chính vì vậy họ tự bọc mình trong Chiến giáp và đưa tới tiền tuyến. Tìm đường sống trong chỗ chết.”

Xem chuyện gì xảy ra với ‘đường sống’ này.

“Mấy thứ họ nhồi nhét vào đầu chú mày trong huấn luyện là những tri thức tối thiểu. Họ đào một mớ lính mới từ cái chỗ khỉ ho cò gáy nào không biết và dạy họ không băng qua đường khi đèn đỏ. Nhìn trái, nhìn phải và giữ một cái đầu lạnh trước hoàn cảnh nóng. Những thằng khốn đen đủi nhất quên sạch sành sanh khi trận chiến nổ ra và chúng gục xuống tương đối nhanh. Nhưng nếu chú mày may mắn, chú mày có thể sống sót qua trận chiến và có lẽ còn học hỏi được chút gì đó. Cứ thưởng thức hương vị của trận chiến đầu tiên và học hỏi từ nó, chú mày sẽ có chút gì đó mà có thể được gọi là ––“ Ferrell dừng lại. “Có gì buồn cười à?”

“Hử?” Một nụ cười vừa vẽ ra trên mặt tôi khi anh ấy đang mải miết nói và tôi không hề để ý.

“Trước trận chiến mà lại cười kiểu ấy, anh bắt đầu lo không biết não chú mày có chập cheng chỗ nào không rồi đấy.”

Tôi đang mải nghĩ tới trận chiến đầu tiên của tôi, khi Wargarita Điên loạn cố giúp tôi, khi ruột non dính đầy bùn của tôi bị đốt thành than, khi tuyệt vọng và sợ hãi ào ào thác đổ trút xuống người tôi. Keiji Kiriya đã là một trong những thằng khốn đen đủi. Hai lần.

Lần thứ ba, khi tôi chạy trốn, cái số nó cũng chẳng may được hơn là bao. Nhưng không biết vì lý do gì, thế giới vẫn cứ tiếp tục cho tôi thêm cơ hội khác, thách thức tôi tìm ra cách để sinh tồn. Không phải nhờ may mắn, là nhờ vào chính mình.

Nếu tôi có thể vượt qua được khát khao chạy trốn, tôi sẽ tiếp tục thức dậy rồi huấn luyện cả ngày, sau đó là một ngày ra trận. Và còn chuyện gì tuyệt hơn vậy nữa? Gần như mặc định, tôi sẽ tiếp tục học hỏi, mỗi lần một nhát chém. Thứ một kiếm sĩ tốn mười năm, tôi chỉ cần trong một ngày.

Ferrell đứng dậy và vỗ một phát vào lưng tôi, cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. “Giờ lo lắng chuyện đó cũng chẳng giải quyết được gì. Sao chú mày không đi mà tìm bạn tình ấy?”

“Em ổn, trung sĩ, em chỉ đang nghĩ ––“ Ferrell ngoảnh mặt đi. Tôi tiếp tục. “Nếu em sống sót sau trận chiến ngày mai, sẽ lại có một trận chiến khác sau đó, đúng không? Và nếu em sống sót qua trận chiến đó, em lại tiếp tục một trận chiến khác. Nếu em học hỏi được những kĩ năng cần thiết sau mỗi trận chiến, và giữa những trận chiến em luyện tập trong môi trường giả lập, xác suất sống sót của em sẽ tiếp tục tăng lên. Đúng không?”

“Chà, nếu chú mày muốn phân tích sâu hơn ––“

“Tự dưng nổi hứng huấn luyện chắc là không có vấn đề gì đúng không?”

“Chú mày quả nhiên không chịu từ bỏ dễ dàng nhỉ?”

“Chẹp.”

Ferrell lắc đầu. “Nói thật, chú mày khiến anh có cảm giác rất khác biệt. Có lẽ anh mày đã quá già rồi.”

“Khác biệt thế nào?”

“Nghe này, có ba loại người trong UDF: bọn xì ke sắp chết đến nơi, những người nhập ngũ để kiếm cái ăn, và những người hụt chân ở đâu đó và bước nhầm vào UDF.”

“Em đoán anh xếp em vào nhóm cuối cùng.”

“Chuẩn đấy.”

“Thế anh thuộc nhóm nào, Trung sĩ?”

Anh ta nhún vai. “Mặc trang bị cấp một vào. Quay trở lại đây sau mười lăm phút.”

“Rõ –– uh, đầy đủ trang bị luôn ạ?”

“Lính chiến giáp thì tập thế quái nào nếu không có trang thiết bị. Đừng có lo, anh mày sẽ không dùng đạn thật đâu. Mặc đồ vào đi!”

“Thưa ngài, rõ!”

Tôi hành lễ, với đầy đủ lòng kính trọng.

 ***

Cơ thể con người quả thực là một cỗ máy buồn cười. Khi bạn muốn di chuyển một bộ phận –– ví dụ cánh tay đi –– não bộ sẽ gửi cùng một lúc hai tín hiệu: “Mạnh lên!” và “Yếu đi!” Hệ điều hành chịu trách nhiệm vận hành cơ thể tự động kiềm hãm một chút sức lực lại để ngăn không cho cơ thể vận hành quá sức và tan nát. Không phải cỗ máy nào cũng được trang bị hệ thống an toàn như vậy đâu. Giả dụ cho một cái xe mất phanh lao thẳng vào một bức tường, nó sẽ đâm sầm vào tường cho đến khi động cơ bị hủy hoặc hết xăng.

Võ thuật sử dụng toàn bộ sức lực của cơ thể một cách có chủ ý. Trong luyện võ, bạn vừa đấm vừa hét. Lệnh “Hét to lên!” sẽ chép đè lên lệnh “Yếu đi!”. Luyện tập đầy đủ và bạn sẽ có thể giảm bớt lượng sức mạnh mà cơ thể bạn giữ lại. Nói cách khác, bạn học cách để chuyển hóa sức mạnh cơ thể hòng tự hủy diệt chính nó.

Một người lính và chiếc Chiến giáp của anh ta hoạt động với cơ chế tương tự. Cũng như cơ thể con người có cơ chế hòng kìm hãm bớt năng lượng, Chiến giáp cũng có hệ thống để giữ cho năng lượng luôn ở mức cân bằng. Với một cái nắm tay chứa 370 kí lô lực lượng, một chiếc Chiến giáp có thể dễ dàng nghiền nát một khẩu súng trường chứ đừng nói tới xương người. Để ngăn những tai nạn kiểu kiểu đó không xảy ra, Chiến giáp được thiết kế để tự động tiết chế lực lượng, và thậm chí chủ động kháng cự quán tính để giữ cân bằng trong vận chuyển lực lượng. Giới kĩ thuật gọi hệ thống này là ‘tự động cân bằng’. Hệ thống tự động cân bằng trì hoãn hoạt động của hệ thống vận hành Chiến giáp khoảng vài phần giây. Khoảng thời gian kia bé tới mức phần lớn mọi người chẳng ai thèm để ý. Nhưng trên chiến trường, tí ti thời gian kia quyết định sự khác biệt giữa sống và chết.

Trong ba trận chiến với mười ngàn Chiến giáp mỗi trận, chỉ có một gã đen đủi gặp phải vấn đề với tự động cân bằng, và tự động cân bằng quyết định nấc cụt ngay khi Mimic đang bổ xuống đầu bạn thì coi như xong. Xác suất vô cùng bé, nhưng chẳng ai muốn trở thành thằng ngu đen đủi bốc phải quân Joker. Chính vì vậy, ngay khi bắt đầu mỗi trận chiến, những tay kỳ cựu như Ferrell luôn tắt hệ thống tự động cân bằng đi. Họ không hề dạy chúng tôi chuyện này trong huấn luyện. Tôi phải học cách bước đi khi hệ thống tự động cân bằng bị tắt. Ferrell nói tôi phải có năng lực di chuyển mà không suy nghĩ.

Phải mất bảy lần thử thì tôi mới đi cho thẳng được.

2

Hai lính gác sừng sững đứng trên con đường dẫn tới khu vực nằm trong phạm vi quyền hạn của Hoa Kỳ. Họ trông rất đồ sộ, mỗi gã mang một khẩu súng trường năng lượng cao trong tay, chúng to bằng cả bắp chân của tôi.

Hình thể của họ khiến họ trông như những bộ giáp được đem đi trưng bày vậy. Người đi ngang qua nhìn phát là biết ngay ai đang làm nhiệm vụ mà chẳng cần họ nói một lời. Kể cả bom bi có rải như mưa từ trên trời xuống thì những gã này vẫn sẽ trụ trên mặt đất, không chút chớp mắt cho tới khi họ nhận được mệnh lệnh trực tiếp yêu cầu đi làm việc khác.

Nếu bạn không thèm để họ vào mắt và đi thẳng tới cổng chính, bạn sẽ đi trên con đường mà tôi đã đi khi tôi cố đào ngũ trong vòng lặp thứ ba. Chạy trốn thì dễ thôi. Với những gì tôi học được, tôi hẳn có thể né được cuộc tập kích của Mimic và đi thẳng tới Thành phố Chiba. Nhưng hôm nay tôi có mục tiêu khác.

Giờ là 10:29. Tôi đang đứng trong điểm mù của hai gã lính gác. Với sải chân tám mươi phân của tôi, hai gã lính cách tôi chính xác mười lăm giây.

Một con mòng biển bay qua đầu. Tiếng gầm xa xa của đại dương hòa lẫn cùng âm thanh hỗn tạp trong căn cứ. Cái bóng của tôi nhỏ nhoi và lẻ loi bám dưới chân. Chẳng có ai khác trên đường.

Một chiếc xe chở nhiên liệu từ Mỹ chạy ngang qua. Hai gã lính gác thi lễ chào.

Tôi phải căn thời gian đi sao cho chuẩn.

Ba, hai, một.

Chiếc xe tải đâm đầu vào giữa màn sương mờ trên đường. Một bà cụ lao công mang theo dẻ lau đang đứng ngay trước chiếc xe tải. Phanh xe rít lên. Động cơ xe chết cứng. Hai gã lính quay về hướng chấn động, họ lơi là cảnh giác chỉ trong giây lát.

Tôi liền bước đi.

Tôi có thể cảm nhận được hơi nóng phả ra sau lớp vải dày. Với cơ bắp như vậy, tôi không hề nghi ngờ chuyện họ có thể thọc tay vào đít tôi và rút xương sống ra. Trong khoảnh khắc, lòng tôi dậy lên khát khao phi lý trí muốn rút roi ra quật vào người họ.

Tất nhiên rồi, tao có lẽ trông như gió thổi phát là đổ, nhưng chúng mày đừng có nhìn mặt mà bắt hình dong. Muốn thử với tao à? Ai mà thèm để mắt tới một tay lính mới dân Châu Á bé con con cơ chứ?

Liệu những kĩ năng mình học được trong điều khiển Chiến giáp có thể chuyển thành kĩ năng cận chiến tay không trước con người không nhỉ? Liệu mình có mạnh hơn chút nào không? Sao phải đợi lũ Mimic, sao không tự kiểm tra trước mấy con chuột bạch này nhỉ?

Gã lính gác bên phải quay lại.

Bình tĩnh. Giữ mặt lạnh như tiền. Hắn đang quay về bên trái. Khi hắn ta quay, mày sẽ lẩn vào điểm mù của gã lính gác còn lại. Ngay lúc hắn ta nhìn quanh quất tìm kiếm chút dấu vết của Keiji Kiriya thì mình đã hòa mình vào cảnh vật và mất hút.

“Mày có thấy gì không?”

“Trật tự đi. Đội trưởng đang nhìn đấy, và anh ấy trông chẳng vui vẻ gì đâu.”

“Fuck you.”

Và cứ như vậy, tôi đột nhập vào lãnh thổ của Hoa Kỳ.

Mục tiêu của tôi là một chiếc Chiến giáp từ Hoa Kỳ. Sau vài vòng lặp, tôi đưa ra kết luận rằng tôi cần một vũ khí mới –– thứ mà quân Nhật Bản bọn tôi không có. Khẩu súng trường 20mm phổ thông không xi nhê là bao trước lũ Mimic. Chúng là thứ vũ khí đạt đến sự cân bằng trong số lượng đạn mà một người lính có thể mang theo, xác suất bắn trúng những đối tượng di chuyển với vận tốc cao và độ giật cho phép. Chúng mạnh hơn những vũ khí họ từng lưu hành, nhưng nếu bạn muốn đâm thủng bộ xương bên trong kia, 50mm là loại đạn duy nhất đảm bảo chắc chắn.

Chiến lược cơ bản của UDF là tuyển một đội bộ binh trọng giáp nằm bắn đạn 20mm để giảm tốc độ của kẻ thù đủ để pháo binh và xe tăng có thể hạ chúng. Trong lúc luyện tập, đội hỗ trợ không bao giờ tới đủ nhanh hay đủ mạnh. Rút cục chúng tôi phải tự thân tiêu diệt Mimic.

Thứ vũ khí được coi là giải pháp cuối cùng cho dân kỳ cựu, và cũng là cái mà tôi sử dụng là mũi khoan phản lực nằm trên vai trái. Bạn có thể khoét một lỗ và khoan thủng ruột một con Mimic với một trong những cục cưng kia. Súng phóng tên lửa đôi lúc cũng hữu dụng, nhưng thứ đó khó bắn trúng quá, và thông thường thì bạn sẽ hết tên lửa ngay lúc bạn cần chúng nhất. Khi tôi càng lúc càng quen thuộc với chiến trường, tôi phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh của mũi khoan phản lực 57mm.

Nhưng khoan phản lực có một nhược điểm to lớn: Băng đạn chỉ có đúng hai mươi viên. Không như súng trường của chúng ta, bạn không thể thay đạn cho nó. Cái lúc bạn bắn xong viên thứ hai mươi thì cũng là lúc bạn xong đời. Nhiều nhất một người lính chỉ đục được tối đa hai mươi lỗ trên thứ gì đó. Một khi khoan phản lực hết đạn, bạn còn chẳng thể dùng nó để làm cái gì ra hồn. Người thiết kế ra Chiến giáp đơn giản là không hề cân nhắc tới khả năng có người sống đủ dai khi chiến đấu với Mimic để dùng hơn hai mươi viên.

Đm nó chứ.

Vì hết đạn mà tôi đã chết kha khá lần. Lại một kết cục chết chóc khác. Cách duy nhất để tránh nó là tìm một vũ khí cận chiến mà không hết đạn. Tôi đã từng thấy một cái trong cái trận chiến bắt đầu cả chuỗi vòng lặp này.

Rìu chiến. Rita Vrataski, một chiến thần Valkyrie trong Chiến giáp đỏ rực, cùng chiếc rìu của cô ta. Mà nói chính xác thì cái đấy phải gọi là một cục volfram cacbua dưới hình dạng của một chiếc rìu. Một chiếc rìu chiến hai lưỡi thì không thể hết đạn. Bạn vẫn có thể dùng nó khi nó bị bẻ cong. Nó nặng đến thế cơ mà. Đó quả thực là một vũ khí cận chiến tuyệt hảo.

Nhưng trên cái quả đất này, Keiji Kiriya vẫn là một thằng lính mới mà chưa từng thấy trận chiến đầu tiên. Nếu tôi nhờ họ thay mũi phản lực thông dụng bằng một vũ khí khác chỉ đơn giản là vì tôi không thích nó thì cứ ngồi mốc mặt mà chờ họ lắng nghe đi nhé. Yonabaru đã cười vào mặt tôi, và Ferrell thậm chí còn đấm tôi. Khi tôi cố thẳng thắn nói chuyện với chỉ huy trưởng của tiểu đội, hắn ta lờ tôi đi luôn. Tôi sẽ phải tự mình kiếm lấy thứ vũ khí tôi cần.

Tôi hướng tới doanh trại tại khu vực mà Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ đang trú ngụ. Năm phút sau khi sang bên phía căn cứ của quân Hoa Kỳ, tôi chạy tới chỗ chỉ có một người lính canh gác. Cô ấy đang vặn ốc bằng một cái cờ lê.

Cái mùi sốc của dầu máy nồng nặc trong không khí, át đi cả cái mùi mặn mặn từ đại dương. Mấy gã cứ vo ve như ruồi quanh căn cứ đã rút cả. Dưới bóng râm của doanh trại, thứ vũ khí kim loại mà loài người sử dụng để triệt hạ kẻ thù đang say ngủ.

Cô gái cầm cờ lê đó là Shasta Raylle, một kĩ sư thường dân. Lương của cô ta tối thiểu phải ngang ngửa một trung úy. Tất nhiên là cao hơn một thằng lính quèn như tôi rồi. Tôi liếc sơ qua hồ sơ về cô ta: cao 152 centimet; nặng 37 kilo; thị lực 20/300; thức ăn ưa thích, bánh trái cây. Cô ta chảy trong mình dòng máu Ấn Độ Hoa Kỳ và có mái tóc đen thắt lại thành bím.

Nếu Rita là một con mèo rừng đi lảng vảng kiếm mồi thì Shasta là một con thỏ, không trật đi đâu được. Cô ta đáng lẽ phải ở nhà, cuộn mình trong một căn phòng ấm áp và kín gió, xem vô tuyến và ngồi nhai kẹo, chứ không phải là bám đầy dầu mỡ ở một căn cứ quân sự thế này.

Tôi cố nói nhẹ nhàng hết mức có thể. “Xin chào.”

Shasta nhảy dựng lên khi nghe giọng tôi. Chết tiệt. Vẫn chưa đủ nhẹ nhàng.

Cặp kính dày của cô nàng rơi cái bịch xuống sàn. Nhìn cô nàng đi tìm kính cứ gà mắc tóc ấy. Thay vì thả cái cờ lê xuống và mò mẫm bằng cả hai tay thì cô nàng cứ quơ quơ trong tuyệt vọng chỉ bằng một tay. Không phải là chuyện mà bạn trông đợi từ một người tốt nghiệp hạng đầu trong lớp tại đại học MIT, phát triển những chiếc Chiến giáp quân sự đặc dụng nhất ngay trong luận văn đầu tiên về công nghệ phòng thủ quân sự, và rồi, theo một yêu cầu, nhảy vào UDF và trở thành kĩ sư xuất sắc cho một chiếc Chiến giáp đỏ rực làm từ thép súng.

Tôi cúi xuống và lượm kính hộ cô ấy –– trông nó giống hai cái kính lúp được gắn lại với nhau hơn.

“Cô làm rớt này,” Tôi nói, đưa cặp kính ra tại chỗ mà tôi hy vọng cô ấy có thể thấy.

“Cảm ơn, dù cho anh là ai.”

“Đừng để ý tới chuyện đó.”

Shasta nhìn tôi. Cặp đít chai khiến đôi mắt cô ấy trông như hai quả trứng gà chiên.

“Và anh là...?”

“Keiji Kiriya.”

“Cảm ơn, Keiji Kiriya. Tôi là Shasta Raylle.” Tôi cố tình không nhắc tới quân hàm cùng tiểu đội của tôi. Shasta cúi đầu xuống. “Tôi để ý thấy nơi này có vẻ giống như một doanh trại giản đơn thông thường –– chà, mà nó đúng là vậy, nhưng đó không phải điểm trọng yếu. Điểm trọng yếu ở đây là, nó chứa đựng những công nghệ quân sự vô cùng nhạy cảm. Chỉ có những người có quyền hạn nhất định mới được phép đi vào thôi.”

“Tôi biết. Tôi chẳng muốn gia nhập đâu.”

“Ồ. Được! Tôi mừng là chúng ta rạch ròi được chuyện đó.”

“Thực ra,” Tôi bước tới một bước và nói, “Tôi tới đây để tìm cô.”

“Tôi á? Tôi-tôi rất vui, nhưng tôi e rằng tôi không thể –– ý tôi là, anh có vẻ là một người tốt, chỉ là tôi không nghĩ chuyện này sẽ thích hợp, và vẫn còn những công việc phải chuẩn bị cho ngày mai, và ––“

“Giờ còn chưa tới trưa mà.”

“Nó sẽ tốn cả ngày!”

“Cô bình tĩnh nghe tôi nói đã ––“

“Tôi biết rằng trông có vẻ như tất cả những gì tôi đang làm chỉ là tháo dỡ và lắp lại bộ phận này –– chà, và quả thực là vậy, nhưng tôi đang thực sự bận. Rất bận!” Bím tóc của cô nàng đung đưa khi cô ta tự gật đầu, nhấn mạnh sự thành thật của bản thân.

Cô ta hiểu nhầm rồi. Phải cho mọi thứ về lại quỹ đạo thôi––

“Vậy bộ nhớ ngoài của bộ chiến giáp này đã bị hỏng à?”

“Ừ đúng, nhưng –– sao anh biết được?”

“Này, cả tôi và cô đều biết rằng bộ nhớ ngoài cũng không được sử dụng nhiều trong chiến đấu. Nhưng vì những con chip đặc hiệu này chứa cả tấn công nghệ quân sự nhạy cảm, cô sẽ phải hoàn thành cả núi công việc để thu hồi lại một cái, tôi nói đúng chứ? Và cái gã con hoang trọc lông lốc ở xưởng vũ khí cứ bám lấy cô dù cô đã nói với hắn ta không biết bao nhiêu là lần rằng cô không có hứng thú, tôi đoán vậy. Nó gần như đủ để khiến cô cân nhắc tới chuyện trộm lấy một cái từ một trong những bộ Chiến giáp của Quân Nhật Bản.”

“Trộm lấy một–– tôi chưa từng nghĩ tới chuyện đó luôn nhé!”

“Không á?”

“Tất nhiên là không rồi! Chà, thỉnh thoảng ý nghĩ đó lại lóe lên trong đầu tôi, nhưng tôi sẽ không bao giờ thực sự làm chuyện đó! Tôi trông giống hạng người––“ Đôi mắt cô nàng mở to ra khi cô ấy thấy thứ nằm trong cái túi được buộc kín mà tôi lôi ra từ túi quần.

Tôi nở một nụ cười ranh mãnh. “Nếu như có ai đó đã trộm một cái cho cô?”

“Cho tôi cái đó nhé? Làm ơn?”

“Xem ai thay đổi thái độ 180 độ kìa!”

Tôi giơ cái túi chứa con chíp lên cao quá đầu. Shasta loi choi nhảy lên để cố túm lấy nó, nhưng với chiều cao 158 centimet thì chuyện đó hẳn là vô vọng rồi. Mùi dầu máy dính trên áo quần cô ta làm sống mũi tôi cay cay.

“Đừng có trêu tôi nữa, đưa cho tôi đi mà?”

Nhảy. Nhảy.

“Cô không biết tôi vất vả thế nào mới lấy được thứ này đâu.”

“Tôi cầu xin anh mà. Làm ơn đi?”

Nhảy.

“Tôi sẽ đưa cho cô, nhưng phải có thứ gì đổi lại chứ.”

“Thứ gì đó.... đổi lại?”

Ực.

Cô nàng túm chặt lấy cái cờ lê vào trước ngực, đè lên hai cặp núi đôi ẩn sau lớp áo khoác. Cô ấy rõ ràng đã quen với việc đóng vai nạn nhân sau nhiều năm sống chung cùng lũ thú tại Lực lượng Đặc nhiệm. Trêu được cô nàng dễ như vầy khiến tôi không thể nào trách được họ.

Tôi vẩy vẩy cái túi bóng về phía chiếc rìu chiến khổng lồ treo trên lồng ở phía sau doanh trại. Shasta trông có vẻ không hiểu tôi đang nhìn cái gì. Đôi mắt cô nàng đảo vài vòng quanh phòng.

“Tôi tới để mượn thứ đó.” Tôi chĩa tay thẳng về phía chiếc rìu.

“Thứ lỗi nếu như mắt tôi bị kèm nhèm, nhưng đó rõ ràng là rìu chiến của Rita mà.”

“Bingo.”

“Vậy... anh cũng là lính Bộ binh Trọng giáp à?”

“Cảnh vệ Nhật Bản.”

“Thật là khó cho tôi nha–– không phải tôi cố tình nói lời thô lỗ đâu –– nhưng cố bắt chước Rita chỉ khiến anh bị thương mà thôi.”

“Vậy có nghĩa là cô sẽ không cho tôi mượn?”

“Nếu anh thật sự nghĩ anh cần tới nó, tôi sẽ cho anh mượn. Dù sao đó cũng chỉ là một đống kim loại –– chúng tôi có cả mớ ở đây. Khi Rita lần đầu hỏi tôi, tôi đã cắt nó ra từ cánh của một cái máy bay thả bom không còn xài được nữa.”

“Thế cô còn chần chừ gì nữa?”

“Chà, nói thẳng nhé, anh sẽ bị giết đấy.”

“Dù cho có nó hay không thì có ngày tôi vẫn sẽ chết.”

“Tôi không thể thay đổi suy nghĩ của anh ư?”

“Chắc vậy.”

Shasta im lặng. Chiếc cờ lê trong tay cô cứ như miếng giẻ rách, và đôi mắt đờ ra. Mái tóc bù xù bết lấy mồ hôi và dầu mỡ xõa trước trán. “Tôi đã từng ở Bắc Phi,” cô ấy nói. “Người lính giỏi nhất của tiểu đội mạnh nhất ở đó nhờ tôi làm một cái, y hệt như anh vậy. Tôi cố gắng cảnh báo anh ta, nhưng việc này lại dính líu tới vấn đề chính trị, và chuyện trở nên phức tạp nên tôi đành cho anh ta.”

“Và anh ta đã chết?”

“Không, anh ta còn sống. Chỉ là sống thôi. Cuộc đời quân nhân của anh ta chấm dứt tại đó. Ước gì tôi có thể tìm ra cách để ngăn anh ta lại.”

“Cô không nên tự trách chính mình. Cô không phải là người khiến Mimic tấn công.”

“Là vậy đó, anh ta không phải bị thương vì đánh nhau với Mimic. Anh có biết quán tính là gì không?”

“Tôi có bằng tốt nghiệp cấp ba đấy.”

“Mỗi cái rìu chiến nặng 200 cân. Một cái nắm tay của Chiến giáp có lực 370 cân tất nhiên là có thể nắm được nó, tất nhiên rồi, nhưng kể cả mạnh hơn nữa cũng không trụ được quán tính khổng lồ đó. Anh ta bị chấn thương ở lưng khi vung chiếc rìu. Nếu anh vung 200 cân bằng sức mạnh khuếch đại của một chiếc Chiến giáp, anh sẽ bị vặn xoắn thành hai mảnh theo đúng nghĩa đen.”

Tôi hiểu rõ cô ấy đang nói gì –– quán tính mà cô ấy đang nói tới chính là cái tôi đang nhắm tới. Nó là thứ có thể bổ đôi xương trong của Mimic chỉ bằng một đòn. Chuyện nó có thể tự hại chính tôi không quan trọng lắm.

“Nhìn đi, tôi chắc rằng anh nghĩ anh rất giỏi, nhưng Rita không phải là một người lính thông thường.” Shasta đưa ra nỗ lực cuối cùng để khuyên ngăn tôi.

“Tôi biết.”

“Cô ấy không bình thường, thật đấy. Cô ấy không bao giờ dùng tới hệ thống tự động cân bằng. Và ý tôi không phải là cô ấy tắt nó đi trước khi bắt đầu trận chiến đâu. Chiến giáp của cô ấy thậm chí còn không được gắn thứ đó. Cô ấy là người duy nhất trong đội của chúng tôi không có nó. Trong một tiểu đội tinh anh, cô ấy còn hơn cả tinh anh.”

“Tôi đã thôi sử dụng hệ thống tự động cân bằng từ lâu rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện gỡ hẳn nó ra. Tôi sẽ phải làm vậy thôi. Cho nó nhẹ.”

“Ồ, vậy anh là Rita tiếp theo, phải thế không?”

“Không. Tôi còn lâu mới bằng được Rita Vrataski.”

“Anh biết cô ấy nói gì với tôi trong lần đầu tiên gặp gỡ không? Cô ấy nói thật may khi cô ấy sống trong một thế giới tràn ngập chiến tranh. Anh có thể nói điều tương tự không?” Shasta đánh giá tôi sau cặp đít chai dày cộp. Tôi biết cô ấy muốn nói cái gì. Tôi chỉ đáp trả ánh mắt đó bằng sự im lặng.

“Tại sao anh cứ khăng khăng muốn cái rìu chiến của Rita thế?” cô ấy hỏi.

“Không phải là tôi khăng khăng muốn nó. Tôi chỉ là muốn tìm thứ gì đó hiệu quả hơn khoan phản lực. Tôi có thể dùng giáo hoặc đoản kiếm, nếu cô có. Bất cứ thứ gì có thể dùng nhiều hơn hai mươi lần.”

“Đó chính là điều cô ấy nói khi cô ấy nhờ tôi cắt cho cô ấy cái rìu.” Shasta thả lỏng bàn tay cầm cờ lê.

“Bất cứ sự so sánh nào với Full Metal Bi –– ừm, Valkyrie đều là những lời khen đáng giá.”

“Anh biết không, anh rất...” Giọng của cô ấy bé dần.

“Tôi sao cơ?”

“Không bình thường.”

“Có lẽ vậy.”

“Phải nhớ rằng đó không phải là thứ vũ khí dễ dùng đâu.”

“Tôi có rất nhiều thời gian để luyện tập.”

Shasta mỉm cười. “Tôi đã gặp rất nhiều quân nhân nghĩ họ có thể nối gót Rita và đã thất bại, và tôi cũng từng gặp những người công nhận tài năng thiên bẩm của cô ấy và chưa từng có ý định đuổi theo cô ấy. Nhưng anh là người đầu tiên tôi gặp có thể nhận ra khoảng cách giữa bản thân và Rita mà vẫn cố đuổi theo đấy.”

Càng hiểu rõ về chiến tranh, tôi càng hiểu rõ tài năng của Rita đáng sợ thế nào. Vòng lặp thứ hai, khi Rita tham gia tập thể hình cùng với chúng tôi, tôi chỉ nhìn cô ta bằng ánh mắt thông thường vì tôi lúc đó chỉ là một thằng lính mới. Giờ sau bao nhiêu là vòng lặp, tôi đã được coi là một người lính Chiến giáp thực thụ, khoảng cách giữa cô ta và tôi có vẻ như còn lớn hơn. Nếu như tôi không, theo nghĩa đen, có một lượng thời gian vô hạn, tôi hẳn đã từ bỏ.

Với một cú nhảy hoành tráng, Shasta chộp lấy con chip silicon từ trong tay tôi. “Chờ đấy. Để tôi lấy vài số liệu về chiếc rìu trước khi anh đi.”

“Cảm ơn.”

Cô nàng chuẩn bị đi đo đạc lấy số liệu thì dừng lại. “Tôi hỏi anh cái này được không?”

“Hỏi đi.”

“Tại sao trên tay anh lại có ghi số bốn mươi bảy vậy?”

Tôi không biết phải trả lời cô ấy ra sao. Ngay lúc này tôi không tài nào kịp nghĩ ra lý do gì đáng tin để người lính viết số lên tay.

“Ồ, có phải đó –– ý tôi là, tôi hy vọng tôi chưa nói cái gì không nên nói?”

Tôi lắc đầu. “Cô biết cách người ta đánh dấu chéo lên lịch không? Kiểu kiểu như vậy đấy.”

“Nếu nó quan trọng tới mức anh phải viết lên tay, đó hẳn phải là thứ anh không muốn quên. Bốn mươi bảy ngày cho tới lúc về nhà, là vậy chăng? Hay số ngày đếm ngược tới sinh nhật bạn gái anh?”

“Nếu tôi phải gọi tên nó, tôi sẽ gọi đó là số ngày mà tôi đã chết.”

Shasta không nói gì thêm

Tôi có được chiếc rìu.

3

0600 Thức dậy.

0603 Mặc kệ Yonabaru.

0610 Trộm con chip silicon từ kho vũ khí.

0630 Ăn sáng.

0730 Tập các bước di chuyển căn bản.

0900 Luyện tập trong tưởng tượng khi tập bài thể hình mắc dịch.

1030 Ăn trưa.

1300 Luyện tập với trọng tâm chỉnh lại thao tác lỗi trong trận chiến trước. (Trong Chiến giáp.)

1500 Gặp Ferrell để thực chiến. (Trong Chiến giáp.)

1745 Ăn tối.

1830 Tham gia buổi họp của tiểu đội.

1900 Tới bữa tiệc của Yonabaru.

2200 Lên giường ngủ.

0112 Giúp Yonabaru lên giường.

Đây đại khái là thời gian biểu trong ngày

 ***

Ngoài luyện tập, mọi thứ đều đã trở thành quy luật. Tôi đã vượt qua mấy gã lính gác nhiều tới mức giờ tôi có thể nhắm mắt mà làm lại. Tôi bắt đầu lo tôi sẽ trở thành siêu đạo chích trước khi trở thành một quân nhân chuyên nghiệp mất. Tất nhiên cái khả năng trộm bất kỳ thứ gì trong thế giới cứ hết ngày lại reset chẳng có nghĩa lý gì lắm.

Công việc thường ngày không thay đổi nhiều lắm sau mỗi vòng lặp. Nếu tôi cố tình làm khác lịch trình, tôi có thể khiến chuyện gì đó khác biệt xảy ra, nhưng nếu tôi không làm gì thì mọi chuyện sẽ vẫn vậy. Cứ như mọi người cứ đọc cùng một kịch bản hết ngày này qua ngày khác và làm theo sát sàn sạt cái cốt truyện đó, không trật một li.

Giờ là 1136 và tôi đang ăn trưa tại Căn tin #2. Cô nàng phục vụ đưa tôi lượng súp hành y như mọi khi vào cùng một thời điểm và trong cùng một cái tô. Tôi xê dịch cách tay để né vài giọt bắn ra khi chúng vẫn bay với quỹ đạo giống hệt mọi khi. Từ chối mấy lời gọi từ những người bạn từ bên kia căn tin, tôi ngồi tại chỗ giống hệt mọi khi.

Rita ngồi trước mặt tôi, cách ba hàng ghế, ngồi ăn và quay lưng lại với tôi. Không phải tôi chọn thời điểm này để ăn vì trùng với giờ ăn trưa của cô ta; chỉ là ngẫu nhiên thôi. Tôi đã quen với việc nhìn cô ta ăn tại góc độ này mỗi ngày, chẳng vì lý do gì cụ thể cả.

Căn tin #2 không phải là nơi một thượng sĩ như Rita thường thấy tới. Không phải là do thức ăn không ngon đâu. Nó tương đối ngon là đằng khác. Nhưng nó trông chẳng có tí gì đủ gây được ấn tượng cho người thức dậy tại phòng nghỉ cao cấp mỗi buổi sáng và có một nửa căn cứ dưới quyền. Tôi nghe đồn Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ còn mang cả đầu bếp riêng theo, điều khiến sự tồn tại của cô ta càng trở nên thần bí. Cô ta có thể đã nuốt chửng một con chuột sống không biết chừng, có ai biết được đâu. Và rồi vị cứu tinh của chúng ta ăn một mình. Không ai cố nói chuyện với cô ta, và những chỗ ngồi bên cạnh cô ta luôn trống một cách đáng ngờ.

Trên chiến trường thì dũng mãnh như hổ, nhưng Rita Vrataski lại ăn như một đứa con nít. Cô nàng liếm chỗ súp nơi khóe môi và vẽ hình trên thức ăn bằng đầu đũa. Có vẻ như đũa là thứ khá xa lạ với cô ta. Vào lúc 1143 cô nàng làm rớt một hạt đậu trên đĩa. Nó lăn, tăng tốc, nảy vào cái khay, rồi lên bàn. Hạt đậu bay qua không trung và xoay theo chiều kim đồng hồ, hướng thẳng tới sàn bê tông. Lần nào cũng vậy, với phản xạ chớp nhoáng, Rita đều vươn tay trái ra, chụp lấy hạt đậu trên không trung và bỏ vào miệng. Tất cả chưa tới 0.1 giây. Nếu cô ta có mặt trong sê ri sách ‘the Old West’, tôi nghĩ cô ta sẽ rút súng còn nhanh hơn cả Billy the Kid. Nếu cô ta là một samurai, cô ta có thể đọc được mọi đường kiếm của Kojiro Sasaki. Kể cả đang ăn thì Full Metal Bitch vẫn là Full Metal Bitch.

Hôm nay, như mọi ngày, cô ta đang cố nuốt món umeboshi (món mơ muối). Cô ta hẳn đã nhầm nó với món quả khô bình thường. Sau khoảng hai ha ba lần nỗ lực cố gắp nó lên bằng đũa, cô ta lùa hết tất cả vào miệng.

Nuốt đi.

Rita cong người lại cứ như vừa ăn phải viên đạn 57mm vậy. Lưng cô ta cong lên. Mái tóc màu sắt rỉ trông như chuẩn bị dựng đứng hết cả lên. Nhưng cô ta không nhổ nó ra. Được đấy. Cô ta đã nuốt tất cả xuống. Sau đó cô nàng uống liền tù tì cả một cốc nước.

Cô ta hẳn cũng phải hai mươi hai tuổi đầu, nhưng bạn đừng hòng đoán được chuyện nó nếu chỉ nhìn cô ta. Bộ quân phục màu cát không thể tô điểm chút gì cho cô ta, nhưng nếu bạn cho cô nàng trang điểm với mấy cái váy viền ren mà tụi con gái dưới phố hay mặc, cô ta hẳn sẽ rất đáng yêu. Ít nhất thì tôi thích tưởng tượng như vậy.

Cái món này làm sao vậy? Vị như giấy ấy.

“Mày ăn có ngon không?” Giọng nói vang lên từ phía trên đầu tôi.

Giữ đôi đũa mà không hề di động một sợi cơ, tôi liếc nhìn qua khóe mắt. Một khuôn mặt từ thời tiền sử nhìn tôi từ dưới mái tóc cắt bằng, cao khoảng hai mét so với mặt nước biển. Dáng người của hắn trông giống khủng long hơn là người. Chắc phải có vị tằng tổ nào đó của hắn là khủng long velociraptor đấy. Khí thế của tôi tụt xuống khi tôi thấy hình xăm trên vai hắn: một con sói đội vương miện. Hắn ta từ đội #4, đại đội hằn học với chúng tôi sau trận đấu bóng bầu dục kia. Tôi quay lại đút đồ ăn vào miệng, đều đặn như máy.

Hắn ta nhướn mày lên, hai hàng lông mày dày cộm có thể khiến cả thế giới loài bướm phải ghen tị. “Tao hỏi là mày đang ăn ngon miệng à.”

“Sao tao có thể không ngon miệng giữa một đại đội như thế này?”

“Thế sao mày cứ nhai nuốt cứ như thể phải nhai chổi cọ bồn cầu thế hả?”

Chỉ có vài mống lính ngồi tại cái bàn ngoại cỡ trong căn tin. Cái mùi ngòn ngọt ngào ngạt từ phía nhà bếp. Ánh sáng nhân tạo từ bóng đèn neon trên trần nhà soi rọi núi tôm chiên nằm gọn trong những cái đĩa siêu bền của chúng tôi.

Nếu phải phân loại thức ăn ở trong UDF thành tốt hoặc xấu, nó tất nhiên là tốt. Dù sao thì người lính trong UDF cũng chỉ làm có ba việc là ăn, ngủ và chiến đấu. Nếu thức ăn không ngon thì bạn sẽ gặp phải vấn đề về đạo đức. Và theo Yonabaru, thức ăn tại Căn cứ Tuyến Flower này ngon hơn hết thảy.

Lần đầu tiên tôi ăn thử, tôi đã nghĩ nó rất ngon. Đó là khoảng năm tháng trước rồi, thậm chí còn hơn nữa. Khoảng một tháng trong vòng lặp, tôi bắt đầu phát ngán đồ ăn của tôi. Gia vị được nêm sai một cách cố ý tạo ra một hương vị đủ kinh khủng để nhắc nhở tôi thức ăn còn ở đó. Và giờ, thậm chí nó cũng đã ngừng hoạt động. Tôi chẳng quan tâm nếu bạn ăn thức ăn được nấu bởi đầu bếp bốn sao, sau tám mươi ngày ăn một món thì tất cả đều có vị giống nhau thôi. Có lẽ là do vậy. Theo quan điểm đó, tôi khó lòng mà nghĩ thức ăn thành cái gì khác ngoại trừ một nguồn cung cấp năng lượng.

“Nếu cái bản mặt tao khiến mày ăn mất ngon, vậy tao xin lỗi.” Chẳng có nghĩa lý gì khi bắt đầu một cuộc chiến.

“Chờ đã. Ý mày bảo đây là lỗi của tao?”

“Tao không có thời gian cho chuyện này.”

Tôi bắt đầu lùa chỗ thức ăn cuối cùng trong đĩa vào miệng. Hắn ta vỗ cái lòng bàn tay to bằng cái găng bóng chày xuống bàn. Món súp hành bắn lên cả áo tôi, để lại một vết bẩn chỗ bụng. Tôi thực sự không quan tâm lắm. Dù vết bẩn có cứng đầu thế nào thì ngày mai sẽ hết, và tôi thậm chí còn không phải giặt nó.

“Lời cằn nhằn của Đại đội 4 không đáng để đội 17 quan tâm, vậy sao?”

Tôi nhận ra tôi đã vô tình khơi mào một sự kiện hết sức khó chịu. Ngay từ đầu cái vòng lặp này đã bị nguyền rủa rồi, thật đấy. Tôi đã vô tình giết chết Ferrell vào cuối vòng lặp trước, và chuyện đó đã khiến mọi thứ trong vòng lặp này trật đường rầy hết cả. Tính tại thời điểm này, vẫn còn chưa đầy năm tiếng kể từ lúc anh ấy chết trong vũng máu. Tất nhiên sau đó tôi cũng bị cho lên bảng đếm số, nhưng chuyện đó chẳng có gì lạ. Ferrell đã chết khi cố bảo vệ một thằng fucking lính mới. Tất cả là vì chứng đau nửa đầu của tôi tự dưng tái phát.

Tôi định thả lỏng tâm trí bằng cách nhìn chằm chằm vào Rita như mọi khi, nhưng tâm trạng u ám của tôi chắc là đã lộ ra ngoài nhiều hơn tôi nghĩ. Tất nhiên chừng đó là đủ để châm ngòi thứ không xảy ra trong bất kỳ vòng lặp nào trước đó.

Tôi dọn cái khay và đứng dậy.

Cơ thể gã nọ là một bức tường thịt chắn ngang lối. Mọi người bắt đầu tụ tập lại, háo hức chờ đánh nhau. Giờ là 1148. Nếu tôi lãng phí thời gian tại đây thì thời gian biểu của tôi sẽ bị đảo lộn hết. Có nguồn thời gian vô tận không có nghĩa là tôi có thời gian để lãng phí. Mỗi một tiếng đồng hồ tôi đánh mất là một tiếng đồng hồ tôi yếu đi, và nó sẽ ảnh hưởng tới tôi trên chiến trường.

“Mày định chạy à, thằng cứt gà?” Giọng gã vang vọng trong căn tin.

Rita quay lại và nhìn tôi. Hiển nhiên cô nàng vừa nhận ra rằng gã tân binh lúc nãy nhìn chằm chằm vào cô trong buổi tập thể hình đang ăn trong cùng căn tin. Có gì đó mách bảo tôi rằng nếu tôi đáp lại ánh mắt của cô nàng, cô ta sẽ giúp tôi y như những gì cô ta đã làm trong buổi tập thể hình –– y như cái lần cô ta giúp tôi trong trận chiến đầu tiên. Rita không phải là kiểu người quay lưng lại khi thấy có người gặp rắc rối. Nhìn một phát là biết ngay cô nàng rất giàu lòng nhân ái. Tôi tự hỏi cô ta sẽ diễn màn kịch gì đây. Có thể cô nàng sẽ bắt đầu nói về món trà xanh để khiến gã này bình tĩnh lại. Tôi bật cười khi nghĩ tới chuyện đó.

“Có gì đáng cười sao?”

Oops. “Không liên quan gì tới mày.”

Tôi rời mắt khỏi Rita. Gã Keiji Kiriya đứng trong căn tin ngày hôm nay không còn là gã lính mới đơn thuần nữa. Ngoại hình của tôi có lẽ vẫn vậy, nhưng bên trong tôi đã được tôi luyện sau bảy mươi chín trận đấu. Tôi có thể tự giải quyết vấn đề riêng của mình. Tôi đã mắc nợ Rita trong buổi tập thể hình và còn nữa, tuy rằng gián tiếp nhưng nhờ bắt chước cách nói chuyện của cô nàng mà tôi mới có được một cái rìu chiến thừa của cô ta. Tôi không muốn khiến cô ta dính líu tới tôi lần thứ ba chỉ để cho xong buổi ăn trưa.

“Mày đùa bố mày à?” Hắn ta không định cho qua chuyện này.

“Tao xin lỗi, nhưng tao không có thời gian để dây dưa với mày.”

“Giữa hai chân mày có cái gì vậy? Một cặp bóng bàn à?”

“Tao không bao giờ mở bao ra để xem. Mày có à?”

“Đ** mẹ mày!”

“Đủ rồi!” Một giọng cáu gắt vang lên, cắt ngang cuộc cãi vã giữa chúng tôi. Đó không phải là Rita.

Vị cứu tinh là người không ai ngờ tới. Tôi quay lại để nhìn cô gái với làn da màu đồng đứng bên cạnh bàn. Bộ ngực buộc tạp dề in trắng trợn trong mắt tôi với góc tới 60 độ tuyệt hảo. Cô nàng đứng giữa chúng tôi và vẫn đang gắp một con tôm chiên còn đang bốc hơi bằng cặp đũa cả. Đó là Rachel Kisaragi.

“Tôi không muốn có đánh nhau ở đây. Đây là phòng ăn, không phải là sàn quyền anh.”

“Chỉ muốn dạy dỗ tên lính mới này vài phẩm chất tốt đẹp thôi mà.”

“Được rồi, trường học kết thúc ở đây.”

“Này, cô là người phàn nàn về chuyện trông hắn thảm thiết thế nào khi ăn thức ăn của cô mà.”

“Kể cả vậy.”

Rachel nhìn tôi. Cô nàng không chút oán giận khi tôi làm đổ cái xe khoai của cô ấy, nên vì việc này mà cô ấy giận thì chứng tỏ tôi đã gây ấn tượng mạnh rồi. Một phần chắc là vì cô ấy muốn gây xấu hổ cho bất cứ ai quen biết với Jin Yonabaru, được coi là người ồn ào nhất trong căn cứ. Tôi không trách cô ấy. Tôi từng vướng vào vụ đổ khoai tây, và giờ là vào vụ này. Hậu quả này là trách nhiệm của tôi.

Trong cái căn cứ như cái hoang mạc này, một người phụ nữ như Rachel chắc chắn sẽ hấp dẫn được một hai gã, nhưng tôi chưa từng nhận ra cô ấy nổi tiếng tới mức nào. Gã này vẫn chưa lao vào đánh tôi, một người khác đội. Hắn đang cố thể hiện.

“Ổn rồi. Đáng lẽ tôi không nên nói gì.” Rachel quay lại nhìn gã quái vật khổng lồ và dùng tay giấu sau lưng xua tôi đi. “Đây. Ăn con tôm này. Miễn phí đấy.”

“Để cho lũ chim cánh cụt đi.”

Rachel cau mày.

“Thằng dòi bọ này có định nói gì để bào chữa nữa không?” Thằng đó vung bàn tay to và núng nính thịt qua vai Rachel và tung một cú đấm.

Tôi phản ứng theo bản năng. Nhiều tháng trong Chiến giáp đã luyện cho tôi phải luôn đứng vững trên mặt đất. Chân phải xoay theo chiều kim đồng hồ, chân trái thì ngược chiều kim đồng hồ, khiến người tôi nghiêng sang một bên. Tôi gạt cánh tay hắn ra bằng tay trái và dơ khay đồ ăn trưa bên tay phải lên để tránh làm rơi đĩa, trọng tâm vẫn không dời khỏi giữa cơ thể. Rachel làm rớt con tôm chiên của cô nàng. Tôi túm lấy nó trước khi nó kịp có màn nhào lộn trên không và tiếp đuôi xuống đất.

Cú gạt tay đã khiến thằng đó mất cân bằng. Hắn lỡ đà bước tới hai bước, rồi bước thứ ba, sau đó ngã xuống chỗ đồ ăn trưa của một người lính ngồi trước gã. Thức ăn và đĩa bay ra và tan nát một cách ngoạn mục. Tôi đứng dậy, chỉnh cân cái khay bằng một tay.

“Cô làm rớt này.” Tôi đưa Rachel con tôm chiên. Những người chung quanh ào ào vỗ tay.

“Chó má!” Gã kia đã đứng dậy, nắm đấm bay thẳng về phía tôi. Hắn rất cứng đầu. Tôi mất vài tích tắc để tính xem nên né cú đấm của hắn, phản đòn hay quay lưng và quăn đít chạy.

Từ kinh nghiệm bản thân thì thấy, một người đàn ông được huấn luyện để lái Chiến giáp cũng được coi là có số má, nhưng nó chẳng là gì so với những gì Mimic có thể làm. Cú đấm của gã thất bại này đủ để gây đau, nhưng đừng hòng gây ra vết thương nào, trừ khi hắn cực kỳ may mắn. Tôi quan sát từng cân lực lượng hắn dồn vào cú đấm. Nắm đấm kia bay sát tới chóp mũi. Hắn ta quên mất động tác chân của mình, lộ ra một sơ hở. Tôi không nắm bắt lấy nó.

Tao vốn đã có thể giết mày đấy.

Hắn ta hồi phục sau cú đấm trượt, hơi thở phì phò từ mũi. Hắn bắt đầu nhảy nhảy như một gã quyền anh. “Thôi né tránh và đánh nhau như một thằng đàn ông đi, bitch!”

Vẫn chưa đủ à?

Khoảng cách giữa trình độ và kĩ năng giữa chúng tôi còn sâu hơn cả Vực Mariana, nhưng nó vẫn chưa đủ sâu để ngăn mấy con thiêu thân. Thằng khốn đáng thương.

Hắn ta tung một cú móc trái. Tôi bước lùi lại nửa bước.

Lại một cú đấm khác. Tôi lùi lại. Tôi đã có hai cơ hội giết hắn ta rồi. Giờ đây là cơ hội thứ ba. Và giờ là thứ tư. Hắn để lộ nhiều sơ hở quá, đếm không hết. Tôi có thể cho hắn đo ván đến mười lần trong chỉ một phút. May cho hắn là công việc của tôi không phải là gửi một tay lính chiến giáp khỏe mạnh tới trạm xá, dù họ có mất bình tĩnh thế nào đi nữa. Công việc của tôi là gửi Mimic tới nơi dành riêng cho chúng trong Địa ngục.

Mỗi một cú đấm hắn ta tung ra và trượt, đám đông lại òa lên.

“Coi nào, mày vẫn chưa khiến hắn ta mảy may trầy xước!”

“Đừng có nhảy nhót và đón lấy một đòn đi!”

“Đấm hắn! Đấm hắn! Đấm hắn!”

“Để ý cửa, đừng để ai phá ngang vụ này! Tao đặt mười đô cho tay to con!” Ngay lập tức theo sau, “Hai mươi cho gã gầy!” Này, đó là tôi mà! Tôi tự nghĩ trong đầu khi né tiếp một cú đấm khác. Rồi ai đó bỗng hét lên, “Tôm chiên của tôi đâu? Tôi làm mất con tôm chiên rồi!”

Đám đông càng điên cuồng, hắn ta càng dồn sức vào cú đấm, và chúng lại càng dễ né.

Ferrell có một câu nói: “Chia nhỏ mỗi giây.” Lần đầu tiên tôi nghẹ được, tôi không tài nào hiểu được ý nghĩa của nó. Một giây là một giây. Làm sao mà kéo dãn hay chia nhỏ nó được.

Nhưng hóa ra bạn có thể chia một đơn vị thời gian thành nhiều phần nhỏ hơn. Nếu bạn bật một công tắc đằng trong óc lên, bạn có thể quan sát một giây trôi qua ra sao cứ như những khung hình trong một bộ phim ấy. Một khi bạn đoán được chuyện gì sẽ xảy ra trong mười khung hình tiếp theo, bạn có cả đống cách để xoay chuyển tình thế theo hướng có lợi cho bạn. Cái này thuộc cấp độ tiềm thức. Trong trận chiến, bạn không thể tin tưởng vào ai không biết làm thế nào để chia nhỏ thời gian.

Né đòn tấn công của hắn thì dễ. Nhưng tôi không muốn gây ra thêm sự kiện không cần thiết nào khác ngoài cái này. Tôi đã vướng phải cả đống rắc rối để bắt kịp thời gian biểu, nhưng nếu tôi cứ tiếp tục thế này thì đội #17 sẽ nhanh chóng tới được căn tin. Tôi cần phải kết thúc cái trò tiêu khiển này trước khi họ tới.

Tôi quyết định rằng ăn một cú đấm của hắn sẽ lãng phí ít thời gian nhất. Cái tôi không tính tới là Rachel lại tới và cố cản hắn ta. Cô nàng chỉnh sửa quỹ đạo của nắm đấm của hắn ta vừa đủ để thay đổi điểm rơi vốn là trên má xuống dưới cằm. Một cảm giác nóng cháy truyền từ răng và leo tới tận sống mũi. Những cái đĩa trên khay nhảy múa trên không trung. Và Rita, vẫn ở mép rìa phạm vi quan sát của tôi, đứng dậy rời khỏi căn tin. Tôi sẽ coi cơn đau này là một bài học cho lần tới. Tôi mất ý thức và chìm sâu vào giấc ngủ...

 ***

Khi tôi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trên một cái giường do vài cái ghế xếp lại. Có cái gì đó ướt ướt đang ở trên trán tôi –– một cái khăn tay con gái. Hương cam nhàn nhạt lan tỏa trong không trung.

“Anh tỉnh chưa?”

Tôi đang ở trong bếp. Bên trên tôi là một cái máy thông gió công nghiệp đang kêu vo ve, hút hơi ẩm từ căn phòng đi. Gần đó, một chất lỏng màu xanh ô liu đang sắp sửa sôi trong một cái chảo khổng lồ như cái vạc mà những người thổ dân ăn thịt người hay dùng để luộc chín từ đầu tới chân mấy nhà thám hiểm đi lạc, ngoại trừ việc nó to hơn một chút. Thực đơn của tuần tới treo trên tường. Bên trên cái thực đơn viết tay là một cái đầu của một gã đàn ông cắt từ một tấm poster.

Sau khi nhìn hàm răng trắng bóng của hắn ta trong một khoảnh khắc tưởng như vĩnh hằng, tôi cuối cùng cũng nhớ ra. Đó là đầu của gã vận động viên thể hình từ tấm poster trong doanh trại của chúng tôi. Tôi tự hỏi làm thế nào mà hắn ta có thể lưu lạc từ doanh trại của mấy gã đực rựa tới bức tường mới, nơi hắn ta có thể dành cả ngày mỉm cười đầy ranh mãnh trước những cô gái làm việc trong nhà bếp.

Rachel đang gọt khoai tây, vứt từng đoạn vỏ xoắn ốc vào một cái thùng rác ngoại cỡ phải xấp xỉ kích thước của cái chảo. Đó cũng làm những củ khoai tây đã rơi như mưa trên đầu tôi trong vòng lặp thứ tư. Tôi đã ăn món khoai tây nghiền chết tiệt kia bảy mươi chín lần rồi. Trong bếp không còn người nào khác ngoài Rachel. Cô ấy hẳn phải tự mình phục vụ hết đồ ăn cho chúng tôi.

Đứng dậy, tôi cắn không vài cái để kiểm tra hàm của mình. Cú đấm kia có vẻ đã tới đúng chỗ. Mọi thứ không đến mức quá tệ như tôi dự tính. Rachel nhìn thấy tôi.

“Xin lỗi. Thực ra anh ta không phải người xấu đâu.”

“Tôi biết.”

Cô nàng mỉm cười. “Anh trưởng thành hơn vẻ bề ngoài đấy.”

“Dù sao vẫn chưa đủ trưởng thành để tránh né rắc rối,” tôi nhún vai và trả lời.

Người ta thường bốc đồng trước ngày ra trận.

Và những gã kia luôn tìm một cơ hội để thể hiện mình trong một trận đánh trước một người như Rachel. Mọi chuyện như được ông trời sắp đặt hòng chống lại tôi, mặc dù tôi khẳng định rằng cái bộ mặt của tôi chẳng liên quan gì ở đây hết.

“Anh là người theo chủ nghĩa hòa bình à? Anh có thể đánh trả mà.”

“Tôi muốn để dành nó cho chiến trường.”

“Ra vậy.”

“Là sao?”

“Ra vậy nên anh mới nương tay. Rõ ràng anh đánh nhau tốt hơn.” Ánh mắt của Rachel chĩa xuống tôi đầy ngụ ý. Là một cô gái, cô nàng khá là cao. Căn cứ Tuyến Flower xây xong được ba năm rồi. Nếu cô ấy tới đây ngay sau khi nhận được giấy phép nhà dinh dưỡng học, vậy tức là cô nàng phải hơn tôi ít nhất bốn tuổi. Nhưng trông chả giống vậy tí nào. Và không phải là cô ấy cố tình khiến mình trông trẻ ra đâu nhé. Màu da đồng rực rỡ cùng nụ cười ấm áp đều rất tự nhiên. Cô ấy làm tôi nhớ tới cô thủ thư tôi từng yêu hồi cấp ba. Nụ cười y như vậy đã đánh cắp trái tim tôi và đưa tôi tới làm việc ngoài giờ tại thư viện trong mùa hè oi bức năm đó.

“Cuộc đời của chúng ta sẽ được khắc trên đá. Giấy chỉ là nhất thời –– chúng quá dễ chỉnh sửa.” Những suy nghĩ như vậy thường xuyên xuất hiện trong tôi gần đây.

“Câu này nghe lạ đấy.”

“Có lẽ vậy.”

“Anh có bạn gái chưa?”

Tôi nhìn cô ấy. Đôi mắt xanh lá cây. “Chưa.”

“Tối nay tôi rảnh đấy.” Rồi cô ấy vội vàng thêm vào, “Đừng hiểu nhầm. Không phải ai tôi cũng nói vậy đâu.”

Chuyện đó thì tôi thừa biết. Cô ấy đá bay Yonabaru ngay tắp lự. Suốt một tuần tôi phải rửa tai nghe hết lời phàn nàn này tới lời phàn nàn khác về cô nàng nóng bỏng nhất với cặp đùi bị khóa lại với nhau bằng cái ổ khóa to nhất. “Thời nay mà còn chuyện đó thì thật là buồn cười,” anh ta bảo tôi. Và tôi có cảm giác đó không phải là sự đối xử bất công đâu, chỉ bởi vì đó là Yonabaru thôi.

“Mấy giờ rồi?” Tôi vẫn còn thời gian biểu phải tiếp tục.

“Gần ba giờ. Anh ngất xỉu tận ba tiếng rồi.”

1500. Tôi đáng ra phải đang luyện tập với Ferrell. Tôi phải sửa chữa những gì đã làm trong vòng lặp trước –– bước di chuyển đã giết chết Ferrell và trung úy. Họ đã chết để bảo vệ tôi bởi vì tôi cứ thích khoe mẽ kĩ thuật của mình trên chiến trường. Trong đầu tôi vẫn còn ám ảnh bởi tấm ảnh gia đình cháy xém tung bay trong gió được Ferrell đặt trang trí bên trong chiến Chiến giáp của anh ta. Tấm ảnh mà anh ấy đang cười dưới mặt trời Brazil rực rỡ, vây quanh bởi các anh chị em cứ day dứt trong tôi mãi không nguôi.

Tôi không sở hữu bất kì tài năng kiệt xuất gì khiến tôi nổi bật hơn những người khác. Tôi chỉ là một người lính. Có những chuyện tôi có thể làm, và những chuyện tôi không thể. Nếu tôi tập luyện nghiêm chỉnh thì tôi có thể biến một vài chuyện tôi không thể làm thành chuyện có thể. Tôi sẽ không để sự tự tin thái quá của bản thân giết chết những người đã bảo vệ tôi nữa.

Nếu trong hoàn cảnh khác thì tôi đã chấp nhận lời mời của cô ấy.

“Xin lỗi, nhưng tôi không phải là người mà cô cần.”

Tôi quay lưng lại và bắt đầu chạy tới sân huấn luyện, nơi Trung Sĩ Ferrell đang chờ, anh ấy vẫn còn ướt đẫm mồ hôi và được bơm đầy adrenaline.

“Asshole!”

Tôi chạy một mạch không dừng lại.

4

Vòng lặp #99

Chết sau bốn mươi lăm phút từ lúc bắt đầu trận chiến.

5

Vòng lặp #110:

Chúng đang băng qua chiến tuyến. Yonabaru là mắt xích yếu.

“Keiji... cái cuốn tiểu thuyết kì bí kia. Cái gã ăn bánh pudding chính là người...”

Với những lời đó, anh ta chết.

Chết sau năm mươi bảy phút từ lúc bắt đầu trận chiến.

6

Vòng lặp #123:

Cơn đau nửa đầu xuất hiện sau khoảng năm mươi vòng lặp bắt đầu trở nên dữ dội hơn. Tôi không biết nó bắt nguồn từ đâu. Thuốc giảm đau mà bác sĩ cho tôi không hiệu quả tí nào. Cái viễn cảnh cơn đau đầu này bám dính lấy tôi trong mỗi trận chiến từ lúc này trở đi cũng không làm suy giảm nhuệ khí của tôi là bao.

Chết sau sáu mươi mốt phút từ khi bắt đầu trận chiến.

7

Vòng lặp #154:

Mất ý thức sau tám mươi phút từ khi bắt đầu trận chiến. Tôi không chết, nhưng tôi vẫn bị quay về vòng lặp. Mặc kệ đi. Nếu chuyện là như vậy thì nó hẳn đã như vậy.

8

Vòng lặp #158:

Tôi cuối cùng cũng đã làm chủ cây rìu chiến làm từ volfram các bua. Tôi có thể bổ đôi bộ xương trong của một con Mimic chỉ nhờ một cú xoay cổ tay.

Để hạ gục kẻ địch mềm dẻo, loài người phát minh ra lưỡi đao có thể rung với tần số cao, khoan phản lực có thể bắn ra với vận tốc mười lăm nghìn mét trên giây, và những vũ khí cận chiến có thể phát nổ nhờ Hiệu ứng Monroe. Nhưng những vũ khí nóng hết đạn. Chúng kẹt đạn. Chúng bị hỏng. Nếu bạn cầm đao chém sai góc độ thì nó sẽ gãy. Và thế là Rita Vrataski đưa một thứ vũ khí tuy đơn giản mà hiệu quả vào, rìu.

Đó là một giải pháp rất khá. Mỗi một đơn vị động lượng sinh ra từ bộ truyền động của Chiến giáp đều được chuyển hóa trở thành lực lượng đầy tính phá hoại. Chiếc rìu có thể cong hoặc mẻ, nhưng tính hữu dụng đặc thù của thứ vũ khí đó vẫn không hề suy giảm. Trong trận chiến, những vũ khí mà bạn có thể sử dụng để đập kẻ thù vẫn đáng tin cậy hơn. Những vũ khí được mài bén nhọn như katana sẽ cắt quá sâu đến mức kẹt luôn trong cơ thể kẻ thù và bạn đừng hòng rút nó ra. Thậm chí từng có câu chuyện kể về những chiến binh tự mài cùn thanh gươm của mình bằng một hòn đá trước trận chiến hòng ngăn chuyện đó xảy ra. Chiếc rìu của Rita một lần nữa lại chứng minh rằng nó xứng đáng với thời gian bỏ ra.

Tiểu đội của tôi bò tới mũi phía bắc của Đảo Kotoiushi, Chiến giáp đặt trong Sleep mode. Còn năm phút nữa là tiểu đội trưởng sẽ ra tín hiệu bắt đầu trận chiến. Dù đã trải nghiệm không biết bao nhiêu lần nhưng đây vẫn là lúc thần kinh tôi căng lên nhất. Tôi có thể hiểu tại sao Yonabaru cứ lảm nhảm liên hồi. Ferrell cũng chỉ đành để chúng tôi chửi hắn xối xả.

“Anh bảo chú mày này, chú mày nên kiếm con hàng nào ngon ngon mà phang phịch đi. Nếu chú mày chờ tới lúc bị trói vào mấy cái Chiến giáp thì đã quá muôn rồi.”

“Ừ.”

“Wargarita điên loạn thì sao? Hai người nói chuyện trong buổi tập thể hình, đúng không? Tới đi, anh biết chú mày làm được mà.”

“Ừ.”

“Chú mày ngầu phết đấy.”

“Hử?”

“Chú mày vẫn chưa mất zin, thế mà chú mày vẫn bình tĩnh như một con điếm thối ấy. Lần đầu tiên ra trận anh mày cứ cồn cào trong ruột liên hồi.”

“Giống như bài kiểm tra xếp hạng thôi.”

“Chú mày đang nói tới cái gì vậy?”

“Anh không phải làm bài kiểm tra đấy ở trường cấp ba à?”

“Thằng em à, chú mày trông đợi anh nhớ chút gì về trường cấp ba đấy à?”

“Ừ.” Tôi cố gợi dòng suy nghĩ của Yonabaru để hắn bớt lải nhải, nhưng tâm trí tôi vẫn đang đặt tại bộ lái tự động. “Ừ.”

“Ừ cái gì? Anh thậm chí còn chưa nói gì.” Tiếng của Yonabaru xuyên qua sương mù đến tai tôi.

Tôi có cảm giác như đã đánh nhau tại chỗ này cả trăm năm rồi. Nửa năm trước tôi vẫn là một thằng nhóc tại trường cấp ba. Tôi chưa hề bỏ ra chút quan tâm nào tới trận chiến đang dần dần nhấn chìm địa cầu trong vũng máu của chính nó. Tôi sống tại một thế giới yên bình, có gia đình và bạn bè. Tôi không bao giờ tưởng tượng mình sẽ đổi lớp học và sân bóng đá để lấy chiến trường.

“Từ hôm qua chú mày cư xử kỳ quặc lắm đấy.”

“Hử?”

“Chú em, không gạt được tụi này đâu. Ý anh muốn hỏi là: cái đống kim loại mà chú mày mang theo là clgt? Và chú mày định dùng nó làm clgv? Đấu tranh đòi quyền cá nhân à? Định làm người mẫu à?”

“Để nghiền nát.”

“Nghiền nát cái gì?”

“Kẻ thù, hầu hết là vậy.”

“Nghe này, đó là nhiệm vụ của khoan phản lực. Đừng nói với anh chú mày giỏi dùng rìu hơn nhé? Có khi chúng ta nên tuyển mấy gã tiều phu vào trong tiểu đội đấy. Hi ho, hi ho!”

“So với cái rìu cỡ đó thì tiều phu nào cũng là những chú lùn mà thôi.”

“Hay đấy. Anh bố thí cho mày một like.”

Ferrell chen miệng vào. “Này, tao không biết nó học được khi nào, nhưng tao chắc trăm phần trăm là nó có thể xài thứ đó. Nhưng Kiriya, chỉ dùng nó khi chúng tiếp cận chú mày và chú mày không còn lựa chọn nào khác. Đừng lao đầu vào kẻ thù để tìm kiếm cơ hội sử dụng nó. Chiến tranh hiện đại không thể xa rời hỏa lực. Nhớ đấy.”

“Rõ.”

“Yonabaru.”

Tôi đoán trung sĩ cảm thấy anh ấy cần nhắc nhở mọi người cẩn thận.

“Dạ?”

“Cứ... làm như chú mày mọi khi là được.”

“What the hell, Trung sĩ? Keiji được một lời động viên còn em được câu đó à? Tâm hồn đa cảm trong em cũng cần những lời động viên đầy cảm hứng mà.”

“Tao cũng sẽ động viên khẩu súng của tao vì những gì nó sắp làm được.”

“Anh biết thế gọi là gì không? Phân biệt đối xử, là phân biệt đối xử đấy!”

“Từ đấy đến nay tao luôn nghĩ, Yonabaru à,” Ferrell khẽ nói qua đường dây liên lạc. “Tao sẽ tài trợ lương hưu của mình cho người phát minh ra cách khiến mày ngậm –– chết tiệt, bắt đầu rồi! Đừng để bị bắn nổ bi đấy, mấy chú!”

Tôi nhảy vào trận chiến như một chiếc lò xo, đồng hồ Đốp le vàng lên, âm thanh quen thuộc vang vọng trong mũ bảo hiểm. Như mọi lần.

Đây rồi. Một mục tiêu.

Tôi bắn. Tôi né. Một mũi giáo sượt ngang qua đầu tôi.

“Ai ở đó đấy? Anh lao tới quá nhanh! Anh muốn tự sát à?”

Tôi lờ đi mệnh lệnh của tiểu đội trưởng. Tôi không quan tâm bạn có bao nhiêu mạng, nếu bạn nghe theo lệnh của bất kì sĩ quan nào vừa mới ra trường thì bạn cũng sẽ chết đến chán mà thôi.

Những vỏ đạn bật lên không tạo nên những âm thanh ào ào sấm nổ. Tôi gạt cát khỏi mũ bảo hiểm. Tôi nhìn Ferrell và gật đầu. Chỉ mất một tích tắc là anh ấy nhận ra ngay loạt đạn áp chế tôi vừa bắn đã chặn được cuộc tấn công của kẻ thù. Đâu đó sâu trong lòng Ferrell, bản năng đã mách bảo anh ta tay lính mới tên Keiji Kiriya, người chưa từng đặt chân lên chiến trường là người mà anh ấy có thể sử dụng. Anh ấy có thể nhìn rõ sự táo bạo trong hành động của tôi vừa rồi. Khả năng thích ứng đó đã khiến anh ấy sống sót hai mươi năm trên chiến trường.

Nói thật, Ferrell là người duy nhất trong tiểu đội mà tôi có thể dùng. Những người lính khác tối đa mới chỉ nhìn thấy hai tới ba trận chiến. Mỗi người còn sống trong quá khứ đều chưa từng bị giết. Bạn không thể học hỏi được sai lầm của mình khi chúng giết bạn. Những gã non tay không hề biết cảm giác đi trên lưỡi dao giữa sống và chết là như thế nào. Họ không biết tại lằn ranh chia cắt hai phía, nơi chất đầy xác chết mới chính là nơi dễ sống sót nhất. Nỗi sợ hãi thấm đẫm mỗi centimet trên người tôi không chút nương tay, nó rất tàn nhẫn, và nó cũng là hy vọng tốt nhất của tôi để vượt qua trận chiến này.

Đó là cách duy nhất để chiến đấu với Mimic. Tôi chẳng biết gì về các cuộc chiến khác, và nói thẳng, tôi cũng chả quan tâm. Kẻ thù của tôi là kẻ thù của nhân loại. Những cái khác không quan trọng.

Nỗi sợ hãi chưa từng rời bỏ tôi. Cơ thể tôi run rẩy trước nó. Khi tôi cảm thấy sự hiện diện của kẻ thù bên ngoài phạm vi quan sát, tôi cảm thấy gai ốc nổi dọc xương sống. Ai đã bảo tôi nỗi sợ hãi có cách để thấm vào trong cơ thể ấy nhỉ? Là tiểu đội trưởng ư? Hay là Ferrell? Có lẽ đó là những gì tôi nghe được trong lúc huấn luyện.

Nhưng kể cả khi sợ hãi gặm nhấm lấy tôi thì nó cũng vỗ về tôi, xoa dịu cho tôi. Những người lính không biết sợ hãi sau khi adrenaline tràn lên não không thể sống sót. Trong chiến tranh, sợ hãi cũng như người phụ nữ mà mẹ bạn thường bảo bạn phải cẩn thận. Bạn biết cô ấy với bạn không thể đi đến đâu, nhưng bạn không tài nào từ bỏ cô ấy. Bạn phải tìm cách chấp nhận, bởi vì cô ấy sẽ không đi đâu cả.

Đại đội #17 thuộc Tiểu đoàn #3, Trung đoàn #12, Đơn vị Bộ binh Vũ trang #301 là những con tốt thí. Nếu tiền tuyến tập kích thành công, cuộc bao vây của Mimic sẽ cuốn trôi chúng tôi như dòng nước chảy xiết chảy vào con mương cạn. Nếu nó thất bại, chúng tôi sẽ trở thành những kẻ cô đơn giữa một biển quân thù. Dù chuyện gì xảy ra thì xác suất sống sót của chúng tôi đều không đáng kể. Đội trưởng biết điều đó, và Trung sĩ Ferrell cũng vậy. Cả đại đội được ghép lại từ những người lính sống sót sau cuộc tàn sát tại Okinawa. Còn sự lựa chọn nào tốt hơn cho nhiệm vụ một đi không trở lại đây? Trong một đợt hành động điều động hai mươi lăm ngàn Chiến giáp, nếu một đại đội 146 người bị quét sạch thì nó thậm chí còn không đáng để được viết trên mẩu giấy nhớ trên bàn của mấy gã thượng cấp trong Bộ Quốc Phòng đâu. Chúng tôi là những con cừu thí mạng lấy máu của bản thân bôi trơn cho bánh xe chiến tranh.

Tất nhiên, chỉ có ba loại trận chiến: hỗn loạn, cực kỳ hỗn loạn, và hỗn loạn ngoài sức tưởng tượng. Giật mình chẳng có ích gì cả. Bao nhiêu là thứ hỗn độn vây quanh. Chiến giáp y như vậy. Đồng đội y như thế. Kẻ thù y như vậy. Bản thân tôi y như vậy, cơ bắp tôi vẫn thế, vẫn chưa sẵn sàng đáp ứng những gì tôi đòi hỏi và gào lên kháng nghị.

Cơ thể tôi không bao giờ thay đổi, nhưng hệ điều hành điều khiển nó đã được cải tiến toàn bộ. Tôi bắt đầu từ một tay lính mới còn non xanh, một con búp bê giấy dễ dàng bị cơn gió chiến tranh quét sạch. Tôi trở thành một người kì cựu có thể bẻ cong cuộc chiến theo ý mình. Tôi mang trên vai trách nhiệm và trở thành một cỗ máy giết chóc trong những trận chiến không hồi kết –– một cỗ máy chạy bằng máu và dây thần kinh thay vì dầu và dây điện. Một cỗ máy không bao giờ rối trí. Một cỗ máy không khóc. Một cỗ máy mang nụ cười chua chát trên môi hết ngày này qua ngày khác. Nó đọc vị được trước diễn biến trận chiến. Đôi mắt nó rà soát tìm kẻ thù tiếp theo trước cả khi nó giết xong con đầu tiên, và trong đầu nó đã nghĩ về con thứ ba. Nó không may mắn, và cũng chẳng xui xẻo. Nó vẫn thế. Nên tôi tiếp tục chiến đấu. Nếu cái này tiếp tục trong vô tận, thì tôi sẽ tiếp tục trong vô tận.

Bắn. Chạy. Đặt một chân xuống, rồi chân kia. Tiếp tục di chuyển.

Một mũi giáo xé không bay tới chỗ tôi vừa đứng 1/10 giây trước. Nó cắm sâu xuống đất trước khi nổ tung, bắn hết cả cát lẫn bùn lên không trung. Tôi nghỉ một lát. Kẻ địch không thể nhìn xuyên qua cơn mưa bùn ­­–– tôi thì có thể. Đây rồi. Một, hai, ba. Tôi hạ gục lũ Mimic qua tấm rèm làm từ bụi.

Tôi vô tình đá phải một gã đồng đội –– kiểu đá mà bạn dùng để mở cửa ra khi cả hai tay đang bận. Tôi có một khẩu súng bên tay trái và một chiếc rìu chiến bên tay phải. May mà Chúa cho chúng ta hai tay và hai chân. Nếu chỉ có tam chi mà không phải tứ chi, tôi sẽ không thể giúp được gã quân nhân này, dù hắn là ai.

Vừa quay lại, tôi liền tung một cú chém bổ đôi một con Mimic khác. Tôi chạy tới chỗ người lính đã ngã xuống. Trên giáp hắn ta in hình một con sói đội vương miện –– là đại đội #4. Nếu họ ở đây tức là chúng tôi đã gặp phải lực lượng tập kích chủ lực. Tiền tuyến đã từ bỏ chúng tôi.

Hai vai tay lính đang run rẩy. Hắn ta đang sốc mạnh. Không biết là do tụi Mimic hay là do cú đá của tôi nữa. Hắn ta đã bị cả thế giới lãng quên. Nếu tôi để hắn ta tại đây, ba phút sau hắn ta sẽ chỉ còn là cái xác.

Tôi đặt tay lên giáp vai và thiết lập đường dây liên lạc.

“Mày nhớ bọn tao đã sỉ nhục tụi mày với tỉ số bao nhiêu trong trận đấu đó chứ?”

Hắn ta không trả lời. “Bọn mày đã thua Đại đội #17 đấy.”

“Gi...gì cơ?” Tiếng nói như được nạo vét từ cổ họng.

“Trận bóng bầu dục. Mày không nhớ à? Kết quả của trận đó còn được lưu lại trong hồ sơ nội bộ, nên tao đoán bọn tao phải thắng bọn mày bèo cũng hai chục điểm.”

Tôi nhận ra tôi đang làm gì.

“Mày biết không, buồn cười thật, tao lại đi đứng nói chuyện với mày như thế này. Này, mày có nghĩ cô ta sẽ bắt tao chịu trách nhiệm khi ăn cắp ý tưởng của cô ta không? Không biết cái này đã được cô ta đi xin cấp bằng sáng chế chưa nữa.”

“Cái gì? Mày nói cái quái gì thế?”

“Mày sẽ ổn thôi.” Hắn ta bình tĩnh lại rất nhanh –– hắn ta không phải là tay lính mới như tôi hồi đó. Tôi vỗ vào lưng hắn. “Mày nợ tao đấy, Đội #4. Tên mày là gì?”

“Kogoro Murata, và tao chả nợ mày cái qué gì sất.”

“Keiji Kiriya.”

“Thái độ thế đấy à. Tao không hẳn đã thích đâu.”

“Giống nhau thôi. Hy vọng chúng ta còn đủ vận may.”

Chúng tôi đấm tay nhau và tách ra.

Tôi vuốt mồ hôi trên trán. Tôi chạy. Tôi kéo cò. Đã một lúc lâu rồi kể từ khi cơ thể tôi kiệt sức, nhưng một góc nào đó trong tôi vẫn kiên trì gia tăng sự tỉnh táo, vốn là điều không thể trong điều kiện thường. Tâm trí tôi như một cái băng chuyền, chọn những quả táo ngon khỏi những quả táo sâu –– bất kỳ mẩu thông tin nào không cần thiết để sống sót đều được tự động loại bỏ.

Tôi thấy Rita Vrataski. Cơn chấn động sau một vụ nổ báo trước sự xuất hiện của cô nàng. Một quả bom định vị laser rơi từ trên máy bay xuống, cách xa chỗ kẻ thù. Nó bọc lót khoảng cách giữa chúng tôi trong khoảng hai mươi giây, nổ tung ngay chỗ Valkyrie chỉ định.

Rita lao tới chỗ quả bom rơi xuống, nơi tràn ngập những mảnh vỡ, có sống có chết. Từ hố bom, những sinh vật kia lúc nhúc lao tới chiếc rìu chiến của cô ta.

Dù đang giữa trận chiến, nhìn chiếc Chiến giáp đỏ của Rita vẫn khuấy động gì đó trong tôi. Riêng sự tồn tại của cô ta đã thổi một luồng sức sống mới cho chiến tuyến đã tan nát của chúng tôi. Kĩ năng của cô ta quả thật là có một không hai, đây là thành quả của Đặc Công Hoa Kỳ, tạo ra một người lính vượt trội hơn hết thảy. Nhưng còn hơn thế nữa. Cô ấy thực sự là vị cứu tinh của chúng tôi.

Trên chiến trường, một cái liếc mắt từ Chiến giáp của cô ta có thể khiến những người lính thêm mười phần trăm sức mạnh, dù anh ta có kiệt quệ tới mức nào. Tôi dám cá có đầy gã sau khi nhìn thấy cô ấy liền yêu luôn, cứ như một nam một nữ nhìn nhau trên con thuyền đang chìm giữa những con sống vậy. Trên chiến trường, cái chết có thể tới bất kỳ lúc nào, nên tại sao không bất chấp hết mà yêu nhau đi? Những gã khôn ngoan đặt cho cô ta cái tên Full Metal Bitch chính là vì vậy đấy.

Tôi không nghĩ họ nói đúng. Hoặc có thể bản thân tôi đã có tình cảm gì đó với Rita Vrataski cũng nên. Với tôi thế cũng không sao. Kẹt trong chuỗi vòng lặp khỉ gió này, tôi chẳng có chút xíu hy vọng nào cho tình yêu hết. Những vòng lặp lấy đi mọi phút giây tôi dành cho người khác.

Rita đã cứu tôi một lần, từ lâu rồi. Cô ấy giúp tôi bình tĩnh lại bằng câu chuyện nhảm nhí về món trà xanh. Cô ấy bảo tôi cô ấy sẽ ở bên cạnh tôi cho tới khi tôi chết. Còn mục tiêu nào tốt hơn cho mối tình đơn phương của tôi ngoài vị cứu tinh của chúng ta đây?

Hệ điều hành của cơ thể tôi tiếp tục tự động phản ứng, mặc dù tôi đang bị cảm xúc làm cho lơ đãng. Cơ thể tôi vặn vẹo. Tôi đạp một chân xuống đất. Tôi không cần phải suy nghĩ về trận chiến bày ra trước mắt. Suy nghĩ chỉ tổ vướng víu. Quyết định di chuyển theo hướng nào và như thế nào là những chuyện bạn làm trong luyện tập. Trong trận chiến mà bạn ngừng lại suy nghĩ thì Thần chết sẽ đứng đó chờ bạn, sẵn sàng vung chiếc lưỡi hái xuống.

Tôi tiếp tục chiến đấu.

Đã bảy mươi hai phút kể từ khi trận chiến bắt đầu. Tanaka, Maie, Ube và Nijou đều đã chết. Bốn người chết, bảy người bị thương, không ai mất tích. Nijou là người treo tấm poster cô người mẫu đồ bơi lên tường. Maie đến từ đâu đó sâu bên trong Trung Quốc. Hắn ta chả bao giờ mở miệng. Tôi không biết nhiều về hai người còn lại lắm. Tôi khắc sâu khuôn mặt của những người tôi không bảo vệ được vào trong óc. Trong vài giờ tới cơn đau của họ sẽ mất, nhưng tôi vẫn sẽ nhớ. Như một cái dằm đâm sâu vào tim tôi, tôi luyện tôi cho trận chiến tiếp theo.

Hình như tiểu đội của tôi đã co cụm lại với nhau. Tôi có thể nghe tiếng dao phay xé gió ở đằng xa. Họ vẫn chưa bị bắn bay đi. Đây là vòng lặp tốt nhất cho tới nay. Đội trưởng chẳng có lời gì để nói với tay lính mới dám tự tiện quyết định mọi việc. Từ đấy đến giờ Ferrell luôn bắn vài loạt đạn để yểm trợ tôi.

Và rồi tôi thấy nó –– con Mimic tôi đã chiến đấu trong trận đấu đầu tiên khiến tôi kẹt trong cái vòng lặp chết tiệt này. Tôi bắn ba mũi khoan phản lực vào nó vào ngày hôm ấy. Tôi không biết là vì sao, nhưng tôi biết đó là nó. Khoác lớp da như xác ếch bên ngoài không khác gì những con còn lại, nhưng tại đây, sau lần thứ 157 trải qua các vòng lặp, tôi vẫn nhận ra được con Mimic đã giết tôi trong lần đầu tiên.

Nó phải chết vì tôi thích thế.

Dường như tôi biết nếu tôi có thể giết nó, tôi sẽ vượt qua được một giới hạn nào đó. Có thể nó sẽ không phá vỡ được chuỗi vòng lặp hết trận chiến này tới trận chiến khác, nhưng sẽ có gì đó thay đổi, dù là rất nhỏ. Tôi chắc chắn

Ở yên đó. Tao đang tới chỗ mày đây.

Nhân nói chuyện vượt qua giới hạn, tôi vẫn chưa đọc tiếp cuốn tiểu thuyết kì bí đó. Không hiểu vì sao tôi lại làm vậy, nhưng tôi đã làm vậy. Tôi đã dành những giờ đồng hồ quý giá cuối cùng để đọc cuốn tiểu thuyết đó. Tôi đã dừng ngay trước đoạn tay thám tử chuẩn bị tiết lộ hung thủ. Tôi đã quá tập trung vào luyện tập mà không còn để ý tới nó nữa. Có lẽ cũng đã gần một năm rồi. Có lẽ đây là lúc tôi đi đọc nốt cuốn sách đó. Nếu tôi giết con Mimic này và đạt tới cấp độ tiếp theo, tôi sẽ đọc nốt chương cuối.

Rìu chiến sẵn sàng trong tay. Mặc kệ hết thảy, tôi lao tới.

Tín hiệu truyền về từ tai nghe. Ai đó đang nói chuyện với tôi. Là phụ nữ. Đó là vị cứu tinh của chúng ta, Full Metal Bitch, Valkyrie tái thế, Wargarita Điên loạn –– Rita Vrataski.

“Này, đây là vòng lặp thứ bao nhiêu rồi?”